Người
biên khảo đất La Sơn xuất thân Sorbonne năm 1936, qua gia sản
Hán Nôm, ông vừa khảo luận xong về bà Hồ Xuân Hương,
nay bắt qua bà huyện, vì hai bà cùng ở Tây Hồ. Thêm
nữa, ông lễnh đễnh đến
người đạo diễn Trần Văn Thủy quay phim Hà Nội trong
mắt ai tình cờ tìm được mộ bà Đoàn Thị Điểm tại
làng Nghi Tàm. Làng của bà huyện. Vì vậy ông nghĩ phải về
Hà Nội để tìm hiểu một số nghi vấn văn học. Nếu như
gặp bậc thức giả nào đấy văn kiến súc tích, sở kiến
cao minh để ông kiến văn sở thị thì hay biết mấy. Để
biên tác về bà huyện Thanh Quan, ông không theo cảm tính, nhưng
đôi khi phải dựa dẫm vào tâm linh, như hỏi...đồng cô bóng
cậu chẳng hạn.
Về đến
nơi nghe nói trong đền công chúa Từ Hoa có thần phả ghi
chép gốc tích bà huyện.
Ông bước vào chính điện, gặp một cụ áo lương khăn lượt,
tay phe phẩy cái quạt xếp ắt là...cụ Từ giữ đền. Ông
húng hắng ho đánh tiếng, cụ quay lại, bạ vào vào mắt ông
cái thẻ bài ngà đeo trước ngực. Ông nhũn não nếu
đeo thẻ bài kim khánh là quan quả triều đình, không bộ Lễ,
bộ Hình thì cũng...bộ binh. Ông chào cụ và hỏi sự tích
bà huyện. Cụ nhìn ông như nhìn người cõi trên, vung cái
quạt chỉ ra ra sân sau. Ông ớ ra nhìn thấy tấm bia chỉ có
hàng chữ quốc ngữ: "Phần mộ bà huyện Thanh Quan". Không
có năm sinh ngày mất.
Tiếp, ông
thổ lộ...thổ ngơi ông ở La Sơn, Hà Tĩnh. Đường họan
lộ không ngoài biên khảo như đếm củ dưa hành đo lọ nước
mắm vậy thôi. Cụ gật gù có nghe ông làm việc với hội
Truyên
bá chữ quốc ngữ dậy i tờ...rít, với "a" là...quả na,
"b" là...con bò. Ông lụi đụi ông không phải là... "con bò"
và vấn danh cụ. Cụ khủng khẳng thời buổi này có danh thì...dễ,
không có danh mới...khó. Nghe tức như bò đá! Tuy nhiên ông
thấy cụ cũng hay chữ...quê mùa quá lắm, nên ông đạo đạt
muốn có dữ kiện để biên tác về bà huyện qua...đồng
cô bóng cậu. Vì nghe hơi nồi chõ có cô bé đang bì bạch
tắm truồng, đột nhiên ngã cái...bạch, đụng đầu vào chum
nước. Tỉnh dậy biết mọi chuyện thiên cơ bất khả lậu.
Nghe rồi cụ quơ cái điếu cày, cái bong bóng lợn bỏ vào
giỏ mây. Xong, móc cái "cùi bắp" trong giải rút quần và ới
chiếc "xe con".
Cụ nói bác
lái xe...lái xe đến Phủ bà Chúa Liễu ở giải đất nhô
ra hồ Trúc Bạch để nhúm một cô đồng. Xe xuống bãi Phúc
Xá bên sông Hồng và...xuống thuyền. Ông láo ngáo sao đi thuyền,
lại mang cái bong bóng lợn xẹp lép theo? Thuyền xuôi nam. Để
thăm chừng, ông dọ dẫm cụ về học thuật của ngành biên
khảo nên duy lý vì trong sách vở không nói bà huyện vào kinh
dậy học bằng cách nào? Theo ông..."luận giải" bà đi bằng
thuyền. Cụ rất tâm đắc với ông vì bà...đi thuyền, hay...đi
bộ cũng tới Huế.
