Chân dung Hàn Mạc Tử
do Phanxipăng vẽ bút
chì
Mùa
xuân chín của Hàn Mạc Tử là một trong những bài thơ
được nhiều tuyển tập chọn giới thiệu, được bao người
bình phẩm. Suốt thời gian dài, chương trình giảng dạy và
học tập môn Ngữ văn lớp 9 có Mùa xuân chín. Đề
thi học sinh giỏi văn toàn quốc bậc trung học phổ thông
niên khoá 1988-1989 đã yêu cầu phân tích bài thơ này.
Bài thơ Mùa xuân chín
nằm trong phần thứ nhất mang tên Hương thơm nơi tập
Thơ
điên, nhan đề khác là Đau thương. Thi tập nọ chưa
được xuất bản thuở Hàn còn sống, nhưng một số bài thơ
trong tập đã đăng báo đó đây. Mùa xuân chín từng
được công bố lần đầu trên giai phẩm Nắng Xuân, với
bút danh Trọng Minh, ấn hành dịp Tết Đinh Sửu 1937 tại Quy
Nhơn. Vậy Hàn làm bài thơ này bao giờ?
Một bạn thân của Hàn là
thi sĩ Hoàng Diệp, họ tên Nguyễn Anh (1912-1996), thuở sinh
tiền từng nói với tôi:
- Bài Mùa xuân chín được
Hàn viết cuối năm Bính Tý 1936.
Cuối năm 1936, đầu năm 1937
là cái mốc giúp hậu thế nắm bắt một số sự kiện liên
quan tác giả Mùa xuân chín. Ấy là giai đoạn Hàn thôi
làm báo tại Sài Gòn, trở về Bình Định với gia đình và
vừa in Gái quê - thi tập duy nhất được ấn hành lúc
Hàn còn tại thế. Ấy cũng là giai đoạn Hàn chưa phát hiện
căn bệnh nan y mà bản thân mắc phải.
NGUYÊN
MẪU CHỊ ẤY LÀ AI?
Bài thơ Mùa xuân chín
kết thúc bằng đôi dòng xao xuyến:
- Chị ấy năm nay còn gánh
thóc
Dọc bờ sông trắng nắng
chang chang?
Bằng chất liệu tổng
hợp, ViVi minh họa thơ Hàn Mạc Tử:
- Chị ấy năm nay
còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng
nắng chang chang?
Bấy lâu nay, khá đông người
tò mò: nguyên mẫu chị ấy là ai nhỉ?
Chẳng rõ vì sao mà trên website
VietCatholicNews
ngày 27-10-2000, linh mục Trần Quý Thiện cho rằng chị ấy
là Thu Yến, 1 trong 9 người tình của Hàn. Vậy nhân vật Thu
Yến ra sao?
Theo hồi ký Hàn Mạc Tử
trong riêng tư của Nguyễn Bá Tín (NXB Hội Nhà Văn, Hà
Nội, 1994) thì Thu Yến viết báo ký bút danh T.Y., có tên thường
gọi là Trà. Đó là "con gái út của ông cậu họ, anh mẹ
tôi ở bên Phường Đúc." Cũng theo hồi ký ấy, người cậu
tên Chí, là gia đình bà con xa nên đôi bên "có thể kết hôn
được." Ông Tín nhận xét: "Chị Trà là mối tình yên lặng
nhất của anh [Hàn], đến đỗi nhiều lúc chịu không nổi,
cũng có úp mở với tôi cho vơi đi nỗi tiếc nhớ." Tiếc
nhớ bởi Hàn "không dám tìm cách tỏ tình" nên lúc biết Thu
Yến lấy chồng thì trong lòng nhà thơ dâng trỗi "mối hận
riêng tư lâu dài". Do đó, Hàn xót xa sáng tác bài Buồn
thu theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, "được xem
là bài thơ đẹp nhất trong Lệ Thanh thi tập."
