Số
phận của ông sãi, bà vãi
* * *
Nguyễn
Dư
|
|
Sách
Văn
đàn bảo giám của Trần Trung Viên (Mặc Lâm, 1968) có bài
Hương
Sơn phong cảnh của Chu Mạnh Trinh. Câu mở đầu là Bầu
trời cảnh Phật! Còn nhớ rõ bài học thuộc lòng ngày
xưa mở đầu là Bầu trời cảnh Bụt!
Bụt
hay Phật? Học đúng hay sai?
-
Cả hai cùng đúng vì Bụt là Phật.
-
Nhưng... Chu Mạnh Trinh dùng chữ nào?
Dân
gian có câu Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt.
Thời
phong kiến, nhà vua (kể cả vua "hỉ mũi chưa sạch", vua "bù
nhìn") được tôn làm cha mẹ dân. Non sông gấm vóc là của
vua. Trừ chùa làng. Làng xây cất chùa cho dân làng có chỗ
nghe kinh, lạy Phật. Vua không được đụng vào. Nếu vua thích
thì mời vua tha hồ ngắm cảnh bên ngoài. Phong cảnh giống
ông Bụt, không phân biệt vua hay dân, lúc nào cũng sẵn sàng
che chở tất cả mọi người.
Chu
Mạnh Trinh (1862-1905) đã lấy ý câu nói của dân gian để
viết Bầu trời cảnh Bụt! Trần Trung Viên đã chép
sai thành Bầu trời cảnh Phật!
(Gần
cuối bài Hương Sơn phong cảnh có câu Lần tràng hạt
niệm Nam vô Phật. Trùng vần với Bầu trời cảnh
Phật. Chu Mạnh Trinh đỗ giải nguyên, tiến sĩ, không thể
phạm lỗi như Trần Trung Viên tưởng).
***
Ông
Bụt, đức Phật
Tiếng
Phạn gọi đức Phật là Bouddha (Bu-Đa). Bouddha
được chữ Hán phiên âm thành Phật Đà, gọi tắt là
Phật.
Tiếng Việt phiên âm Bouddha thành Bụt Đà, gọi
tắt là Bụt.
Kết
quả nghiên cứu lịch sử Phật giáo cho biết rằng:
Đạo
Phật được các thiền sư Ấn Độ đi đường biển, truyền
vào nước ta rất sớm. Trung tâm Phật giáo Luy Lâu của ta
có trước trung tâm Bành Thành và Lạc Dương của Tàu.
Năm
580, Thiền sư Tỳ Ni Đà Lưu Chi (người Ấn Độ) đến nước
ta, ở chùa Pháp Vân trong 14 năm. Ông hoằng giáo và viên tịch
tại chùa này.
"Khi
Tỳ Ni Đà Lưu Chi tới chùa Pháp Vân thì ở đây đã có một
thiền sư Việt Nam tên là Quán Duyên đang dạy Thiền học
cho đồ chúng. Ông ở lại đây, và chọn Thiền sư Pháp Hiền
làm đệ tử. Pháp Hiền từ trước đã có học Thiền học
với Quán Duyên" (1).
Các
thiền sư Ấn Độ và Việt Nam đã dịch nghĩa hay chuyển âm
một số từ cần thiết từ tiếng Phạn sang tiếng Việt.
Chẳng hạn như Bouddha được chuyển thành Bụt.
Rất có thể duhkha (đu-kha, nghĩa là khổ)
của Tứ thánh đế đã trở thành đau khổ của
tiếng Việt v.v.
Dân
ta biết ông Bụt sớm hơn các nhà Nho biết đức Phật.
***
Ngày
nay đọc sách "gặp" Phật, Bụt, tăng, ni, sãi, vãi, tì kheo,
sa môn... Chữ Hán, chữ nôm, chữ Phạn. Khó hiểu. Dễ nhầm
lẫn.
Tăng,
ni
Sau
khi đắc đạo, đức Phật đã thuyết pháp cho bọn Kiều-Trần-Như
trước kia cùng tu khổ hạnh.
