Mãi
tới năm 2010, hơn 45 năm sau, kể từ năm 1965, ngày rời nhiệm
sở, chúng tôi mới có dịp quay lại Dương Đông, Phú Quốc.
Chuyến bay hôm đó, ngồi trong
một máy bay cánh quạt của Nga, gần giống như máy bay DC3
thời xưa của Air Vietnam, nhưng xập xệ hơn nhiều. Bầu
trời vẫn xanh, nắng vẫn rực rỡ, những đám mây vẫn trắng
tinh. Phía dưới những thị trấn nhỏ mới mọc lên bên các
nhánh Cửu Long Giang. Ruộng đồng xanh mát không còn những
hố bom đạn loang lổ như ngày xưa.
Phi cơ bay thẳng từ Saigon ra
Phú Quốc, không ghé phi trường Rạch Sỏi để đón thêm khách
như ngày trước. Nhìn xuống, biển vẫn xanh, sóng bạc đầu
vẫn vỗ trắng vào ven đảo. Phi trường nay là một tòa nhà
hai tầng, có đường chuyển hành lý tự động ngắn. Phòng
đợi trên lầu có máy lạnh và tấng dưới là những quầy
hàng, bán những đặc sản địa phương.
Xe chở đoàn du lịch vào thị
trấn Dương Đông và ra thẳng ngôi đền thờ Dinh Cậu, nơi
mà ngày trước, khi mới đến đảo nhận việc tôi được
nhân viên đưa đến trình diện Cậu để được ban phước
lành. Khi ra ngoài đứng trên bao lan nhìn quanh, biển vẫn rộng,
xanh mát như ngày xưa, chỗ cửa sông có lần tôi đã bơi ra
xa đến chỗ cọc mốc mà một ông lão đã bảo cho tôi phải
coi chừng cá mập. Mỏm đá hình cá sấu vẫn nguyên vẹn hướng
về cuối đảo. Nhìn sang phía xóm Cồn mà tôi đã để cho
ngư dân Bình Định tránh chiến tranh di cư vào tạm trú ở
cuối cồn, nay nhà cửa chen lấn ngổn ngang. Cái tên Bình
Định mà tôi đặt tên cho cái xóm đó, đến nay họ vẫn
giữ. Chỉ tiếc cái cồn cát dài trắng xóa nên thơ đó không
còn nữa.
Tôi bước xuống khỏi dinh,
nhìn quanh tìm căn của nhà sàn cửa biển của cô Mười
ở đầu cửa sông chẳng thấy đâu, thay vào đó là một trạm
hải quan. Tượng Đức Mẹ mà quận trưởng Thanh cho người
dựng gần dinh Cậu, đầu cửa biển đã làm mất lòng dân
địa phương, nay đã bị rời đi đâu chỉ còn trơ lại bệ
xi măng. Tôi đi dọc biển, bãi cát không còn mịn như xưa,
đá sạn, vỏ chai ốc và rác không còn là bãi tắm.
Tôi hướng về phía phía quận cũ, khu nhà nhân viên không
còn nữa, cả đến những ngôi mộ cũ mấy trăm năm của
các nhà truyền giáo cũng không còn dấu tích để các khách
du lịch ngoại quốc sau này có cơ hội đến xem.
Tôi nghĩ đến ngôi giáo
đường cổ nhỏ mất mái, chỉ còn trơ bốn bức tường
rêu phong mà có những lần tôi cùng một nhóm giáo dân
ngồi nghe tiếng giảng lẫn trong gió của một vị linh
mục từ một làng đạo di cư Ba Làng phía nam đảo An
Thới, dù tôi không theo đạo Thiên Chúa. Tôi chắc ngôi
giáo đường cũng bị san bằng. Nay cả khu tôi đang đứng
chỉ thấy cỏ hoang và rác rưởi. Sở Khí Tượng cũ đã bị
phá bỏ, thay vào một cơ sở mới được xây cạnh đó. Không
hiểu hai vợ chồng Trưởng Ty Khí tượng một thời họ ở
mãi tận Hoàng Sa đổi về đây, nay đã trôi dạt về đâu.