Tại thành phố Huế, Phường
Đúc nằm ven hữu ngạn dòng Hương. Đó là địa bàn mà bản
thân tôi sống suốt thời thơ ấu, lâu nay thỉnh thoảng vẫn
quay về, nên khá am tường. Mộ ông Nguyễn Văn Toản - thân
phụ của Hàn - cũng từng nguyên táng tại đây. Tôi dò hỏi
một số bậc cao niên ở giáo xứ Phường Đúc còn gọi giáo
xứ Trường An, không ai nhớ gia đình ông Chí có người con
gái tên Thu Yến hoặc Trà từng trú ngụ tại đây. Linh mục
Phêrô Trần Văn Quí quản xứ chịu khó tra sổ sách mà nhà
thờ lưu trữ, vẫn chẳng thấy gia đình ông Chí có người
con gái tên Trà hoặc Thu Yến từng sống ở giáo xứ này.
Tôi trực tiếp gặp ông Nguyễn
Bá Tín (1916-2002) để chất vấn. Thật bất ngờ, bào đệ
của Hàn Mạc Tử thú nhận:
- Tôi viết hồi ký đó rất
gấp để kịp tiến độ đã đăng ký với NXB Hội Nhà Văn.
Vì vậy, có những nhầm lẫn. Thu Yến không phải là... chị
Trà đâu! Chị Trà chỉ là cái tên tôi đặt thêm cho Thu Yến.
Thực tế thì Thu Yến bà con với Hoàng Trọng Miên và Hoàng
Trọng Quỵ tức Thanh Nghị, nhà ở Nguyệt Biều.
Nguyệt Biều là ngôi làng nay
thuộc phường Thuỷ Biều, kế cận Phường Đúc. Cả hai địa
phương đều nổi tiếng "miền gái đẹp" và đều sử dụng
con đường Bùi Thị Xuân - trước năm 1977 là đường Huyền
Trân Công Chúa, trước năm 1945 là rue des Arènes / đường Hổ
Quyền - làm trục giao thông chính. Con đường ấy uốn lượn
ven sông Hương. Ví giai nhân từng gánh thóc trên con đường
ấy, kể ra cũng hợp cảnh, hợp tình. Tiếc thay, theo xác minh
sơ bộ của tôi, Thu Yến có khả năng là phụ nữ... ảo!
Phù điêu chân dung Hàn
Mạc Tử
do Võ Ngọc Lân tạc
bằng composite
BỜ
SÔNG TRẮNG Ở ĐÂU?
Trừ những trường hợp thật
cần thiết, chứ cứ lăm lăm kiếm tìm địa chỉ chính xác
cho thơ, ắt chẳng hay ho gì, lắm phen lại còn... phản thơ.
Tuy nhiên, sáng tạo văn chương dẫu "phiêu hốt tang bồng"
cỡ nào cũng không hoàn toàn thoát ly hiện thực; và các nhân
danh lẫn địa danh nếu xuất hiện thích hợp trong thơ ca thì
đó là tín hiệu thẩm mỹ cần thiết để riêng hoá, biệt
hoá, sinh động hoá không gian lẫn thời gian nghệ thuật. Khi
thưởng thức thơ Hàn Mạc Tử viết về Đà Lạt trăng
mờ rồi Phan Thiết! Phan Thiết!, chắc chắn tư duy
bạn đọc không nhầm lẫn giữa phố núi với phố biển tạo
nền cho hai thi phẩm khác nhau.
Viết bài Dòng sông của
Hàn Mạc Tử đăng báo Quảng Bình ra ngày 16-9-1999, sau đó
đăng lại trên tạp chí Văn Hoá Văn Nghệ Công An 5 (2000),
Hoàng Thái Sơn cắc cớ đặt vấn đề: "Ngay cả những bài
như Đây thôn Vỹ Dạ, ai dám bảo bài thơ viết về
làng Vỹ Dạ ở Huế?"