"Bọn
Kiều-Trần-Như được nghe Phật thuyết pháp đều xa bỏ trần
cấu, được phép nhỡn tĩnh, bèn quy y Phật pháp mà tu đạo,
cắt tóc, mặc áo cà sa (kasaya), thành năm vị sa
môn (çrâmana). Từ đó ở thế gian có Tam bảo: Phật
là Phật bảo, Tứ thánh đế pháp luân là Pháp bảo, năm người
sa môn là Tăng bảo" (2). Năm vị tu hành đầu tiên này lập
thành một sangha.
Sangha
được chữ Hán dịch âm thành tăng già, hay dịch nghĩa
thành tăng hội. Từ tăng được tách ra dùng để
chỉ những người đàn ông tu hành đạo Phật (tăng sĩ).
Sangha
chuyển sang tiếng Việt thành sư. Ông sư là người
tu theo đạo Phật.
Sư
(Việt) tương đương với tăng (Hán). Chữ Hán cũng có
sư.
Sư (Hán) là ông thầy.
Ông
sư
(Việt) của đạo Phật không phải là ông sư (Hán) dạy
học. Khổng Tử là "vạn thế sư biểu" (ông
thầy vạn đời) của quân tử, nhà Nho. Khổng Tử
không phải là ông sư tụng kinh gõ mõ.
Những
người xuất gia tu hành đạo Phật, đàn ông là bhikshu
(tỉ khưu, tì kheo), đàn bà là bhikshuni (tì kheo
ni), gọi tắt là Ni. Kinh, sách Phật giáo Việt Nam
có tăng
ni, sư ni, ni cô...
Sãi,
vãi
Tự
điển Alexandre de Rhodes (1651) có:
-
Tăng là người đi tu. Tăng ni là sãi vãi.
-
Sãi là ông sư (bonzo). Vãi là bà sư(bonza).
-
Sư là ông thầy.
Tự
điển Alexandre de Rhodes không có Sư là người tu hành
đạo Phật.
Tiếng
Việt có từ kép sư sãi. Sư do Sangha chuyển
thành. Còn Sãi?
Bọn
Kiều-Trần-Như quy y Phật, cắt tóc, đi tu, trở thành sa
môn (çrâmana). Âm "çrâ" được chuyển thành
Sa
(Hán), thành Sãi (Việt).
|
|
Ông sư
|
Nhà sư
lắc chuông
|
Còn
Vãi
thì từ đâu ra? Chưa thấy tài liệu nào cho biết.
Mời
các bạn cùng đi tìm nguồn gốc của Vãi.
Bezacier
kể truyện:
"Một
hôm, sau khi đi khất thực và ăn trưa xong, Ananda (Át Nan, A
Nan Đà) đang trên đường từ Çrâvastî về thì gặp
cô Pakriti xinh đẹp, thuộc giai cấp nô lệ (çûdra),
đang múc nước giếng. Ananda xin và được Pakriti cho uống
nước. Pakriti xúc động được một vị tu hành thuộc giai
cấp vương giả (kshatriya) nói chuyện. Pakriti ước muốn
được làm vợ Ananda. Nàng mời Ananda vào nhà. Ananda có linh
cảm mình sắp bị sa ngã bèn niệm Phật và được Phật cứu
thoát.
Pakriti
đi gặp đức Phật để xin phép được lấy Ananda. Rốt cuộc
đức Phật đã giáo hoá và độ cho Pakriti.
Pakriti
được nhận vào tăng đoàn. Sự cố này đã gây tai tiếng
trong Çrâvastî. Bên ngoài thì bị giai cấp Bà La Môn
và giai cấp vương giả phản đối chuyện một cô gái nô
lệ được khoác áo nhà tu, từ nay được quyền ra vào nhà
của họ.
Họ
rủ nhau đi gặp đức Phật để chất vấn nhưng đã được
đức Phật giải thích những điều sai trái của chế độ
phân chia giai cấp" (3).
