I.- Về tính chính danh của
VNCH
Báo Quốc Gia Xuân Mậu Tuất
tháng hai năm 2018, trong bài tựa đề " Ngụy quân ngụy quyền
? Tính chính danh của VNCH", người viết có nêu rõ những nét
nổi bật liên quan đến tính chính danh của thể chế chính
trị VNCH về mặt quốc nội cũng như về mặt quốc tế công
pháp.
Về mặt quốc nội
Quốc gia Việt Nam được thành
lập với cơ sở pháp lý là các Hiệp ước ký kết giữa
Chính phủ Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại, vị vua cuối cùng
của triều Nguyễn : Hiệp ước Vịnh Hạ long ngày 7-12-1947
và Hiệp ước Élysée ngày 8-3- 1949.
Hai Hiệp ước nầy xác nhận
nền độc lập của nước Việt Nam, chính thức thành lập
Quốc gia Việt Nam trong Liên hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc
trưởng Bảo Đại. Tính đến năm 1950,có 35 quốc gia công
nhận Quốc gia Việt Nam.
Thỏa ước Matignon (Accords de
Matignon) ký kết ngày 4-6-1954 giữa Thủ tướng Quốc gia Việt
Nam Nguyễn phúc Bảo Lộc và Thủ tướng Pháp Joseph Laniel xác
định Quốc gia Việt Nam độc lập, toàn vẹn lãnh thổ và
tách khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ Pháp chuyển giao mọi
cơ sở hành chánh, quốc phòng, an ninh cho Quốc gia Việt Nam.
Sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955, Thủ tướng Ngô đình
Diệm thay thế Quốc trưởng Bảo Đại, lên nắm quyền Quốc
trưởng. Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc
hội lập hiến để soạn thảo Hiến pháp. Ngày 26-10 -1956
là ngày ban hành Hiến pháp cũng là ngày ra đời của Quốc
gia Việt Nam Cộng Hòa. VNCH (Đệ nhất và về sau nầy Đệ
nhị VNCH ) có một thể chế chính trị cộng hòa do dân bầu
(phổ thông đầu phiếu), thực hiện chế độ dân chủ pháp
trị, tam quyền phân lập, đa đảng và chủ trương chống
Cộng.
Về mặt quốc tế
Từ năm 1950, đã có 35 nước
công nhận chính thức Quốc gia Việt Nam.
Sau khi VNCH được thành lập,
vào năm 1966, có 60 quốc gia trên thế giới công nhận tính
chính danh của VNCH.
Sau khi xâm chiếm miền Nam (VNCH),
Cộng sản VN tiếp tục xin giữ tư cách thành viên của VNCH
đối với các định chế tài chánh quốc tế và tiếp tục
công nhận một số hiệp ước mà VNCH đã ký kết.
Trước ngày 30 tháng tư năm
1975, chỉ có VNCH là thành viên của các định chế tài chánh
quốc tế như là Ngân hàng thế giới (World Bank), Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF: International Monetary Fund ) và Ngân hàng phát
triển châu Á (ADB : Asian Development Bank). Sau khi thống nhất
Nam Bắc vào tháng 7 năm 1976, CHXHCNViệt Nam đã nộp đơn xin
thay thế (substitution) tư cách thành viên của VNCH, chứ không
phải là đơn xin gia nhập làm thành viên mới. Cụ thể là
với ADB, CHXHCNVN đã tiếp quản 3000 cổ phần của Chính phủ
VNCH. Đồng thời, CHXHCNVN cũng tiếp tục được nhận tất
cả các khoản vay đã được ADB chấp thuận cho VNCH vay trước
đó. Ngày gia nhập ADB của VN hiện nay là ngày 22-9-1966, là
ngày mà Quốc hội VNCH phê chuẩn việc tham gia ADB.
Ngày 16-12-1976, Chính phủ CSVN
đệ trình đơn phê chuẩn Công ước viễn thông quốc tế
1973 (1973 Télécommunication Convention) đã được VNCH ký kết
ngày 25-10-1974 tại Hội nghị Malaga-Torremolinos (Espagne) nhưng
VNCH chưa kịp phê chuẩn. Đơn đệ trình nêu rõ là việc phê
chuẩn được dựa trên những điều ký kết của VNCH.
Tư cách thành viên của VNCH
với Liên minh Bưu chính quốc tế (UPU) cũng được công nhận
từ năm 1951. Vào tháng 7 năm 1974, Chính phủ VNCH đã kỳ kết
các văn bản liên quan đến các Quy chế chung (General Regulations
và Công ước Liên minh bưu chính Lausanne (Lausanne Universal Postal
Convention) nhưng chưa kịp phê chuẩn. Ngày 27-10-1976, Chính phủ
CSVN đã phê chuẩn các văn bản nầy và đệ trình lên tổ
chức UPU với yêu cầu được thừa kế tư cách của VNCH.
Ngoài ra, vào ngày 4-7-1976, chỉ
hai ngày sau khi được thành lập, Bộ ngoại giao của Chính
phủ VNCS đã gởi công hàm đến Chính phủ Thụy sĩ, tuyên
bố khẳng định tiếp tục tham gia các Hiệp ước của Công
ước Genève 1949 (1949 Geneva Conventions) mà hai Chính phủ VNDCCH
và VNCH đã ký kết trước đây về các vấn đề bảo vệ
nạn nhân chiến tranh.