Hàng dừa mà vợ chồng tôi
đứng chụp trong những ngày ra thăm lại đảo năm 1965 vẫn
còn, nhưng nay thân cao gầy còm cong lại, vì đã phải chống
trả và chịu đựng với những cơn gió biển trong bao năm
qua.
Sau đó, họ đưa về một
resort sát biển gần đó để nghỉ. Phòng ốc khá khang
trang, các bữa ăn hải sản thịnh soạn và tiêu chuẩn.
Tối hôm đó không có mục gì, trong đoàn du lịch có
một đôi vợ chồng trẻ ở Cali rủ chúng tôi xuống
nghe hát karaoke. Cùng đến đó có mấy thanh niên nam nữ,
họ lần lượt chia nhau hát. Hai vợ chồng này toàn chọn
nhạc vàng lãng mạn trước 75, còn nhóm trẻ thì hát
các bài ca cách mạng đặc mùi Mác Xít. Tôi cười thầm
trong bụng, nghe thấy trớ trêu. Một lúc sau thấy họ
rời phòng, chắc nghĩ mình không giống ai, đi du lịch
mà vẫn mang theo những bài đó, chắc là phải theo ý
trưởng đoàn.
*
"Đêm đó, tôi nằm nhớ lại
thời gian dài đã ở đảo. Tôi ra trường Quốc Gia Hành
Chánh, khóa 6 đầu năm 1962, tưởng rằng sẽ được ở
Saigon kéo dài cuộc đời ký cóp trong các bộ phủ như
các khóa trước. Lúc đó Cộng Sản đã mở các cuộc
phá hoại dồn dập ở nhiều nơi. Trường QGHC những
năm đó trực thuộc Phủ Tổng Thống, và Tổng Thống
Diệm đã thay đổi ý định xử dụng khóa của tôi.
Khóa tôi chỉ có 36 sinh viên tốt nghiệp, ông đưa nửa
khóa vào Trung Ương Tình Báo, còn một nửa khóa trong
đó có tôi đưa ra quân trường Đồng Đế, Nha Trang, do
tướng Đỗ Cao Trí chỉ huy để dự khóa 3 Chuẩn Úy
Hiện Dịch. Theo tướng Trí, một người lính bộ binh
giỏi là một người đi bộ giỏi. Thành thử chúng tôi
đi di hành theo tốc độ ngày đêm mút mùa gần như hàng
tuần. Tổng Thống Diệm quan niệm rằng một người
chỉ huy ở địa phương phải được huấn luyện về
cả hành chánh và quân sự mới phù hợp với hoàn
cảnh chiến tranh.
Khi rời quân trường, tôi
cầm nghị định bổ nhiệm đi Rạch Giá, Kiên Giang, nhưng
đến đó mới biết nhiệm sở cuối cùng là đảo
Phú Quốc. Phó Tỉnh Trưởng, một người học trên tôi,
khóa 1 trao sự vụ lệnh nói với tôi như an ủi:
-Em cứ ở tỉnh ít lâu,
ngoài Tết đi cũng được. Có gì cho "qua" biết.
Những ngày ở lại, tôi
được ông hậu đãi vào hàng quý khách của tỉnh. Ở
khách sạn lớn trong tỉnh, hàng ngày tiệm ăn Tầu có
tiếng đem thức ăn đến tận phòng, ngày ba bữa. Tôi
phải thực sự cám ơn người đàn anh.
Nhớ lại hình ảnh thư
sinh mới ra trường, một mình tay xách chiếc va li đến đảo,
lãng mạn tưởng như đang sống lại một phần đời của
Gauguin đang đi tìm lại một thiên đường lỡ dở trong các
họa phẩm vẽ cảnh rừng dừa ven biển, với các chàng trai
lực lưỡng đang đánh những tiếng trống bập bùng, với
những cô gái mình trần đa tình đang cầm vòng hoa đón khách
lạ. Thấy lại hình ảnh lang thang của mình như một Gary Cooper
sau những ngày phiêu bạt trở lại đảo như trong phim Retour
au Paradis. Thấy lại hình ảnh của mình ngồi trên mũi thuyền
những ngày rong ruổi trên biển, nghe sóng vỗ và nhìn vào
dọc đảo xanh để đến những ấp lạ như sống trong phim
của thời Seven Samurais...