Bezacier
không nói Çrâvastî là ai, là cái gì nhưng người nghe
kể truyện có thể suy ra được.
Pakriti
được nhận vào tăng đoàn, gây tai tiếng trong Çrâvastî.
Hai chi tiết này cho phép suy ra rằng Çrâvastî là sư
ni, hay tinh xá của sư ni (vihâra). Nếu là tinh
xá thì Bezacier đã dùng từ vihâra (tiếng Phạn) hay
monastère
(tiếng
Pháp).
Chỉ
còn giả thuyết Çrâvastî là sư ni.
Çrâmana
là
sa-môn.
Çrâvastî
là "sa-môn ni". Âm "vas" (vát) của Çrâvastî
đã được chuyển thành Vãi của tiếng Việt.
Vãi
là "sa-môn ni", là bà sư.
|
|
Bà vãi
đi quyên giáo thóc
|
Bà vãi
lần tràng hạt
|
***
Sãi,
vãi của tiếng Việt dĩ nhiên là không có trong kinh sách chữ
Hán. Sãi, vãi chỉ xuất hiện trong văn chương chữ nôm.
(Sãi
=
bộ Nhân + Sĩ, Vãi = bộ Nhân +
Vĩ).
Số
phận của ông sãi, bà vãi nổi trôi cùng vận nước.
Vua
Đinh Tiên Hoàng là vị vua đầu tiên đã định giai cấp cho
tăng lữ. Năm 971, một vị thiền sư tên Ngô Chân Lưu được
phong làm tăng thống. Chế độ tăng thống tại Việt Nam bắt
đầu từ đấy.
Trong
đời Lý, những vị tăng sĩ được xem như lãnh đạo tinh
thần cho triều đình và cho cả nước thì được gọi là
quốc sư.
Năm
1019, độ dân làm tăng sĩ. Đến năm 1134 vua Lý Thần Tông
lại tổ chức độ tăng một lần nữa. Số lượng người
xuất gia đông dần.
Vào
gần cuối đời Lý, năm 1198, số tăng sĩ lên nhiều quá, tệ
lậu sinh ra trong giới xuất gia, vua Lý Cao Tông cho chọn lọc
và sa thải bớt tăng sĩ không xứng đáng. Trước đó, năm
1179, vua đã cho khảo hạch các tăng quan (4).
Tình
trạng Lắm sãi không ai đóng cửa chùa bắt đầu xuất
hiện.
Năm
1429, Lê Thái Tổ mở kì thi Tăng đạo. Ai trúng tuyển được
ở chùa tu hành, người nào hỏng thì phải hoàn tục.
Vua
Lê Thái Tổ muốn xoá bỏ nạn Trốn việc quan đi ở chùa.
Sử
nhà Nguyễn chép rằng chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) có
danh hiệu là Chúa Phật. Dân gian "trông mặt đặt tên" cho
chúa là Chúa Sãi. Dân gian khiêm tốn hơn các sử thần.
Dưới
thời Chúa Sãi, vào khoảng năm 1621, Cristoforo Borri đã được
thấy tận mắt các ông sãi (onsaij) trong một hoàn
cảnh đặc biệt:
Quan
trấn thủ Quy Nhơn cưỡi voi đi săn chẳng may bị cảm nắng.
Chiều tối ông lên cơn sốt, rồi bị mê sảng, ốm nặng.
Ba ngày sau thì ông qua đời. Gia đình họ hàng đi mời ông
sãi
(onsaij) đến làm lễ.
Một
đoàn sãi đến. Các ông xì xào bàn cãi một lát rồi
chia nhau người thì vẽ vòng tròn, niệm thần chú, người
thì lo xua đuổi tà ma. Sau đó, ông sãi lớn tuổi nhất
trong bọn được cử ra làm lễ gọi hồn quan trấn thủ
về trò chuyện với người thân (...) (5).