Sau đấy
cụ ậm ừ...ừ thì muốn hỏi gì hãy hỏi cô đồng. Mặt
ông đực ra trông thấy, và...lực đực rằng chỉ hỏi một
câu mà phải bơi ra giữa biển mới kiến ngã được nhẽ
ấy? Nhưng ấy là chuyện sau. Ông ngồi xuống chiếu, ngáo
ệch nhòm trước mặt cô cái đĩa có cái chân gà khô queo
khô quắt. Cô cúi mặt xuống chiếu khấn âm dương hồi lâu.
Cô cúi đầu lạy cái chân gà quắt queo và ông ba lạy như
tế sống...ông.
Xong đâu
đấy, đầu tóc cô rũ rượi lắc lư...như lên đồng, miệng
xúyt xoa khấn Lạy bà, bà ở trên
ngàn - Thương con đệ tử trần gian bà về.
Bà về, cô lạy thánh mớ bái bà, bà dậy rằng bà huyện
mượn hình ảnh cố đô Thăng Long qua ông huyện Thanh Quan nghìn
năm gương cũ soi kim cổ. Thời
bà, làm thơ để cùng bằng hữu ngâm vịnh nên không đặt
tựa đề, bạn bình thơ tác phú của bà gọi là "Quá phu quân
cố lỵ cảm tác", nôm là qua chốn
chồng làm quan cũ, người sau đặt
tên văn vẻ là...Thăng Long hoài cổ.. Với ai đấy bà
có những 6 bài thơ (1).
Nhưng theo thánh dậy bà chỉ có 4 bài: Thăng
Long Hoài Cổ; Chiều Hôm Nhớ Nhà, Qua Chùa Trấn Bắc và Qua
Đèo Ngang. Trong 4 bài thơ đó, trừ
bài Qua Đèo Ngang, 3 bài kia có nhiều
thành ngữ chữ Hán.
Ông len chân
vào chuyện bài Qua Đèo Ngang.với câuDừng
chân ngoảnh
lại trời non nước. Nhưng các
sách từ trước đến nay đều chép là "Dừng chân đứng
lại...". Cô vẫn
giọng ái nam ái nữ: Xá lầm, xá
lú, xá mê - Trần gian bà về, bát nhã thuyền huê
và lên cơn đồng thiếp chữ nghĩa mà rằng bà huyện qua khỏi
Đèo không nỡ dứt tình đi luôn. Mà phải "Dừng chânngoảnh
lại" thì thi vị, ý thơ mới gia
tăng. Cô vừa tròn vành rõ chữ đến
đây, vừa lúc sắp đến đèo Ngang thì "cô" thăng. Cô thăng
tới đuôi thuyền vẫn còn đồng bóng tiếp: Lạy
bà! Bà đẹp chín nghìn – Trăng còn thua sáng, hoa nhìn kém
tươi. Và ông đoán chừng "Bà đẹp
chín nghìn" đây là...bà chúa Liễu.
Qua Hà Tĩnh
tới địa phận Quảng Bình, thuyền cập bến. Xưa hải thuyền
nhà Nguyễn trú quân ở nơi này, nên có tên chợ Đồn. Nhưng
chợ không còn nữa, vắng tanh vắng ngắt chỉ tòan biển xanh
cát trắng, không nhà không cửa. Ấy thế may có...làng Vạn
Chài là làng có tên mà không có đất, những "làng" này lênh
đênh trên thuyền trên biển, khi tan khi hợp từ Hải Phòng
xuống Quảng Nam. Cụ Từ mua rượu Kim Long (rượu
Quảng Trị) trên thuyền của dân chài
san vào cái bong bóng lợn.
