Sách Khải
Định chính yếu (ghi lại các sự kiện thời Khải Định)
chép rằng tháng Giêng năm 1919, thể thức kỳ thi Hội
với những thay đổi, vua Khải Định phê: "Lần này là
khoa thi Hội cuối cùng của triều đình, nên trẫm muốn
gia ân cho sinh viên sĩ tử khoa mục trong cả nước, hễ ai
thông thạo hai thứ chữ Nho và chữ Pháp thì trình diện Bộ
Học để xin vào ứng thí".
Ngày 16-5-1919
(nhằm 17-4 âm lịch), kỳ thi Đình cuối cùng diễn ra trong
cung vua.
LỜI NGƯỜI VIẾT
Dựa theo tài liệu trên, THI
CỬ theo Nho học đã kết thúc cách đây vừa tròn 100 năm.
Một trăm năm ngắn ngủi so với chiều dài gần 9 thế kỷ
(1075-1919), mà mọi triều đình nước ta kể từ đầu đời
nhà Lý trở về sau, ngoài việc tiến cử đặc biệt, sự
tuyển chọn nhân tài cho đất nước đều do qua thi cửcả.
Ấy vậy, khi ngoảnh nhìn lại, chúng tôi tự thấy mình không
biết gì mấy về việc làm quan trọng như thế của người
xưa nên cố gắng lục lọi, tìm tòi một số tài liệu trong
các sách tham khảo ít ỏi có sẵn trong tay, và cộng thêm những
bài viết trên NET để tạm vẽ nên một vài nét sơ lược
về thi cử Nho học ngày xưa. Đề tài thì mênh
mông, tài liệu tham khảo thì giới hạn, đôi chỗ lại khác
biệt hay mâu thuẫn lẫn nhau, khó hiểu nên mong có sự đóng
góp của quý vị độc giả để giúp chúng tôi có sự hiểu
biết rộng rãi thêm và chính xác hơn.
LOẠT BÀI NÀY CHỈ PHỔ BIẾN
GIỚI HẠN TRONG NHÓM THÂN HỮU nhằm kỷ niệm một trăm
năm ngày chấm dứt thi cử Nho học tại Việt nam
* * *
Vũ trụ chức phận nội
Đấng trượng phu một túi
kinh luân.
Thượng vị đức, hạ vị
dân,
Sắp hai chữ quân, thân
mà gánh vác,
Có trung hiếu nên đứng
trong trời đất
Không công danh thà nát với
cỏ cây.
Chí tang bồng hồ thỉ dạ
nào khuây,
Phải hăm hở ra tài kinh
tế
Người thế trả nợ đời
là thế
Của đồng lần thiên hạ
tiêu chung,
Hơn nhau hai chữ anh hùng.
(Phận Sự Làm Trai – Nguyễn
Công Trứ)
Cách thi cử được thay đổi
tùy theo mỗi triều đại, có những triều đại thay đổi
vài lần. Gần đây nhất, đan cử riêng triều Nguyễn
trong việc tuyển chọn nhân tài cho triều đình Huế, nhìn
chung có thể chia ra làm 5 giai đoạn chính:
1- Khảo khóa (cấp tỉnh):
khuyến khích việc rèn luyện văn chương thi cử hàng năm.
2- Tỉnh hạch (cấp tỉnh):
chuẩn bị cho kỳ thi Hương
3- Thi Hương (cấp miền,
tỉnh hay liên tỉnh): kỳ thi lấy học vị Cử nhân và
Tú
tài
4- Thi Hội (cấp toàn
quốc): chuẩn bị cho kỳ thi Tiến sĩ
5- Thi Đình (cấp toàn
quốc): kỳ thi lấy học vị Tiến sĩ
Trong 5 kỳ chỉ có hai kỳ có
học vị, đó là thi Hương và thi Đình. Học vị Cử nhân,
Tú tài dành cho kỳ thi Hương và học vị Tiến sĩ
dành cho kỳ thi Đình.
Khảo khóa
Kỳ Khảo khóa được tổ chức
hàng
năm như một kỳ thi thử ở cấp tỉnh dưới sự
giám sát của quan Tổng đốc tức quan đầu tỉnh,và
quan Đốc học tức quan đứng đầu về giáo dục trong
tỉnh. Mục đích cuộc thi là rèn luyện và khuyến
khích cho học trò trong những kỳ thi lớn sắp tới.
Các bài thi gần như tương
tự những bài thi chính thức của kỳ thi Hương, gồm một
bài kinh nghĩa bình luận vài đoạn trong Kinh Thư, Kinh
Thi; một bài thơ, một bài phú; và một bài văn
sách thuộc loại văn nghị luận. Bài thi được chấm bởi
quan Đốc học với sự trợ giúp của các vị giáo thụ
và huấn đạo của tỉnh.