Khi tôi ra đảo, các đường
bộ đều bị cắt đứt, chỉ còn bốn ấp ven biển
có hàng rào chiến lược , nếu muốn đến phải dùng
thuyền hay nhờ các ghe của Hải Thuyền. Mấy xã, ấp
trong lòng đảo đã bị xóa sổ từ trước. Dân số
trên đảo khoảng 8,000 người, tập trung trong các ấp còn
lại, một số sống rải rác trong các vườn tiêu trên
đảo. Phú Quốc gồm nhiều ty, sở thuộc trung ương như
một tỉnh nhỏ. Nhưngmột số công chức làm việc trên đảo
thường coi như bị đi đầy. Họ đếm từng ngày một để
chóng được trở về đất liền. Buồn nhất là nghe những
người lính, bao nhiêu năm không được về lại đất liền,
bao nhiêu năm không được trở về quê hương thăm cha mẹ,
họ hàng thân thuộc. Những em nhỏ, nói đến Sài Gòn như
nghe chuyện một giấc mơ, hay ở một thế giới khác, mà nghĩ
rằng cả đời mình chắc khó có ngày đến đó được. Những
cụ già từ xóm xa, khi đến quận gặp tôi,vẫn chắp tay vái
và gọi tôi bằng "Quan". Dặn mấy ông cụ bao nhiêu lần là
chỉ cần gọi bằng "ông", nhưng vừa được câu trước, đến
câu sau, các cụ lại quen miệng gọi là quan như thường. Đã
sang đến thập niên 60 mà khi hỏi các cụ, ai là người đứng
đầu nước Việt Nam bây giờ,các cụ vẫn trả lời là "Vua
Bảo Đại".
Tổng Thống Diệm, lúc đó
đang cố đẩy mạnh chương trình lập ấp chiến lược, tin
tưởng rằng sẽ tách rời được Cộng Sản ra khỏi dân quê
và phát triển được các phương diện kinh tế, xã hội, giáo
dục, y tế và an ninh trong các xã ấp mà dân quê từ bao nhiêu
năm đã không được hưởng. Tôi cũng thường theo các cuộc
hành quân để lập ấp, tổ chức định cư, thành lập
ấp cũng như lập các dự án tự túc để giúp dân
phát triển các phương diện kể trên. Nhưng có những
ấp vừa thành lập chẳng bao lâu lại phải bỏ, vì quá
cô lập, mà quân số thì ít và không dám dàn mỏng.
Tôi đã đến các ấp nhỏ trên đảo, có ấp chỉ có
khoảng hơn một trăm dân, hàng rào gần ngay trước mặt,
lớ ngớ rất dễ bị Việt Cộng bắn sẻ.
Tôi cũng đã đến một
số các đảo nhỏ lân cận, có dịp lặn dưới biển
bơi cùng các đàn cá mầu trong các rặng san hô. Tôi ở
đảo, không bao lâu thành một dân "chịu chơi". Cùng ăn
nhậu với lính, với ngư dân và dự những buổi ăn
uống đình đám trong xã. Họ uống rượu rất dữ,
tôi cũng phải cố theo mà trước kia chưa bao giờ uống
đến nửa chai bia.
Một lần, biển động
đến hơn tháng trời, ghe thuyền không ra khơi mà cũng
không đến được đảo. Gió thổi mạnh mà mưa thì mù
trời, máy bay mỗi tuần có một chuyến không thễ hạ
cánh. Chẳng biết làm gì cho qua những ngày bão biển, không
có chuyện gì làm, ngồi hút thuốc lá đến đen cả
mấy ngón tay. Tôi vào trong kho lục trong đống văn khố xem
có gì đáng đọc hay không, tôi mang ra từng chồng sách xuất
bản từ Hà Nội đã tịch thu được trong cuộc hành quân
trên vùng Bắc đảo năm trước. Những sách khảo cứu về
dược thảo Việt Nam, chắc để cho du kích dùng mỗi khi thiếu
thuốc bào chế. Những sách về khảo cổ, lịch sử và văn
học viết theo quan điểm Mác-Xít, mị giai cấp công nông,
đọc không nổi.