Cụ rủ ông
leo lên đèo Ngang, dọc theo con dốc thoai thỏai. Ông hóng mắt
vào bụi rậm tìm con..."quốc quốc" là "tác nhân" đã kết
cấu lên thơ của bà. Ông luận với cụ bài thơ của bà huyện
với "quốc quốc","gia
gia"
có thể từ Trần Danh An, sống
vào thời Lê Trịnh, lúc theo vua Chiêu Thống chạy sang Tàu:
Chúa một nơi. Tôi một nơi. Trước thời thế ấy nên Trần
Danh An gói ghém tâm sự di thần của mình vay mượn hai câu
chữ Hán: "Dạ thính đỗ quyên minh cuốc
cuốc - Nhật
văn cô điểu khiếu gia gia":
Vì vậy trong thơ Trần Danh An có hai câu: Giá
cô kêu gia gia
- Đỗ quyên kêu cuốc
cuốc là vậy.
Ông..."luận
ngữ" từ con đỗ vũ kêu cuốc cuốc, chim
giá cô hay gà gô gọi gia
gia, là hai chữ đối cảnh trong
nỗi nhớ nhà. Cụ mà rằng: Chữ nghĩa cụ lờ đờ như gà
ban hôm nên chả biết con giá cô,
con
gà gô là giống giuộc gì? Ông chắc
như bắp luộc con "gia gia" là...con đa đa. Từ tích con gái
đi lấy chồng xa...nhà.
Còn con giá cô là gà gô hay con gà
cồ tức con gà Gaulois ở bên Tây
đậu trên nóc nhà thờ.
Cụ kỳ cổvào
thời bà huyện có hai chữ..."quốc gia" không? Ông búi bấn
qua câu nhớ nước
đau lòng con quốc quốcthì:
"nước" đối với "quốc". Thương
nhàmỏi
miệng cái giagia
thì: "nhà" đối với "gia". Còn "con" ở câu trên đi với "cái"ở
câu dưới chỉ là đối chữ thôi, là thể đối thơ có tên
"gối hạc". Tiếp, ông quắn đầu với giám mục Pugunier thế
kỷ 17 viết: "Tiếng Việt-nam kêu:
cuốc
ngữ". Vì thời đó chữ Việt theo
chữ La-tin chưa có chữ "q". Phải đợi đến J.L Taberd (1837-1898)
trong Nam Việt dương hợp tự điển mới
có "q" thay cho "c" để có "quốc
ngữ" hay "quốc gia".
Năm 1907,
ông Lê Văn Phát đưa ra văn bản Le Râle d’eau: Một
văn nhân vô danh đi qua đèo Ngang, nhớ lại chuyện
xưa, đã làm bài thơ "Đèo Ngang".
.
Chuyện kể
Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ ở Đèo Ngang. Vua La Hoa
trúng tên chết. Cận thần Quốc Quốc xông ra lấy xác bị
chết theo. Sau hồn Quốc tái sinh là con cuốc cất tiếng kêu
bi ai: "Quốc Quốc, La Hoa, Quốc ở đây, còn La Hoa ở
đâu?".
Qua ải Đèo
Ngang bóng ác tà
Cỏ cây
chen đá,
lá chen ba
Non cao rải
rác tiều vài lão
Đất rộng
bao la xóm mấy nhà
Nhớ chúa
đau lòng con Quốc-Quốc
Kêu người
mỏi miệng tiếng Hoa-Hoa
Dừng chân
ngóng cổ miền non nước
Một tấm
lòng riêng ta với ta
Bởi thế
ông ngờ bà huyện nghe truyền khẩu bài Đèo Ngang trên,
bà trau chuốt lại để có bài Qua Đèo Ngang với cỏ
cây chen lá, tiều vài chú. Vừa
lúc leo tới đỉnh đèo, chọc vào mắt ông cái cổng Giời
do Minh Mạng xây, tên nho táo là cổng Đại Nam hay Hòanh Sơn
quan. Ông thả bộ bước qua cổng Giời: Phần
đất phía bắc thuộc huyện Kỳ
Anh, tỉnh Hà Tỉnh quê
ông. Phần đất phía nam thuộc huyện
Quảng Trạch, tỉnh Quảnh Bình.