Ông
sãi, thời Lý Trần là nhà sư, cuối đời nhà Lê quay sang
kiêm cả nghề pháp sư, thầy cúng, thầy phù thuỷ. Tệ trạng
này cũng được thấy trong truyện Phạm Công Cúc Hoa:
Cha
chết, Phạm Công đi mời người làm lễ tống táng.
 Lại
đi mời sãi đàng này
 Sãi
cũng chê khó chẳng nay đến cùng
 Phạm
Công nước mắt dòng dòng
 Khấn
trời thấm thía nguyện cùng cho cha
 Một
mình làm sãi trừ ma
 Vừa
thầy địa lí, chủ gia một mình.
Sãi
là thầy phù thuỷ, kiêm thầy địa lí. Sãi chỉ phục
vụ nhà giầu, chê nhà nghèo. Rốt cuộc Phạm Công (13 tuổi)
phải tự lo liệu.
Nguyễn
Cư Trinh (1716-1767) sáng tác Truyện sãi vãi nhằm mục
đích phê bình đạo Phật, ca tụng đạo Nho.
Ông
sãi của Nguyễn Cư Trinh là người chờ thời, trốn việc
quan đi ở chùa.
Truyện
Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) có bà vãi Giác Duyên:
 -
Mụ quản gia, vãi Giác Duyên
 Cũng
sai lệnh tiễn đem tin rước mời
 -
Thấy màu ăn mặc nâu sồng
 Giác
Duyên sư trưởng lành lòng liền thương
Nguyễn
Du xác nhận vãi Giác Duyên là sư trưởng (sư đứng
đầu trong chùa). Điều này cho thấy sư là từ chỉ
chung những người tu theo đạo Phật. Có sư ông, sư bà, sư
cô.
Phạm
Thái (1777-1813) đã có lúc đi tu, được thấy cảnh:
 Xuân
thu bao nã nữ ni
 Khen
rằng trẻ cũng từ bi lọ già
 Sài
Sơn tựa áng phồn hoa
 Sư
huynh chải chuốt, vãi già đong đưa
 Ra
vào tiểu gái lẳng lơ
 Long
lanh mắt biếc, say sưa miệng cười
 Sư
tiên đủng đỉnh lạ đời
 Xe
thêu kim tuyến, áo dài khói hương
   (Sơ
kính tân trang)
Nguyễn
Đình Chiểu (1822-1888) phê bình, lên Án thầy chùa:
 Bày
ra ba cảnh, sáu đàn,
 Đám
chay nhà thí, nhộn nhàng tăng ni.
 Nghênh
ngang hoà thượng pháp sư
 Đua
nhau làm phép Mâu Ni tưng bừng
 (...)
 Hỡi
ôi! Bầy dại tham sinh
 Nghe
lời sãi dụ quên mình làm dân
 Đạo
người hai chữ "quân, thân"
 Quân,
thân chẳng biết còn luân lý gì?
 (...)
 Đánh
cho thằng sãi đầu thai
 Kiếp
heo, kiếp chó, theo loài mọi xa.
   (Ngư
tiều y thuật vấn đáp)
Thời
Pháp thuộc... Vua quan, làng xã, chùa chiền bị thay đổi, xáo
trộn. Đạo Phật trước kia bị Khổng giáo của tầng lớp
cai trị, Lão giáo của mê tín dị đoan lấn áp. Bây giờ thêm
đạo Thiên Chúa. Lắm kẻ theo thời...
Bụt
nhà không cầu, cầu Thích Ca ngoài đường!
Tự
vị Huỳnh Tịnh Của (1895) có câu:
 Con
vua thì được làm vua
 Con
sãi ở chùa phải quét lá đa
Sãi
của thời kì mới là người làm việc cho nhà chùa, có vợ
con.
Tự
điển Génibrel (1898) có Sãi chùa là nhà sư. Bên cạnh
Sãi
chùa là Sãi trông nom chùa.
Đáng
chú ý hơn là Tự điển Génibrel có thêm mấy ông "Sãi
tây":
Sãi
nhà thờ là người trông nom nhà thờ. Sãi đò
là lái đò.