Tôi tìm được một quyển
Địa Phương Chí của đảo, đã khiến tôi nghiền ngẫm đến
mấy ngày liền và là một cái cớ khởi đầu để tôi có
dịp đi gặp các cụ già trên đảo tìm hiểu thêm về các
sử liệu, các dấu vết cổ xưa, kể cả các truyện truyền
kỳ, huyền thoại. Tôi mở rộng tấm bản đồ với đầy
đủ các hòn đảo của Việt Nam trong vịnh Thái Lan. Những
cái tên nghe mường tượng như từ một thời cổ xưa lập
địa với những Hòn Đồi Mồi, Hòn Kiến Vàng, Hòn Khoai,
Hòn Thơm, Hòn Nước, Hòn Rùa, Hòn Tre, Hòn Tre Lớn, Hòn Tre
Nhỏ, Hòn Thổ Châu và Hòn Hải Tặc... mà nhiều hòn trong
suốt thời gian ở đó tôi không có dịp đặt chân đến.
Tôi đọc tới những trang
sau, những truyện có thật mà tưởng như truyền kỳ của
một hòn đảo thường được gọi là xứ của 99 ngọn núi,
ý nói có nhiều núi lắm. Những chứng tích còn lại, như
những bí mật của Chùa Sư Muôn. Những câu sấm của ông
Đốc Phủ Chiêu với chùa Cao Đài trên núi, mộ của những
ông cố đạo ngoại quốc không hiểu từ đâu đến truyền
giáo, có những cái tên lạ hoắc được chôn ở bãi biển
sau quận từ thế kỷ trước mà những buổi chiều hè, lúc
tôi tắm biển xong thường ngồi nghỉ trên những tấm mộ
này nhìn ra biển ngắm cảnh hoàng hôn. Cái Giếng Tiên bên
bờ sông Dương Đông nước mặn mà nước giếng vẫn ngọt.
Các đền thờ Cá Ông rải rác trên đảo, nhưng khi tôi có
dịp đến thăm thì đã chẳng được ngư dân thờ phụng như
trước nửa, chỉ còn chỏng chơ vài cái xương cá voi khổng
lồ cũ kỹ...
Trong phần lịch sử của
đảo, tôi thấy có những đoạn viết về đoàn thuyền
của Nguyễn Huệ lùng đuổi Nguyễn Ánh, sau đó cả hai đều
kế tiếp mang mạng đế vương. Có trang nhắc đến Nguyễn
Trung Trực chạy ra đảo để tránh cuộc vây bắt của giặc
Pháp. Hai sự kiện đặc biệt trong cuốn Địa Phương Chí
mà không thấy một sách vở hay tài liệu nào khác
nói tới là: Quân Nhật đem hàng trăm tù binh san bằng
đất làm phi trường ở Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ Hai
để tấn công Tân Gia Ba. Tôi đã cố đi tìm chứng tích,
nhưng vì trong lòng đảo, chỉ gặp được một hai người
còn nhớ ít câu tiếng Nhật nhờ làm thông ngôn cho họ.
Sự kiện thứ hai là cả một sư đoàn tàn quân Quốc
Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông Dương
Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa, qua biên giới Việt Nam khiến
người Pháp phải đưa họ ra đảo lánh nạn. Họ ở lại
cho đến khi Tướng Tưởng Giới Thạch về Đài Loan.
Tôi đã đến thăm nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ
minh trên đảo tại cuối phi trường. Sau này, trong một
chuyến bay du hành quan sát từ Đài Bắc ra thăm hai đảo
Kim môn và Mã Tổ sát đất liền Trung Cộng, tôi ngồi
cạnh một vị Đại Tá Đài Loan. Ông hỏi tôi, đã làm
việc ở những đâu, tôi có nói đến Phú Quốc, ông
mừng rỡ kêu lên và cho biết ông thuộc sư đoàn tạm
trú trên đảo trong mấy năm đó. Ông đã kể lại rành
mạch cho tôi tên những địa danh trên đảo.
