Tuy
sống xa quê hương đã hơn một phần tư thế kỷ, bác tám
vẫn còn theo nếp
sống của người nhà quê miền
Nam, buổi sáng thức dậy từ năm giờ, pha một bình trà uống
cho ấm bụng. Tháng giêng ở Montréal, trời mùa đông lạnh
giá buốt, bên ngoài tuyết phủ trắng xóa. Đường phố im
lìm vắng vẻ dường như còn say sưa trong giấc ngủ. Chỉ
có bác tám một mình một bóng bình thản ngồi uống trà,
nhấp từng hớp trà thơm, thả hồn về quê của bác cách
xa nửa vòng trái đất.
Bác tám sanh ra ở Cái Mơn,
làng Vĩnh thành tỉnh Bến tre. Cái Mơn nổi tiếng là có sầu
riêng ngon, thơm và những cô gái đẹp nhứt tỉnh. Cái Mơn
cũng là quê của nhà học giả Petrus Trương vĩnh Ký. Sầu
riêng cùng với chôm chôm, măng cụt, bòn bon...là những loại
trái cây mà ông Petrus Ký đã mang giống về để trồng từ
các nước gọi là miền dưới như Mã lai, Nam Dương, Phi luật
tân. Vào giữa thế kỷ thứ 19, từ năm lên 15 tuổi, ông Petrus
Ký được các ông cố đạo dạy dỗ, cho xuất dương du học
tại Pénang nước Mã lai.. Ông là một nhà ngôn ngữ học.
Ông đã soạn ra tự điển Việt-Pháp và có công phổ biến
chữ quốc ngữ, khai đường mở lối cho sự phát triển của
nền văn hóa Việt Nam. Ông Petrus Ký cũng là một sử gia. Ông
là tác giả của nhiều bộ sách về lịch sử Việt Nam.
Thời thơ ấu, bác tám là một
cậu bé "lí lắc" thường rủ bạn bè đi bắt chuột đồng
làm thịt, ướp ngũ vị hương, rô ti hoặc theo các tay nhà
nghề đi bắt rắn hổ về bán cho các bợm nhậu. Ban đêm
còn có thú giăng lưới bắt dơi quạ về nấu cháo đậu xanh.
Làng của bác tám còn có một trò chơi lý thú là "bắn giàng".
Những người khá giả trong làng dùng một cây cung bằng gỗ
mun để bắn bia với những viên đạn làm bằng ngà voi. Bia
là một tấm thiếc, ở giữa có xoi một lỗ vừa đủ cho
viên đạn xuyên qua được. Phiá sau tấm bia là một cái trống.
Phải nhắm bắn sao cho viên đạn xuyên qua và trúng được
cái trống. Có nhiều lần, cậu tám "lí lắc" bắn trúng, kêu
lên một tiếng "thùng", được bà con cô bác vỗ tay khen rùm
trời.
Cậu tám "lý lắc" còn nổi
tiếng một thời với lối giã gạo tại Cái mơn gọi là "giã
trổ", là giã gạo chày ba (ba người) có nhịp. Tiếng gõ nhịp
nhàng trên cối nghe rất vui tai trong những đêm trăng thanh
gió mát.
Sau khi học xong trung học, thời
thế đưa đẩy bác tám vào làm việc văn phòng cho một hãng
tư tại Sài gòn. Năm năm sau, bác tám được tuyển vào làm
kế toán tại Bộ Ngoại giao Việt Nam, Nhiệm sở cuối cùng
là Tòa Đại sứ VNCH tại Paris cho đến ngày 30 tháng tư năm
1975 ,lúc chính quyền quốc gia VN tan rã, bác tám đang làm việc
ở Tòa Đại sứ VNCH tại Paris (Pháp).
Vì đã chán nghề "cạo giấy",
bác tám quyết định từ nay kiếm sống bằng sức lao động
tay chân. Bác tám chọn nghề lái ta-xi để kiếm sống và nuôi
gia đình,vợ và hai con. Trong thời gian đầu, bác tám rất
là bỡ ngỡ. Thành phố Paris quá rộng, lại có nhiều dọc
ngang chi chit, phải khó khăn lắm lắm bác mới đưa khách đến
nơi đến chốn. Mỗi lần nhận được tiền của khách, bác
cảm thấy phấn khởi và quên đi mọi nỗi nhọc nhằn. Bác
tám nghĩ đến vợ và hai đứa con thơ dại đang còn nhờ sự
che chở bao bọc của mình. Về hai đứa con trai của bác, ngoài
việc lo lắng đầy đủ cho con đi học, bác tám còn nghĩ xa
hơn. Bác sợ đến lúc chúng trưởng thành mà còn ở trên
đất Pháp, chúng sẽ bị động viên vào quân đội Pháp. Đó
là điều mà bác muốn tránh. Trong một dịp đi thăm người
bạn ở Montréal Canada, bác nghĩ ngay đến việc đưa gia đình
sang định cư tại Canada để tránh vụ động viên cho các
con vì Canada không có chế độ nầy.