Ông lễnh đễnh đèo Ngang được cả huyền sử lẫn chính
sử nhiều lần nhắc đến. Bởi từ thế kỷ thứ II, khi người
Chămpa lập quốc đèo này đã trở thành biên giới của Đại
Việt và Lâm Ấp. Người Chiêm Thành không ngừng đắp đồn
lũy dọc theo đỉnh núi, từ Kỳ Lạc
qua Kỳ Nam.
Kể từ thời đó "Lũy cổ Lâm Ấp"
là chiến địa của hai bên. Một trong trận chiến ấy
Chiêm Thành đem quân đánh Giao Chỉ ở ở đây, vua La Hoa tử
trận để có ấn tích bài thơ "Đèo Ngang" của một văn nhân
vô danh. Dấu tích của một vùng biên ải vẫn còn hiển hiện
qua những bức tường thành chỗ còn chỗ mất rêu phong còn
sót lại trên đèo.
Đèo Ngang
cách sông Gianh chảy qua Quảng Bình27 cây số đường chim bay.
Sau đấy cuộc chiến Trịnh Nguyễn chẳng ngắn ngủi gì vì
nó kéo dài tới 12 năm tàn khốc ở hai bên đèo Ngang. Cuối
cùng chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần đề nghị bãi chiến
với chúa Trịnh và lấy đèo Ngang là giới tuyến phân chia
Đàng Ngòai và Đàng Trong.
Khi bà huyện
đến đây, dấu tích gạch ngói, thành quách còn đâu đó từ
thời vua La Hoa. Thêm di tích sông Gianh xa xa mờ nhân ảnh bà
tức cảnh sinh tình để có bài Qua đèo Ngang với bóng
xế tà, cỏ
cây chen lá, tiều vài chú như ông
đắng đót vừa rồi.. Ấy là ai đấy
viết thế, nay ông sa đà thêm với bài Quốc văn diễn giảng
ngày 2/3/1939, Tản Đà: "...Thơ bà huyện Thanh Quan, 2 câu
tam tứ chúng ta thường nghe rằng: "Lom
khom dưới núi, tiều vái chú / Lác đác bên sông, chợ mấy
nhà". Mới đây tôi được nghe một ông bạn
nói chuyện từng trông thấy một bản chữ Nôm thời xưa chữ
thứ 5 câu tứ (4) là chữ "rợ" chứ
không phải "chợ". Tôi hỏi nữa thời nói: Nguyên văn viết
chữ "nhân đứng" bên chữ "trợ"
. Như thế thì "rợ" mới thực phải, mà rợ
đối với chữ tiều mới cân, chỉnh hơn. Nhân nghĩ
lại, tôi chê thơ bà văn tả cảnh không được sát thực
lắm...".
Trở lại
chỗ cũ, cụ Từ ngồi dưới gốc cây trước cổng Giời,
cạnh hòn đá tảng. Ực một hơi rượu Kim Long, bắn vài bi
thuốc lào, cụ đang âm ỉ hoài đồng vọnn dừng
chân đứng lại. Nghe vậy, ông
đứng lên nhìn xuống phía dưới nằm dưới chân đèo hồi
nãy. Đảo mắt xuống bến bờ, vắng tanh vắng ngắt chỉ
tòan biển xanh, cát trắnq. Ông tự hỏi ông nhìn không thấy
gì thì từ trên cao xa đất gần giời thế này, từ 250 thước
trên đèo, bà huyện sao mà nom dòm ở đâu ra...tiều
vài chú, lác đác bên sông rợ mấy nhà.
Thế nên
ông đành ôm rơm rặm bụng với đọan văn: "...Đọc
mấy lời của Tản Đà tiên sinh, một túc nho đã từng qua
lại Đèo Ngang là cụ Ngô Văn Nhượng ở Diên Khánh cho hay:
Dọc đèo Ngang, một bên là núi, một
bên là biển, chớ không có chợ". Cặp trạng trong
bài thơ tôi nghe truyền là Lom khom dưới
núi tiều vài chú - Lác đác trên dông
rợ mấy nhà. Đứng về mặt thực cảnh thì câu
"rợ mấy nhà" và "chợ mấy nhà" đều hay. Song đứng về
mặt văn chương không ổn. Bởi vì ai
lại nói nhà chợ bao giờ ? ..."