Nhưng có một hình ảnh mà
tôi đã hình dung ra và đã theo tôi mãi trong những ngày ở
trên đảo và cả sau này nữa, đó là đàn trâu mấy chục
con của bà Kim Giao. Tính ra những con trâu này đã được mang
ra đảo vào khoảng mấy trămnăm trước, hiền lành chỉ biết
cần cù, ra sức cầy bừa. Công cuộc khai khẩn thất bại.
Sau khi bà mất, đàn trâu này trở thành một lũ trâu rừng
lang thang... Tôi có dịp nói chuyện với một số dân trong
rẫy, ở ngoài vòng ấp chiến lược, họ cho biết đàn trâu
chỉ còn lại hai con. Năm trước một con đã bị bắn chết.
Nghe đến đó tự nhiên tôi thấy buồn rầu như đã đánh
mất một vật gì quí báu mà không thể nào tìm lại được.
Bây giờ một con đã bị bắn chết, còn một con lủi thủi
cô độc, trong một vùng hoang đảo mênh mông. Tôi không muốn
tưởng tượng ra thêm nữa về tình cảnh của một con trâu
rừng cuối cùng trên đảo. Nhưng như thế cũng đủ làm cho
lòng dạ tôi bồn chồn, lo lắng về số phận của nó. Tôi
đã nghĩ đó là một hình ảnh, một huyền thoại cuối cùng
của hòn đảo, của một thiên đường đã mất mà tôiđang
sống, mà tôi đang đi tìm từ ngày đến đảo. Nhưng sao tôi
thấy cái huyền thoại đó quá mong manh và không hiểu nó sẽ
kết thúc vào lúc nào và như thế nào. Mặc dầu tôi đã cẩn
thận dặn dò các người lính và dân trên đảo là không nên
săn đuổi con trâu nữa...
Lúc Tướng Nguyễn Khánh
lên cầm quyền, ông muốn thực hiện ý định tổ chức
Phú Quốc thành một trung tâm giải trí cho lính Mỹ đi
nghỉ phép để thu ngoại tệ, thay vì để họ đi Hồng
Kông, Bangkok hay các nơi khác vung tiền. Tôi được lệnh
thảo một dự án thành lập tỉnh Phú Quốc, việc này
không khó khăn lắm vì đã sẵn có một số ty sở thuộc
trung ương, chỉ cần tăng cường một số cơ sở liên
hệ đến dự án. Tôi tưởng tượng ra một trung tâm
giải trí du lịch cho lính Mỹ gồm khách sạn, nhà hàng,
ca nhạc, casino, sân golf, thể thao trên biển và nhiều thứ
hấp dẫn khác ngang ngửa với các nơi khác ... Tôi không
hiểu ông lấy ngân sách ở đâu hay đã có sự hứa
hẹn của một nhà tài phiệt nào. Nhưng vấn đề an
ninh phải được bảo đảm một trăm phần trăm, nếu không
sẽ bị hủy hoại bất cứ lúc nào. Ông cho biết sẽ
đem một tiểu đoàn Nùng và 3,000 dân Nùng ra diệt trừ
hết du kích. Tôi đã đón tiếp các phái đoàn Nùng
và dùng tàu đưa họ xem vòng quanh đảo, cũng như phân
tích những điểm trọng yếu trên đảo…
Sau đó ít lâu, tôi lại
phải sang Hàm Ninh, phía Đông của đảo để giúp hội đồng
xã tổ chức lại một số vấn đề hành chánh, tài chánh
và nhất là định lại thuế má. Xã quá nhỏ, hơn trăm dân,
thuế thâu rất là khó khăn, chỉ đủ trả lương cho một
mình xã trưởng. Ông ta là một ông già, có chút chữ nghĩa,
biết tính toán, hàng ngày lại phải kiêm luôn chức giáo
làng dậy một đám trẻ nhỏ. Giáo viên cử đến tháng trước
thì tháng sau lấy cớ đau ốm về đất liền rồi ở luôn
không thấy ra nữa. Nếu tăng thuế để đủ chi phí điều
hành xã thì chắc dân sẽ bỏ đi hết, chỉ còn le que ít lính
trong đồn, rồi chẳng bao lâu đồn sẽ bị triệt hạ vì
lý do này hay lý do khác và quận sẽ mất thêm một xã nữa.
