I - HỆ THỐNG GIÁO DỤC CÔNG,
TƯ
Ở Việt Nam thời xưa nền
giáo dục được chia thành hai thành phần:
1- Giáo dục tư
thục
Căn bản được thực hiện
trong làng, xã hay trong một đơn vị hành chính nhỏ thuộc
địa phương. Người dạy thường gọi là "ông Đồ"
hay "thày Đồ". Ông Đồ có thể là người biết chữ
nhưng chưa đỗ đạt, hoặc là người đỗ đạt làm quan đã
về hưu hay những người đã đỗ đạt nhưng không chịu ra
làm quan. Họ sống đạm bạc trên sự đóng góp tự nguyện
của học trò dành cho thày. Bên cạnh đó thày được sự
trọng vọng của học trò và làng xóm cũng như xã hội. Học
trò coi thày như cha ngay khi thày còn sống hay đã chết. Học
trò học dưới cùng một mái trường được gắn bó với
nhau về tình cảm và thường được gọi là "đồng môn".
2- Giáo dục công
lập
- Ở địa phương. Giáo dục
công được thiết lập từ cấp huyện, người đứng
đầu là một quan Huấn đạo hay quan Huấn; ở
cấp phủ có quan Giáo thụ hay quan Giáo; ở
cấp đạo có có quan Điển học; ở cấp tỉnh
có quan Đốc học hay quan Đốc, người trông nom
giáo dục cho toàn tỉnh.
- Ở kinh thành Thăng Long xưa.
Có một trường dành cho các Hoàng tử, con các quan trong triều
gọi là Quốc Tử Giám. Người đứng đầu trường này
là quan Tư nghiệp, một vị quan hạng tứ phẩm
trong triều. Sau này trường được mở rộng ra đón nhận
cho những học trò giỏi được tuyển chọn trong toàn quốc
được gọi là Giám sinh. Những Giám sinh ở đây được
trải qua một giai đoạn học tập để chuẩn bị cho những
cuộc thi cử cấp cao với học vị cấp Tiến sĩ được
bổ vào làm quan trong triều. Trường này có thể coi là trường
đại học đầu tiên của Việt Nam.
- Trên cùng, cơ quan cao nhất
của nền giáo dục là Hàn lâm hay Tập hiền gồm
những người có phẩm chất đạo đức và phẩm tước cao.
II- SÁCH GIÁO KHOA
Sách giáo khoa được sử dụng
trong giáo dục và thi cử: Tam Tự Kinh, Thiên Tự Văn, Tứ
Thư, Ngũ Kinh và Tam Truyện.
1- Tam Tự Kinh
Cuốn sách viết dưới dạng
thơ 3 chữ dành cho trẻ con mới học. Nội dung là những
lời khuyên hữu ích thể hiện qua những câu châm ngôn như
"Nhân chi sơ, tính bổn thiện; tính tương cận, tập tương
viễn . . ." (Khi mới sinh ra, bản chất con người là
tốt; bản chất con người là giống nhau, nhưng thói tục khiến
họ khác nhau)
2- Thiên Tự Văn
Đây là cuốn sách gồm một
nghìn chữ. Sách được nổi tiếng nhờ sự sắp đặt
từ ngữ một cách xác đáng chứ không phải do sự phong
phú của ý tưởng hay sự trong sáng của văn chương. Sách
này được ra đời bởi một câu chuyện khá lý thú:
Chu Hưng Tự hay Tư Toản
là một văn sĩ nổi tiếng bị ngồi tù vì trọng tội. Vua
Vũ Đế nhà Lương (502-550) ra một đặc ân là sẽ tha tội
nếu Tư Toản có thể hoàn thành những vần thơ trong số một
nghìn chữ do vua chọn mà không có chữ nào được lập
lại. Ông đã hoàn tất công việc này trong vòng một đêm.
Tuy vậy, sáng ra tóc ông đã bạc phơ.
3- Tứ Thư hay Tứ Truyện
Bốn tác phẩm kinh điển: Đại
Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
*/ Đại Học
Do Tăng Tử viết. Nội
dung sách nói về sự tu dưỡng bản thân và ứng xử
trong xã hội. Gồm 7 điểm tuần tự:
- Cách vật, tức đào
sâu kiến thức
- Trí tri, tức mở mang
trí tuệ
- Thành ý, tức thực
tâm mong nuốn
- Chính tâm và tu thân,
tức sửa mình
- Tề kỳ gia, tức chăm
sóc gia đình
- Trị quốc, tức cai
trị đất nước
- Bình thiên hạ, tức
làm cho an dân, yên ổn
Có những câu như:
-Giàu có làm đẹp nhà cửa, đức độ
làm đẹp tấm thân (Phú nhuận ốc, đức nhuận thân)
-Đức là cái gốc, của là cái ngọn (Đức
giả bản dã, tài giả mạt dã)
*/ Trung dung
Do Tử Tư viết. Tử Tư
là con của Bá Ngư tức là cháu nội đích tôn của Khổng
Tử. Ông dạy rằng Đạo trung dung là lẽ tự nhiên
của của trời đất, con người phải theo lý tự nhiên ấy
mà sống mà giữ mình theo cái trung dung trong mọi hoàn cảnh.