Việc giáo dục con cái từ
nay là mối quan tâm hàng đầu của bác tám. Tuy vì hoàn cảnh
phải tha hương sống nơi xứ người nhưng lúc nào bác cũng
hướng về quê cha đất tổ. Bác tạo môi trường cho hai con
sống theo nền nếp của một gia đình Việt Nam không quên
cội quên nguồn. Trong nhà bác, bàn thờ tổ tiên chiếm một
vị trí quan trọng, có đầy đủ hoa quả, khói hương trong
những ngày giổ, ngày Tết. Bác dạy các con nói và viết tiếng
Việt, luôn luôn nhắc nhở cho chúng biết về dân tộc, về
lich sử nước Việt Nam. Ngay từ lúc mới đến Montréal, mỗi
kỳ nghỉ hè, hai anh em Tấn, Phát, con của bác tám, đều đi
học tiếng Việt ở chùa Quan Âm. Chúng còn tham dự các lớp
" Quê hương mến yêu" của Cơ sở khuyến học và Phát huy
văn hóa VN để học hỏi thêm về lịch sử và văn hóa VN.
Bác tám quyết noi gương của nhà bác học Petrus Ký trong đời
sống lúc nào cũng noi theo câu châm ngôn la tinh "Sic Vos Non Vobis"
(Ở với họ mà không theo họ) . Ông Petrus Ký ở với Tây
mà không theo Tây, sống theo đạo đức Việt Nam, suốt đời
phục vụ cho đất nước, cho văn hóa VN. Khi nhà bác học mất,
cụ Trần khánh Chiếu, thủ lãnh Phong trào yêu nước Minh Tân
đã cùng thân hào nhân sĩ miền Nam quyên tiền xây dựng tượng
và tôn xưng là "Ông Thầy đạo lý của Nam kỳ".
Bác tám quyết tâm noi theo gương
của bậc tiền nhân, không bao giờ quên cội quên nguồn.
Lúc về già, bác tám thường
tụ tập tại nhà với bạn bè ca hát, cùng nhau hát lên những
bài đượm thắm tình quê hương dân tộc của thời VNCH trước
năm 1975.
Bác tám siêng năng tập dượt
nên giọng hát ngày càng dịu dàng, gây nên sự cảm xúc. Bác
thuộc nằm lòng trên hai mươi bài hát loại trử tình như
"Đường xưa lối cũ, Nắng đẹp miền Nam, Những con đường
Việt Nam, Việt Nam Việt Nam, Hè về, Thành phố buồn ,Nổi
buồn hoa phượng, vv...".
Bạn bè đặt cho bác biệt
danh là "Tiếng hát quê hương".
***
Bác tám vừa mới mất sau khi
bị vấp ngã vào một đêm tối trời. Bác "ra đi" một cách
bất ngờ. Một tháng trước đây, bác còn tham gia chuyến du
ngoạn ở một nông trại với anh em, ca hát vui vẻ trên đường
về.
Để tõ lòng thương tiếc và
tưởng nhớ "Tiếng hát quê hương", những người bạn hữu
đã từng vui sống với bác tám tổ chức bên cạnh quan tài
của bác một buổi họp mặt cuối cùng, hát lên những bài
ca đượm thắm tình quê hương mà bác yêu thích.
Một mảnh đời lưu lạc đã
vội vàng khuất bóng nhưng giọng nói chất phác, lời ca dịu
dàng gợi lên tình tự quê hương dân tộc còn văng vẳng đâu
đây !
Tiếng hát quê hương
Lặng lẽ anh đi, bỏ chốn
nầy.
Còn vui sao lại vội chia tay?
Lời ca vương vấn tình non
nước
Tiếng hát đầy vơi nỗi đắng
cay!
Kiếp sống cơ hàn không khuất
phục
Đường đời khúc khuỷu há
lung lay!
Phong trần rũ sạch, anh từ
biệt,
Bằng hữu còn đây, thương
tiếc thay!
Hàn sĩ
(Những mảnh đời lưu lạc)
|