Vừa lúc
cạn chén hạt mít, cụ nén viên thuốc lào nhét vào ống điếu,
châm lửa, thổi ra khói. Nhìn xuống chân đèo, cụ râm ran
qua khói thuốc, qua luống đoạn trường: một
mảnh tình riêng, ta với ta...Ông
nhủ thầm: Một mảnh tình riêng nào đây? Nhưng chưa tiện
hỏi...Vì ông có cảm nhận, cảm quan y như cụ Ngô Văn Nhượng
tả, ông đi trên ngọn đồi trơ trụi, khô khan thật vì bên
này là biển, xa xăm là mũi Ròn, hòn La, vũng Chùa, đảo Yến.
Bên kia xa tắp là dẫy Trường Sơn dựng đứng cao cả ngàn
thước. Đâu đó có tiếng chim núi kêu xao xác mệt mỏi, não
nề. Ông làm như nghe tiếng cuốc kêu như cuốc gọi hồn với
nỗi niềm thương nhà nhớ nước. Niềm hoài cổ đang chầu
chực sẵn với ông, gần nửa đời người ông mới có mặt
ở nơi chốn này. Vậy mà không như bà huyện, ông chả thấy...con
chim cuốc nào. Ông bày tỏ "nỗi niềmi" này với cụ...Cụ
chép miệng cái bép thổ ngơi ông ở Hà Tĩnh, ở Tây lâu quen
thói nên đụt ra, ông đâu có hay: Giống chim cuốc mỏ cong,
đuôi dài, lưng màu tro, bụng sắc trắng. Nó thường lủi
trong bụi rậm gần ao sâu, đầm
ao hoặc hồ...như ở Tây Hồ của
bà huyện chẳng hạn. Chứ ở đèo Ngang với núi rừng khô
không khốc làm quái gì có chim cuốc. Qua cụ, ông biết để
bụng và không viết vào thiên cổ kỳ bút rằng: đèo
Ngang không...chim cuốc.
Thế nhưng
ông cứ óc ách vì đèo Ngang rừng núi khô khan. Ấy thế mà
biết bao tao nhân mặc khách dạt dào cảm xúc thở ra thơ.
Thảng như cụ Chu Thần-Cao Bá Quát lên "Ải Hoành Sơn" cảm
khái Thành cũ trăm năm vững/ Ải
xa nghìn dặm dài/ Chim về rừng lác đác. Thế
kỷ XV, vua Lê Thánh Tông với "Qua đèo Ngang" viết:
Cuộc cờ kim cổ chừng bao nả/ Non nước trông qua vẫn bấy
nhiêu. Nói cho ngay, ông tâm đắc
với vua Lê câu mở đầu Bãi thẳm
ngàn xa, cảnh vắng teo như ông
đã dòm thấy ngay đây.
Thì ngay đây...Ong
phải tạt vào mảng đất trống để nhường chỗ chođàn
trâu núi mươi con đi qua. Trên cổ
con to nhất đeo "cái mõ", theo bước chân trâu, phát ra tiếng
"leng keng...leng keng... ". Ông ngớ ra sao mõ lại kêu...leng keng.
Bèn hỏi. Cụ cho hay đó là âm thanh của dùi sắt gỏ vào
vỏ mảnh bom B52, ấy là dụng cụ tạo âm thanh của làng quê
miền núi vào thời chiến với Mỹ. Cụ hấm húi thêm trâu
núi chả cần gõ sừng, mục tử
lại cô thôn, cứ để thả rong
đi tìm cỏ. Ăn xong, đàn trâu theo tiếng leng keng của con trầu
đầu đàn về làng. Vậy ở đây có làng ư?. Thế là ông
lẽo đẽo theo đàn trâu đi xuống triền dốc. Ông bắt gặp
dưới chân Hoành Sơn Quan, cách khoảng chừng 500 thước về
phía nam không có...làng mạc gì sất, chỉ có đền thờ....bà
chúa Liễu. Ngôi đền đã góp phần tăng thêm cái thâm u, trầm
mặc, trầm tích cho con đèo có tên đèo Ngang.