(Mấy
Sãi
mới này là người ở, đầy tớ (serviteur) của chủ
mới. Vợ của Sãi (serviteur) là con Sen (servante).
Tự
điển Jean Bonet (1900) định nghĩa:
Thầy
sãi là nhà sư, thầy pháp (sacrificateur).
Tự
điển Gustave Hue (1937) có thêm Sãi mõ là thằng mõ.
Trong
một chuyến đi thăm chùa tại Ngũ Hành Sơn, Khâm sứ Frédéric
Baille được dẫn đi xem hai gian nhà dành cho 15 tu sĩ, đặt
dưới sự cai quản của một sư trụ trì. Những tu sĩ ở
đây có người có vợ con, có người vì đời sống gia đình
gặp khó khăn, có người vì thi rớt, có người trốn sưu
thuế, tạp dịch. Có nhiều trẻ con trong hai gian nhà này (6).
Chùa
có nguy cơ trở thành... trại tế bần. Ai muốn vào "tu" cũng
được. Thậm chí...
 Cũng
ra đĩ rạc
 Bấy
lâu nay đã toác toạc toàng toang
 Chán
chê rồi về đến đầu làng
 Toan
tấp tểnh những đường tu lí
 (...)
 Tìm
am thanh cảnh vắng khỏi dơ tuồng
 Dập
dìu tiếng mõ tiếng chuông.
   (Tú
Xương, Đĩ rạc đi tu)
Tại
miền Bắc:
"Làng
đã có chùa, tất có hội chư bà. Chư bà là những đàn
bà từ năm mươi tuổi trở lên hoặc người đã có tuổi
mà goá chồng, mượn cửa chùa làm nơi vui thú.
Bà
nào muốn quy Phật, trước hết phải biện cái lễ trầu cau
vàng hương lên lễ Phật, nói với nhà sư xin thọ giới, vào
hội quy y gọi là chư bà hay là bà vãi (...).
Nhà
chùa có việc gì các vãi tất phải hết sức giúp đỡ,
hết lòng lo giùm, không dám sai lời. Trong các vãi thế
nào cũng phải cắt cử một người nhanh trai nhật dạ ở
luôn trong chùa phục dịch gọi là vãi thủ hộ" (7).
Bà
vãi không còn là "sa-môn ni" như xưa.
Chính
quyền thực dân Pháp thay đổi guồng máy cai trị làng xã.
Ngày xưa Phép vua thua lệ làng, bây giờ Lệ làng hàng
luật Pháp.
Hội
đồng tộc biểu và Hội đồng kỳ mục bị xoá
bỏ, thay thế bằng Hội đồng kỳ hào. Tại Cam Thịnh,
Cam Lâm, Yên Thịnh (tỉnh Sơn Tây), ngôi thứ thái vãi,
đại
sãi, sãi cả được treo giá bán.
Đại
sãi, sãi cả được Hội đồng kỳ hào quy định
là đàn bà lớn tuổi, theo đạo Phật, giữ việc
trông coi chùa (grande gardienne de pagode) (8).
Đúng
là tiền bạc làm tối mắt, không phân biệt được sãi
hay vãi.
Tự
điển Việt Nam (1971) của Ban tu thư Khai Trí cũng phạm
sai lầm khi định nghĩa Sãi vãi là Đàn bà ở chùa,
tu theo đạo Phật.
Năm
1943, Thượng toạ Mật Thể có nhận xét:
"Trải
các triều vua (nhà Nguyễn), nhất là triều vua Thiệu Trị,
ngài là một ông vua hết lòng sùng phụng và rất sốt sắng
với đạo Phật. Những sự nghiệp xây dựng cho Phật giáo
về thời này, ngài là người đáng cho ta chép vào lịch sử
hơn hết. Nhưng thật ra Phật giáo về thời này đã kém lắm
rồi, nên dầu các triều vua vẫn tín ngưỡng sùng phụng,
làm chùa đúc tượng mà tinh thần Phật giáo vẫn suy.