Ông trình bày những nguyên
tắc, nếu tuân thủ theo, sẽ tìm được sự thanh liêm vốn
có của mình, sánh ngang với trời đất.
Có câu như:
- Thương yêu người thân là đức lớn
(Thân thân vi đại)
*/ Luận Ngữ
Cuốn sách này do học trò
của Khổng Tử ghi lại những lời ngài giảng dạy,
hay những cuộc đối thoại của ngài với học trò.
Giọng văn trịnh trọng, lời văn sâu sắc đôi khi đến khó
hiểu. Sách được viết sau khi ngài mất.
Có những câu như:
- Điều mình không muốn thì đừng làm
cho người khác (Thi chư kỷ nhị bất nguyên, diệc vật
thi ư nhân)
- Người quân tử hiểu rõ về nghĩa, kẻ
tiểu nhân hiểu rõ về lợi (Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu
nhân dụ ư lợi)
- Năng lực người quân tử như gió, năng
lực của kẻ tiểu nhân như cỏ; gió thổi trên cỏ ắt cỏ
nép xuống (Quân tử chi đức phong, tiểu nhân chi đức thảo;
thảo thượng chi phong, tất yển)
- Điều nhỏ không nhịn thì làm hỏng
mưu lược lớn (Tiểu bất nhẫn, tắc loạn đại mưu)
*/ Mạnh Tử
Sách do Mạnh Tử viết,
trình bày dưới dạng đối thoại, bao gồm những lời răn
dạy với những tư tưởng sâu sắc; văn phong luôn trong
sáng, mượt mà.
Sách được chia làm bảy chương:
ba chương đầu là Mạnh Tử thượng và bốn chương
sau là Mạnh Tử hạ.
4- Ngũ Kinh
Gồm 5 cuốn kinh điển: Kinh
Thi, Kinh Thư, Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu.
*/ Kinh Thi
Đây là tập thi ca, gồm
311 bài thơ, chia ra nhiều thiên, mỗi thiên gồm nhiều
chương hay thư.
Lối văn cổ điển, vần thơ
đẹp, nhiều cảm hứng, được lấy từ những chuyện tình
ủy mị hay phóng túng. Tác phẩm gồm bốn phần: Quốc phong,
Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.
-Quốc phong là một tập
thơ gồm 160 bài ca dao dân gian kể về phong tục của
15 nước chư hầu ở Trung Hoa. Đây là phần hay nhất của
toàn bộ tác phẩm, nhưng có nhiều chỗ miêu tả về tình
yêu xác thịt rất lộ liễu.
-Tiểu nhã và Đại nhã,
nội dung liên quan tới con người và sự việc trong vấn đề
giải quyết công việc liên quan tới hành chính. Tiểu nhã
gồm 80 bài thơ, Đại nhã gồm 31 bài thơ.
-Tụng hay xướng, chia
làm ba phần: Chu tụng, Lỗ tụng, Thương tụng
-Chu tụng, gồm 31 bài
tụng ca, được sáng tác để ca tụng những tiền nhân
sáng lập nhà Chu.
-Lỗ tụng, gồm 14 bài
thơ ca ngợi những vị vua nước Lỗ
-Thương tụng, gồm 4
bài tụng ca ngợi Thành Thang, tổ tiên lập ra nhà Thương
và một số vị vua khác.
Kinh Thi được bắt đầu sáng
tác vào khoảng thế kỷ thứ 14 trước Công nguyên (Tr.CN).
*/ Kinh Thư
Kinh Thư do Khổng Tử viết
lại, gồm 4 phần: Ngu thư, Hạ thư, Thương thư và Chu thư,
chứa đựng nhiều lời giáo huấn hữu ích về đạo
đức của các đấng quân vương.
Kinh Thư bị mất sau việc đốt
sách của Tần Thủy Hoàng, nhưng vào năm 176 (Tr.CN), Hoàng đế
Văn Đế đã phục hồi được kinh này nhờ một ông già còn
thuộc toàn bộ, và đến đời vua sau đó người ta đã tìm
thấy một bản gốc ở dưới ngôi nhà đổ nát của Khổng
Tử.
*/ Kinh Dịch
Nội dung cốt lõi của Kinh
Dịch dựa trên nguyên lý vũ trụ. Mọi hoạt động,
biến hóa vô cùng của mọi sinh linh, kể cả tinh thần, tư
tưởng đến vật chất đều dựa trên hai nhân tố thiết
yếu là âm và dương. Âm dương có thể diễn tả
bởi sự kết hợp qua những thẻ quái, hay những hình
tượng để giải thích sự bí ẩn của tự nhiên, những
lời sấm truyền và giải quyết những khó khăn trong cuộc
sống.