Trên đường
trở về, ông ngẫm nguội những mảnh bom B52 ở lỗ nẻ nào
chui lên?
Về lại
ngồi dưới gốc cây, ông thầm cảm hòai kẻ
chốn Chương Đài, người lữ thứ
vì ông Cống Lưu Nghi mất trước bà. Bởi đầu óc ông váng
vất với lấy ai mà kể nỗi hàn
ôn? Nên ông hàn ôn với cụ qua
sở học của ông bấy lâu bà là vợ ông Lưu Nghị (1804-1847)
đỗ cử
nhân thời Minh Mạng năm thứ 2. Theo sách vở (Việt
văn giáo khoa thư) bà được vờivào
kinh dậy học.Khi ông Lưu Nghị mất.Bà về lại Nghi
Tàm, và mất tại đây.
Bỗng không
cụ Từ đong đưa chén rượu, vắn hai dài một...
- Nhà biên
khảo nào đó dựng chuyện "bà ấy" với giai thọai Phó
cho con Nguyễn thị Đào...Thêm mấy
nhà học giả, học thuật...thuật lại nhờ có tài văn chương
lỗi lạc "bà ta" được vời vào kinh làm giáo tập.
Ấy tôi chỉ biết về bà ấy thế thôi, thưa Thầy.
Ông trộm
nghĩ cụ già rồi nên đốc chứng gọi bà huyện lúc "bà ấy",
khi "bà ta". Định hỏi chuyện...ta bà cho ra nhẽ. Hốt nhiên
cụ cười hụt một cái..
- Thôi thì
trăm sự chẳng dấu gì Thầy.
Cụ vỗ vai
ông thân mật:
- Tôi là
ông huyện Thanh Quan đây.
Ông muốn
nhẩy nhổm lên và líu lưỡi:
- Cụ là
..là ông Cống Lưu...Lưu Nghi.
Như ông già
ngồi lù rù như cái nấm mọc trên hòn đá, cụ thiên cổ
kỳ án...
- Bạn đồng
liêu với Thầy (Thanh Lãng) gọi
tôi là Lưu Nghi. Ai khác đặt tên tôi là Lưu Nguyên Uẩn. Nên
chót chét tôi chả biết tôi là ai nữa. Thế đấy, thưa Thầy.
Ông đang
ngớ ra, thì...cụ Từ. Ấy quên, quan huyện đơm chuyện...
- Thầy dậy
suy luận vô căn cứ là nguyên nhân dẫn tới sai lầm của
nhà biên khảo.
Ấy thế
mà Thầy đóan mò tế quán (vợ) tôi
đi thuyền. Chuyện tôi muốn thưa với Thầy thuở xa xưa, đường
vào Huế là con đường mòn qua sông, qua suối, nhiều khi phải
luồn lách trong rừng rậm nên chông gai lắm. Thảng như đồng
môn tôi từ Hà Đông vào Huế thi Đình mất những một tháng
hai mươi ngày (Bút nghiên – Chu Thiên).
Vì vậy tôi phải thảo thư gửi gấm các quan huyện đồng
liêu trên đường đi. Gặp các bà huyện giữ lai hàn huyên,
mỗi nơi, mỗi chốn mất ba, bốn ngày là ít. Nói cho cùng,
tế quán tôi có tới Đèo Ngang để vào Huế hay không là...chuyện
khác.
Ông trộm
vía quan...quan đây chỉ ngụp lặn trong chốn quan trường,
trên đường họan lộ làm quan ở huyện Thanh Quan là hết
đất. Ắt hẳn quan đi guốc vào bụng ông nên...vỗ ông đến
rát mặt: "Cái đáng hỏi thì không hỏi". Nói rồi quan cho
hay chuyện đáng hỏi lại không hỏi là: "huyện Thanh Quan có
gì?". Tiếp đến quan huyện gọ gạy mà rằng: huyện Thanh
Quan nằm ở phía bắc sông Trà Lý, nay là huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình, phía nam là huyện Kiến Xương, sát Nam Định.