"Gán ép" từ "ngụy quân ngụy
quyền" cho quân, cán, chính VNCH để miệt thị đối phương
là thủ đoạn sở trường của Việt cộng. Phải gọi lại
chính thể VNCH cho đúng tên. Trả lại sự thật cho lịch sử
là điều tất yếu.
II.- Về công hàm của Phạm
văn Đồng
Ngày 14 tháng 9 năm 1958, Phạm
văn Đồng, Thủ tướng VNDCCH (Bắc Việt Cộng sản) gởi cho
Chu ân Lai, Thủ tướng Cộng hòa nhân dân Trung hoa (Trung hoa
Cộng sản) một công hàm, có câu như sau : " Chính phủ nước
VNDCCH ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm
1958 của Chính phủ nước
CHND Trung hoa quyết định về
hải phận 12 hải lý của Trung quốc "…
Các học giả, các nhà ngoại
giao Trung Cộng thường dùng công hàm nầy để cho là VN Cộng
sản đã từng đồng ý chấp nhận quần đảo Hoàng sa và
Trường sa (mà Trung hoa CS gọi là quần đảo Tây sa và Nam
sa) là lãnh thổ của họ. Họ lý luận là VNCS chỉ thay đổi
lập trường sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975 và
như vậy là vi phạm nguyên tắc luật quốc tế estoppel (1)
(1) -Estoppel bắt nguồn
từ chữ Pháp estoupail, stopper và tiếng la tinh là stupa. Chữ
estoppel được từ điển Anh Collins định nghĩa như sau : Estoppel
là quy tắc về bằng chứng theo đó một cá nhân không được
phép phủ nhận sự thật về điều mà trước đây người
nầy đã tuyên bố hoặc về những sự kiện mà người nầy
cho là có thật. Nói một cách nôm na, đó là nguyên tắc "
phải trước sau như một".
Ngày 30-1-1980, để phản ứng
việc VN công bố sách trắng về chủ quyền trên Hoàng sa và
Trường sa, Bộ Ngoại giao THCS đã xuất bản tài liệu "Chủ
quyền không tranh cải của TQ đối với hai quần đảo Tây
sa (Hoàng) và Trường sa", có đăng cả công hàm của Phạm
văn Đồng.
Ngày 8 tháng 6 năm 2014, Bộ
Ngoại giao CHNDTrung Hoa công bố tài liệu nêu quan điểm của
THCS trong vụ giàn khoan, trong đó THCS lập lại các tài liệu
như đã công bố năm 1980, đồng thời còn đưa ra một tài
liệu từ sách giáo khoa môn địa lý lớp 9 phổ thông xuất
bản bởi Nhà xuất bản giáo dục tại Hà nội năm 1974. Trong
đó, bài đọc về địa lý có đoạn ghi rõ " Vòng cung đảo
từ các đảo Nam sa, Tây sa đến các đảo Hải nam, Đài loan…làm
thành một bức "trường thành" bảo vệ lục địa Trung quốc
".
Như vậy, theo lập luận của
THCS, với công hàm tháng 9 năm 1958 của Phạm văn Đồng, VNCS
đã công nhận chủ quyền của họ trên các quần đảo Hoàng
sa, Trường sa.
Năm 1977, Phạm văn Đồng đã
đổi ý và giải thích rằng ông đã gởi công hàm cho Chu ân
Lai vào thời điểm đó là vì nhu cầu chiến tranh.
Kết luận
Cũng nên nhắc lại lịch sử
liên quan đến hai quần đảo Hoàng sa và Trường sa.
Tại Hội nghị San Francisco
tháng 9 năm 1951 để giải quyết các vấn đề về lãnh thổ
sau Chiến tranh thế giới thứ 2, phái đoàn Liên xô ngày 5
tháng 9 năm 1951 đã đề nghị trao trả hai quần đảo nầy
cho chủ cũ. Ngày 7 tháng 9 năm 1951, tại Hội nghị nầy, Thủ
tướng kiêm Ngoại trưởng Trần văn Hữu, Trưởng phái đoàn
Quốc gia Việt Nam, đã lên tiếng tái xác nhận chủ quyền
của VN trên 2 quần đảo nầy. Lời tuyên bố của Ngoại trưởng
Trần văn Hữu đươc Hội nghị San Francisco ghi vào biên bản.Và,
trong tất cả 51 phái đoàn các nước tham dự, không có phái
đoàn nào phản đối, kể cả Liên xô.
Dù muốn dù không, sớm muộn
gì rồi thì Chính phủ VNCS cũng phải xác nhận môt cách chính
thức tính chính danh của VNCH. Trước ngày 30-4-1975, vùng lãnh
thổ từ vĩ tuyến 17 trở xuống thuộc chủ quyền của Chính
phủ VNCH. Các quần đảo Hoàng sa và Trường sa do Chính phủ
VNCH quản lý hoàn toàn không thuộc quyền cai trị của Cộng
sản Việt Nam.
Có xác nhận điều nầy thì
Cộng sản Việt Nam mới có thể đính chánh được sự "hiểu
lầm" liên quan đến bức công hàm của Phạm văn Đồng năm
1958.
Và cũng nên tu sửa các sách
giáo khoa đã xuất bản.
Đã đến lúc nên xác nhận
về tính chính danh của VNCH.
Đã đến lúc phải trả lại
sự thật cho lịch sử. Và đó là một điều tất yếu phải
làm.
Nguyễn Thanh
Bạch
|