Kinh Dịch được viết, ít
ra là những nét chính yếu, từ thế kỷ thứ 13 hay 12 (Tr.CN).
*/ Kinh Lễ hay Lễ
Ký
Ghi chép về các lễ nghi,
cấu thành nền tảng phong tục tập quán của Trung Hoa và các
nước chịu ảnh hưởng văn hóa ấy. Cuốn sách được chia
làm nhiều phần: Khúc lễ, nói về chi tiết của các
nghi lễ; Tăng Tử vấn, nói về những câu hỏi của
Tăng Tử; Nội tắc, nói về quy tắc trong gia đình; Tế
nghĩa, nói về ý nghĩa của các nghi lễ ...
Có những câu như:
-Đàn ông không nói chuyện trong nhà, đàn
bà không nói chuyện ngoài đường (Nam bất ngôn nội, nữ
bất ngôn ngoại)
*/ Xuân Thu
Cuốn sách này còn gọi là
Biên niên của Khổng Tử, do chính Khổng Tử
biên soạn. Sách liệt kê những việc làm chính của 12
vị vua nước Lỗ theo thời gian.
5- Tam Truyện
Nội dung những cuốn sách này
là bình luận về kinh Xuân Thu, gồm:
- Tả Truyện, đặt theo
tên tác giả là Tả Khưu Minh.
- Công Dương Truyện,
đặt theo tên tác giả là Công Dương Cao.
- Cốc Lương Truyện,
đặt theo tên tác giả Cốc Lương Xích.
6- Sách sử
Gồm sử Việt và sử Trung
Hoa. Sử Trung Hoa được đọc nhiều hơn cả chẳng hạn như
các cuốn: Hạ Ký, cuốn sử viết về triều đại nhà
Hạ; Đường Ký viết về triều đại nhà Đường; Hán
Sử viết về triều đại nhà Hán ... Sử Ký là một
tác phẩm đồ sộ về lịch sử nhưng cũng được coi là một
tác phẩm văn học bởi văn phong mạch lạc và nhẹ nhàng của
nó.
7- Luật
Bên lề bài viết,
Mời đọc vài bài thơ:
- Bài thơ của cụ Nguyễn
Khuyến
Gửi Ban Tu Thư
Nhắn nhủ tu thư hỡi các
ngài,
Đã tu tu kỹ, chớ tu lười!
Góp chung ba bốn năm mồm
lại,
Rồi để trăm nghìn vạn
mắt coi.
Bút gác núi Nùng thêm vẻ
rạng,
Mực mài sông Nhị ngát
hương trôi.
Bê ba sẵn sách đem mà học,
Để tiếng khoa danh biết
mấy đời.
- Bài phú của cụ Tú
Xương
Phú Thầy Đồ (tự
trào)
Bài 1:
Thầy đồ thầy đạc
Dạy học dạy hành
Vài quyển sách nát
Dăm thằng trẻ ranh
Văn có hay đã đỗ làm
quan, võng điều võng tía
Võ có giỏi đã ra giúp
nước, khố đỏ khố xanh
Ý hẳn thầy văn dốt vũ
dát
Cho nên thầy lẩn quẩn
loanh quanh
Trông thầy
Con người phong nhã
Ở chốn thị thành
Râu rậm như chổi
Đầu to tày giành
Cũng lắm phen đi đó đi
đây, thất điên bát đảo
Cũng nhiều lúc chơi liều
chơi lĩnh, tứ đốm tam khoanh
Nhà lính tính quan: ăn rặt
những thịt quay, lạp xường, mặc rặt những quần vân, áo
xuyến
Đất lề quê thói: chỗ
ngồi cũng án thư, bàn độc, ngoài hiên cũng cánh xếp, mành
mành
Gần có một mụ, sinh được
bốn anh:
Tên Uông, tên Bái, tên Bột,
tên Bành
Mẹ muốn con hay, rắp một
nỗi biển cờ mũ áo
Chủ rước thầy học, tính
đủ tiền chè rượu cơm canh
Chọn ngày lễ bái
Mở cửa tập tành
Thầy ngồi chễm chện
Trò đứng chung quanh
Dạy câu Kiều lẩy
Dạy khúc lý kinh
Dạy những khi xuống ngựa
lên xe, đứng ngồi phải phép
Dạy những lúc cao lâu chiếu
hát, ăn nói cho sành!
Bài 2:
Có một cô lái
Nuôi một thầy đồ
Quần áo rách rưới
Ăn uống xô bồ
Cơm hai bữa: khoai lang, lúa
ngô
Sao dám khinh mình? Thầy
đâu thầy vậy!
Chẳng biết trọng đạo,
cô lốc cô lô...
|