Huyện có làng Kỷ là làng cổ, con đường dẫn vào làng được
trải gạch vồ lớn, đó là lệ đóng cheo ngày xưa. Huyện
Thanh Quan có lăng cụ Thượng Quốc, lăng cụ Hàn là những
nhân vật một thời xa xưa.
Ông chưa
kịp hỏi tới nữa, quan...đường ta ta cứ đi:
Theo văn học
sử, tiểu sử tế quán tôi không được đầy đủ lắm như
năm sinh, năm mất. Thêm ông Dương Quảng Hàm trong Việt
Nam văn Hhc sử yếu ghi: không
rõ
họ tên của bà. Nhưng có đọan
khá rõ ràng: "Thời Minh
Mạng (1820-1841),
bà được vời vào kinh dậy công chúa, cung phi. Khoảng một
tháng thì chồng mất". Chuyện vậy
đấy, nhưng khổ nỗi tôi về với ông bà năm
1847, trong
khi Minh Mạng về với tiên đế năm
1841, vì vậy không có chuyện tế
quán tôi vào kinh dậy học thời Minh Mạng". Quan từ
từ như ông Từ vào đền. Vậy mà
gần đây nguồn nào không không rõ (2)
tế quán tôi sinh năm 1805, mất năm 1848.
Thế là có nhà làm văn học
"hiệu đính" lại: "Bà huyện Thanh Quan được Tự Đức (1829-1883)vời
vào kinh dậy học". Quan từ từ khoai cũng nhừ: Thế nhưng
khốn khổ là Tự Đức nào có...con cái đâu. thưa Thầy".
Chả hiểu
sao quan để cái điếu cầy, cái bong bóng lợn nằm...ngất
ngư trên hòn đá tảng. Quan lẩn thẩn đi qua Cổng Giời, thăng
về giời trong u u minh minh
***
Vì đi bằng
thuyền từ chợ Đồn về bãi Phúc Xá đi đi về về hơi lâu,
hơn hai tháng sau, người biên khảo đất La Sơn (1908-1996) (3)
mới
trở lại Paris. Trong thư phòng, nay trên tường treo lủ khủ
cái điếu cày và cái bong bóng lợn. Trên bàn cổ Louis 16,
ông ngồi rị mọ ký sự Bà huyện và đèo Ngang theo
dạng thiên cổ kỳ bút. Bởi thế ông bòn gio đãi sạn
thêm: "Thân thế, sự bghiệp bà huyện Thanh Quan do Dương Quảng
Hàm đưa vào Việt văn giáo khoa
thư được coi như truyền kỳ hơn
là một biên khảo (xem phụ đính 1).
Phan Kế Bính trong Nam hải dị nhân viết: "Nước ta vì
sách biên sót mà không tường, rồi truyền cho nhau, người
sau theo người trước mà nhầm lẫn".
Đột nhiên
đầu ông bật ra câu hỏi: mảnh bom B52 ở lỗ nẻ nào chui
lên?
Mò vào thư
viện Paris, ông tìm ra bài viết của Lê Anh Xuân: "Kể
từ đây, nếu sông Gianh trở thành ranh giới của Đàng Trong
và Đàng Ngoài thì đèo Ngang trở thành vùng đất tiền đồn
của nhà Trịnh. Và gần đây nhất, thời chiến tranh vùng
đất đèo Ngang cũng bị đánh phá ác liệt khiến tôi khắc
khoải "Tôi não lòng Mỹ dội bom
tàn phá/ Dù đèo Ngang tôi chưa từng đến/ Thơ bà huyện Thanh
Quan tôi đã thuộc lòng/ Hoa lá cỏ cây có bị bom cháy xém?/
Mái nhà kia dưới núi có còn chăng? "
Ông nghĩ
vội: Một là ngòai Thăng Long, không địa danh nào có nhiều
chiến sử như đèo Ngang. Nào là chiến trận với Chiêm Thành
khỏang thế kỷ thứ 2. Với Trịnh Nguyễn thế kỷ 17 thời
chúa Nguyễn Phúc Tần (1648-1687). Cuối cùng là thế kỷ 20.