Kỳ thi này không có học vị,
học trò đỗ chỉ được hưởng miễn đi tạp dịch hàng
năm, và đó cũng được coi như một vinh dự lớn cho đám
học trò.
Tỉnh hạch
Kỳ thi Tỉnh hạch mở ra trước
kỳ thi Hương vài tháng nhằm chọn lựa học trò
giỏi trong tỉnh. Bài thi gồm những môn tương tự
như kỳ thi khảo khóa nhưng đề bài ở trình độ cao
hơn.
Những học trò thi đỗ kỳ
thi này mới được dự cuộc thi Hương mà thôi. Tên những
người đỗ được quan Đốc học của tỉnh lập danh sách
gửi lên Bộ Lễ (sau này là Bộ Học). Đây là danh sách chính
thức xác nhận tên tuổi của những thí sinh được tỉnh
đề cử dự thi kỳ thi Hương sắp tới.
Những thí sinh có tên trong
danh sách được đề cử của quan Đốc học tỉnh mình phải
nộp theo thời hạn ấn định trước khi mở kỳ thi Hương,
mỗi người 4 quyển (1) cho 4
kỳ thi, để quan Đốc học chuyển tiếp tới Trường thi.
Thí sinh dự thi còn phải nộp
chứng nhận về hạnh kiểm và lý lịch (2)
bởi quan chức địa phương nơi nguyên quán.
Thi Hương
Kỳ thi Hương được tổ chức
3
năm một kỳ, vào những năm Tý, Mão, Ngọ, Dậu, được
gọi là chính khoa do triều đình tổ chức. Gọi là chính
khoa để phân biệt với những khoa đặc biệt được tổ
chức trong những dịp có sự kiện đáng nhớ như năm vua lên
ngôi, thượng thọ cha mẹ vua ... được gọi là ân khoa.
Người đỗ thi Hương được trao học vị Cử nhân và
Tú
tài. Tuy nhiên chỉ có những người đỗ Cử nhân
mới được coi là người được quyền dự kỳ thi Hội được
tổ chức tại triều đình vào năm sau. Người đỗ đầu kỳ
thi Hương gọi là Giải nguyên.
Thi Hội
Kỳ thi Hội chỉ dành cho những
người đã đỗ Cử nhân kể cả những khóa trước
trong toàn quốc không kể năm nào.
Trong kỳ thi Hội không có
học vị nào được trao cho người thi đỗ. Tên các thí
sinh đỗ được niêm yết trên hai danh sách. Hai danh sách này
chỉ nhằm mục đích đề cử các thí sinh thích
hợp với những học vị trong kỳ thi Đình.
- Danh sách thí sinh đỗ trong
bảng
thứ nhất (bảng chính) được đề cử học vị
Tiến
sĩ.
- Danh sách thí sinh trong bảng
thứ hai (bảng phó) được đề cử nhận "giải khuyến
khích" với học vị Phó bảng như cái tên của
bảng niêm yết.
Người đỗ đầu kỳ thi Hội
gọi là Hội nguyên.
Thi Đình
Kỳ thi Đình chỉ để phân
cao thấp, thứ bậc học vị Tiến sĩ và chỉ dành
cho những người đã được "đề cử" trong bảng thứ nhất
của kỳ thi Hội mà thôi chứ không phải là kỳ thi có người
đỗ hay hỏng.
Kỳ thi này chỉ có một vòng
thi duy nhất và bài thi cũng chỉ có một bài chế sách
duy nhất do chính nhà vua chọn hoặc tự ra đề. Vua là người
quyết định việc xếp hạng.
Sau quyết định của nhà vua,
tên các tân Tiến sĩ được niêm yết trên một bảng
màu vàng. Bảng thứ hai (phó bảng) vẫn là bảng "đề
cử" giải khuyến khích của kỳ thi Hội nay chính thức
hợp thức hóa mang học vị Phó bảng.
Các tân Tiến sĩ trên bảng
vàng được chia thành 3 hạng, tức tam giáp:
1- Đệ nhất giáp chỉ
gồm 3 người, theo thứ tự:
- Người đứng đầu được
gọi là Đệ nhất giáp đệ nhất danh tiến sĩ cấp đệ,
còn được gọi là Đình nguyên (tương đương học vị
trạng
nguyên có từ đời nhà Trần cho tới hết nhà Hậu Lê).Riêng
nhà Nguyễn không dùng học vị Trạng nguyên mà thay bằng Đình
nguyên.
- Người đứng thứ hai được
gọi là Đệ nhất giáp đệ nhị danh tiến sĩ cấp đệ,
còn được gọi là Bảng nhãn
- Người đứng hàng thứ ba
được gọi là Đệ nhất giáp đệ tam danh tiến sĩ cấp
đệ, còn được gọi là Thám hoa
Dân gian gọi tắt 3 vị này
là ông Trạng, ông Bảng và ông Thám.