Đến
đây, từ trên vua quan cho đến thứ dân, ai ai cũng an trí đạo
Phật là ở sự cúng cấp, cầu đảo chứ không biết gì khác
nữa và phần đông họ chỉ trọng ông thầy ở chỗ danh vọng
chức tước, mặc dầu ông thầy ấy thiếu học, thiếu tu.
Bởi tệ hại ấy, làm cho tăng đồ trong nước lần lần sa
vào con đường truỵ lạc, cờ bạc rượu chè, đàm trước
thanh sắc. Tuy vậy, ở miền trung ương Bắc Kỳ về kỷ luật
tăng già bề ngoài còn giữ được nghiêm chỉnh đôi chút,
chứ như Trung kỳ phần nhiều họ đã có vợ con một cách
công nhiên, không còn áy náy, nhứt là Nam kỳ ông thầy, bà
vãi lại càng hỗn độn hơn nữa. Cũng vì tình trạng ấy
mà tạo nên hại lớn ngày nay. Đến nỗi gần 15 năm lại
đây, hiện tượng suy đồi ấy càng biểu diễn đến chỗ
đồi bại; phần đông tăng đồ chỉ nghĩ đến danh vọng,
chức tước, xin bằng Tăng cang, Trú trì, Sắc tứ v.v. một
phương diện khác thì chỉ biết cúng cấp, cầu đảo, phù
chú (phù chú đã thành phù thuỷ hoá) làm tay sai cho các nhà
vua chúa, quan quyền, phú hộ, thay vì họ cầu đảo, cúng cấp
để làm kế sinh nhai, hoặc phải chăm việc đồng áng có
thể nuôi sống hàng ngày ; còn một hạng nữa chỉ giữ mình
cho được thanh nhàn, ăn chơi tiêu khiển bảo là giải thoát
v.v. Ôi! Tinh thần Phật giáo đến đây hầu đã tuyệt diệt!
Bởi vậy các cảnh chùa trong nước đã thành những cảnh
gia đình riêng, không còn gì là tính cách đoàn thể của một
tôn giáo nữa. Họ sống trong Phật giáo hầu hết chỉ còn
"dốt" và "quên". "Quên" để khỏi phải biết đến bổn phận,
bổn phận chơn chánh của một Tăng đồ.
Ở
trong Tăng đồ thì như vậy, ở ngoài tín đồ, cư sĩ thì
cũng ngơ ngác, ù oà, tin bướng, theo càn, ít ai là người
hiểu đạo lý.
Trong
lịch sử Phật giáo Việt Nam, ta có thể đánh vào đây một
dấu than (!) rất to tướng" (9).
***
Thế kỉ 21, số phận của ông
sãi,
bà vãi ra sao? Xin chờ hồi sau phân giải.
Nguyễn
Dư
(Lyon, 2/2021)
(1)- Nguyễn Lang, Việt Nam Phật
giáo sử luận, tập 1, Văn Học,1992, tr. 123.
(2)- Trần Trọng Kim, Phật
giáo, Ba bài diễn thuyết, Chùa Khánh Anh tái bản, tr. 23.
(3)- Louis Bezacier, L'Art viêtnamien,
Éd. de L'Union française, 1955, tr. 168.
(4)- Nguyễn Lang, sđd, tr. 234.
(5)- Cristoforo Borri, Relation
de la nouvelle mission au royaume de la Cochinchine,
BAVH, 3-4/1931, tr. 356-357.
(6)- Frédéric Baille, Les Annamites,
1898, tr. 24.
(7)- Phan Kế Bính, Việt Nam
phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp tái bản, 1990, tr. 195.
(8)- Nguyễn Tùng, Mông Phụ,
un village du delta du Fleuve Rouge (Viêt Nam),
L'Harmattan, 1999, tr. 97-99.
(9)- Mật Thể, Việt Nam Phật
giáo sử lược, Minh Đức tái bản, 1960, tr. 222-224. |