Nhưng ông vắt óc nghĩ không ra đèo Ngang có quái gi để hoa
lá cỏ cây có bị bom cháy xém.
Hai là bởi tác giả chưa đến đèo Ngang, ông đóan chừng
mái nhà kia dưới núi ắt là...đền bà chúa Liễu, ông ngớ
ra trong bút ký quên không hỏi cô đồng chuyện...Thế là ông
thiếp đi rơi tõm vào lỗ hổng của thời gian trở về lại
thẻo đất ở hồ Trúc Bạch có Phủ bà chúa Liễu. Dưới
gốc cầy bàng là quán lợp tranh.
Ở đấy
cô đồng đang đợi ông từ hồi nào.
Ông hỏi
cô bà huyện có lai vãng tới...Nghe thủng rồi, cô chỉ hai
cái chân chim trên cái đĩa. Cô buôn chuyện chim
được bắt ở Hồ Tây chứ chả phải ở đèo Ngang. Cô nói
vấy gì chứ chimgiá cô, gà gô, cuốc
cuốc ở Hồ Tây đông như tổ đỉa. Cô
phơi nắng ba hanh để đợi ông, ngỡ được cô mời sơi chân...
gà gô to bằng bắp ngô. Cô vái hai cái chân chim khô queo quắt
ba lạy, miệng lạy thánh mớ bái Lạy
bà, bà ở trên ngàn - Thương con đệ tử trần gian bà về.
Bà chúa Liễu nhập rồi, cô chồm cả người qua cái chõng
tre. Cô ghé tai ông thì thầm chuyện thiên cơ bất khả lậu
mà ông vừa hỏi:
- Bà huyện
có đi qua đèo Ngang hồi nào đâu.
Thạch
trúc gia trang
Quý Tỵ
2012
Ngộ Không
Phí Ngọc Hùng
(viết lại
2015, 2018, 2021)
Nguồn: Thanh Nguyễn Vân,
Nguyễn Vĩnh Tráng
Quách Tấn, Nhật Hồng Nguyễn
Thanh Vân
Hòang Nguyên Linh, Nguyễn Đức
Cung, Duy Lý
(1)
Phần lớn các sách chữ nôm của các hiệu buôn sách phường
Hàng Gai, Hà Nội. Hoặc các hiệu buôn tại Nam Định, Hải
Phòng trước năm 1930, nhiều sách chẳng biên khảo, chú thích
gì. Vì vậy các lái buôn sách như Lễ Môn Đường, Quảng
Thành thấy sách nào bán chạy, bỏ tiền ra mướn thợ khắc
chữ nôm , chữ quốc ngữ. Thêm nhà Xuân Lan của Nguyễn Ngọc
Xuân, thấy sách nào bán chạy họ in bán. Nằm trong trường
hợp này, bản in thơ Hồ Xuân Hương, bà huyện Thanh Quan đều
không có nguồn hay tên tác giả. Năm 1917, Đông Châu Nguyễn
Hữu Tiến xuất bản Giai nhân di mặc, toàn những chuyện
hư cấu trong đó có giai thoại Hồ Xuân Hương và thơ Hồ
Xuân Hương dĩ nhiên cũng "hư cấu".
Trường hợp bà huyện Thanh
Quan cũng vậy, nguồn từ Dương Quảng Hàm trong Việt văn
giáo khoa thư năm 1940. Ông không dẫn chứng nguồn
tài liệu chuẩn mực nào nên về bà huyện Thanh Quan coi như
truyền kỳ hơn là một biên khảo.
(2) Nguồn
Wikipedia
(3) Hòang
Xuân Hãn
|