2- Đệ nhị giáp, tiếp
theo đó gồm các Tiến sĩ hạng nhì, đều được
gọi chung là Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, gọingắn
hơn là Tiến sĩ xuất thân, hay còn được gọi
là Hoàng giáp.
3- Đệ tam giáp, cuối
cùng gồm các Tiến sĩ hạng ba, đều được gọi
chung là Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân, gọi
ngắn hơn là Đồng tiến sĩ xuất thân, hay còn
được gọi là ông Nghè.
Người đỗ đầu cả ba kỳ
thi Hương, thi Hội, thi Đình được gọi là Tam nguyên
(như cụ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến)
GHI CHÚ
(1) Quyển
Quyển là một xấp giấy "trắng"
(chưa viết) đóng lại như một cuốn sách mỏng dùng để
làm bài trong trường thi.
- Cách thức đóng quyển
Quyển phải do chính tay
thí sinh tự đóng lấy.
Đóng quyển cũng phải theo
luật lệ trường thi. Sai một tý là phạm trường quy, quyển
bị loại không chấm.
Mỗi quyển dày khoảng 10 tờ
giấy đôi còn trắng chưa viết, được gọi là "quyển trắng"
và có kích thước nhất định. Nếu kích thước "quyển" tính
theo đơn vị đo lường mới thì chiều dài khoảng 32 phân
tây (centimetre), chiều rộng khoảng 18 phân tây, được phân
chia:
- Bề ngang, chia làm 6
phần, chừa một phần làm gáy. Khi viết, 5 phần kia
lại chia làm 6 "dòng" song song với gáy (viết dọc từ
trên xuống dưới và từ phải sang trái).
- Bề dọc được chia
làm: quãng đầu, quãng cuối và quãng giữa phải dài bằng
hai quãng "xâu lề" của quyển.
*/ Trang đầu, tờ thứ nhất
của quyển viết họ tên, quán sở (nguyên quán)
và khai tam đại.
- Phần họ tên,
viết chữ thường, nằm ở "dòng" thứ 5 song hàng với
lề (kể từ gáy), không được cao lên quá hay sâu xuống quá.
Phải ghi rõ: tính (họ), danh (tên tục) và tự
(tên
riêng)
- Phần quán sở,
viết chữ nhỏ ngay dưới họ tên phải ghi tên tỉnh, phủ,
huyện, xã, thôn và niên tuế (tuổi)
- Phần cung khai tam
đại, viết sang "dòng" mép giấy, chữ to bằng ba
chữ của họ tên. Phải khai rõ tam đại tức họ tên 3 đời
trực tiếp và ghi ngay bên cạnh mỗi tên chữ tử (chết)
hay tồn (còn sống).
*/ Từ tờ sau của quyển dùng
để viết bài thi. Đầu mỗi trang phải để chừa 3 hàng để
"đài".
Trong ba hàng ở đầu dòng, hàng trên cùng gọi là du cách,
dưới hàng du cách gọi là hàng thứ nhất, dưới hàng
thứ nhất gọi là hàng thứ hai, dưới hàng thứ hai
gọi là hàng thứ ba. Bài viết của thí sinh phải bắt
đầu từ hàng thứ ba đó trở xuống.
(Sự chia hàng như trên sẽ
được diễn giải rõ thêm ở phần luật "đài" ở Chương
hai)
- Ống quyển
Quyển được đựng trong ống
quyển, ống quyển là một ống bằng gỗ có nắp, hai phần
đầu và đít có móc khuyên đồng để luồn dây đeo vào cổ.
(2) Lý
lịch:
Thí sinh không được dự thi
nếu là người đang còn tang chế; làm nghề xướng
ca hay con của người làm nghề xướng ca; loạn
đảng hay là con của loạn đảng; có phẩm hạnh
không tốt hay con của người có phẩm hạnh không tốt.
Lý lịch này phải được chứng thực bởi quan chức tại
nguyên quán của thí sinh.
Bên lề bài viết,
Mời đọc vài bài thơ:
- Bài thơ của cụ Nguyễn
Công Trứ
Chí Nam Nhi
Thông minh nhất nam tử
Yêu vi thiên hạ kỳ (*)
Trót sinh ra thì phải có
chi chi,
Chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn
sáu.
Đố kị sá chi con tạo,
Nợ tang bồng quyết trả
cho xong.
Đã xông pha bút trận, thì
gắng gỏi kiếm cung,
Cho rõ mặt tu mi nam tử.
Trong vũ trụ đã đành phận
sự,
Phải có danh mà đối với
núi sông.
Đi không, chẳng lẽ về
không?
(*) Một người con trai thông
minh, nên làm người khác thường trong thiên hạ.
Tây
Hồ hoài cổ
Lời ca: Nguyễn Công Trứ
Ca Nương: Nguyễn Kiều Anh
(bấm vào tên bài hát)
|