Xin thưa: theo đúng bút tích
của Hàn mà nhà giáo Hoàng Thị Kim Cúc (1913-1989) lưu giữ
thì nhan đề chính xác của bài thơ là Ở đây thôn Vỹ
Giạ. Và cả loạt chi tiết đặc trưng như nắng hàng
cau, vườn ai mướt quá, lá trúc che, hoa bắp lay, bến sông
trăng vừa mang tính điển hình, có thể đại diện cho
cảnh sắc nhiều làng quê Việt Nam, song vừa mang tính cá biệt,
chỉ nói riêng về thôn Vỹ, không thể lẫn lộn với địa
phương khác. Mà mảnh đất Vỹ Dạ đương nhiên ở Huế,
chứ lẽ nào ở... tít Nam Kinh của đất nước Trung Hoa hay
tận Kyoto của xứ sở Nhật Bản?
Điều trái khoáy là qua bài
báo nọ, Hoàng Thái Sơn đặt vấn đề như thế xong, liền
"đưa ra một địa chỉ đáng tin cậy của dòng sông" đối
với câu thơ Dọc bờ sông trắng nắng chang chang. Theo
Hoàng Thái Sơn, đó là sông Nhật Lệ vì Hàn từ sinh ra đến
lên 8 thì gắn bó với Đồng Hới.
Yêu quê hương, yêu nơi chôn
nhau cắt rốn và / hoặc nơi cư ngụ là tình cảm tự nhiên
chính đáng. Ngay bản thân tôi, dù chỉ ghé Quảng Bình dăm
lần mà cũng rất quý mến cảnh và người ở đấy. Nhưng
chẳng thể khẳng quyết rằng ấn tượng thu được từ hồi
8 tuổi có khả năng chi phối toàn bộ sáng tác suốt một
đời nghệ sĩ. Vả lại, nên nhớ rằng chánh quán của Hàn
Mạc Tử là thôn Thanh Tân, xã Thanh Sơn, huyện Phong Điền,
tỉnh Thừa Thiên. Từ 9 tuổi trở lên, Hàn sống nhiều nơi
mà Quy Nhơn, Quảng Ngãi, Huế, Sài Gòn giữ vai trò rất đáng
kể trong đời sống thi nhân.
"Nói đến Quảng Bình là nói
đến gió Lào, cát trắng, nắng chang chang." Hoàng Thái Sơn
lập luận vậy và dẫn chứng thơ Tố Hữu: Chang chang cồn
cát nắng trưa Quảng Bình. Song le, Hoàng Thái Sơn bảo rằng
câu Kiều Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia là do
Nguyễn Du "cảm xúc về những cồn cát chạy dọc suốt Quảng
Bình thời ông làm cai bạ nơi đây", e người Quảng Bình nghe
xong cũng phải phì cười! Bởi gió Lào đâu chỉ thổi riêng
trên đất Quảng Bình. Các tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị,
Thừa Thiên đều chịu đựng cơn gió khô nồng kia từ tháng
4 đến tháng 9 hằng năm dương lịch. Cát trắng thì nhiều
miền duyên hải rất sẵn, ví dụ tỉnh Thừa Thiên có khu
vực toàn cát trắng nằm giữa đầm phá Tam Giang - Cầu Hai
và biển Đông, từ các xã Điền Hương, Điền Môn, Điền
Lộc, Điền Hoà, Điền Hải thuộc huyện Phong Điền giáp
giới tỉnh Quảng Trị, đến các xã Vinh Mỹ, Vinh Hưng, Vinh
Giang, Vinh Hải thuộc huyện Phú Lộc giáp giới thành phố
Đà Nẵng. Riêng cái nắng chang chang trong thơ Hàn lẫn
ngoài đời thật, nếu cho rằng là "đặc sản" của Quảng
Bình thì hoàn toàn khiên cưỡng!
Đối với bài thơ Mùa xuân
chín của Hàn Mạc Tử, chị ấy đã không tên, thì
bờ
sông trắng cũng rất mơ hồ. Hãy để trí tưởng tượng
của bạn đọc tự do hoạt động. Trong trường hợp này,
cứ gượng ép định danh định vị nhân vật lẫn địa điểm,
không khéo lại khiến mùa xuân diễm mộng kia hoặc khô quắt,
hoặc... sống nhăn.
Phanxipăng
|