Thành thử, mọi chuyện cứ để lết bết như cũ.
Không còn chuyện gì làm,
tôi gọi về quận để cho thuyền đến đón, thì trời nổi
gió, mây đen ngùn ngụt phủ đầy trời. Ngoài kia, biển chợt
sẫm lại và sóng đánh vào mấy chiếc ghe cắm đàng xa, dập
vùi như muốn nhận chìm xuống đáy biển. Thời tiết này
thì ít nhất cũng phải một tuần nữa mới có thể trở về
quận được. Mấy quyển sách đem theo cũng vừa đọc hết,
tôi lang thang đi từng nhà, nói chuyện với các ông già bà
cả. Họ kể lại những chuyện nghe như chuyện ngày xưa tự
thuở bán khai. Nói chuyện với các trẻ thơ, thấy chúng vô
tội, và thấy thương vô vàn khi nghĩ đến tương lai của
chúng. Có lúc, tôi trầm ngâm ngồi nhìn và nghe chuyện giữa
một cô gái đảo đương thì và một anh lính trẻ trong đồn,
tôi chưa tưởng tượng được giấc mơ của họ như thế
nào ở chốn tận cùng của trời đất này.
Một buổi trưa, đang nằm
lơ mơ trên võng sau nhà của một người thợ săn, tôi bỗng
choàng dậy vì thấy một cái gì ẩn hiện trên đống cát
gần hàng rào thưa. Tôi vội chạy đến, lấy tay gạt cát
và kéo lên một cái sọ trâu trắng hếu với cặp sừng cùn
sơ mà cái nào cũng chỉ còn một nửa. Tôi lệ khệ bê cái
sọ trâu vào trong nhà. Họ cho biết, hơn tháng trước Thiếu
Úy Bình cùng mấy người trong ấp đi săn, đột nhiên gặp
con trâu rừng này. Lúc nó trông thấy Thiếu Úy Bình thì
chỉ còn cách xa vào khoảng ba chục thước, nó đứng yên,
hai chân cào đất lấy thế tấn công. Mọi người thấy thế
dãn ra, chỉ còn Thiếu Úy Bình quỳ xuống sẵn sàng nạp
đạn. Sau một lúc nghênh nhau, con trâu rừng bỗng lao về phía
Thiếu Úy Bình, mấy viên đạn nổ vang theo đà con trâu ngã
gục ...
Tôi không còn muốn nghe thêm
gì nữa, vội chạy lên đồn để gây sự, thì lính trong đồn
cho biết Thiếu Úy Bình đi săn bị ngã từ trên cây xuống,
gẫy xương sống, đã phải đưa vào bệnh viện tỉnh tuần
trước rồi.
Tôi thẫn thờ đi ra khỏi
đồn, tưởng tượng đến phút cuối cùng của con trâu rừng
trên đảo đã gục ngã. Tưởng tượng đến cả đám trâu
rừng của bà Kim Giao đem ra hơn hai trăm năm trước nay không
còn nữa. Tưởng tượng đến cái dấu vết cuối cùng của
một thiên đường hoang tưởng đã mất mà tôi đang tìm, như
bỗng chốc không bao giờ còn tìm thấy lại. Tôi trở về
nhìn lại cái sọ trâu với cặp sừng, lấy tay phủi cát trong
cặp mắt sâu hoắm, tưởng như bao nhiêu huyền thoại vẫn
còn chứa chất trong đó. Tôi nhớ lại từng trang trong cuốn
Địa Phương Chí của đảo mà tôi đã đọc trong những
ngày biển động. Tôi thấy đoàn thuyền của Nguyễn Huệ
đang lùng đuổi Nguyễn Ánh, thấy con cá voi đang cố sức
đỡ thuyền cho Nguyễn Ánh khỏi bị lật trong cơn giông bão,
thấy một đàn cá lạ đến dâng mình cho Nguyễn Ánh trong
cơn đói lả. Thấy hình ảnh của nhà truyền giáo từ một
xứ xa lạ nào đó đang nằm thở những hơi cuối cùng trong
ngôi giáo đường ven biển, chờ Chúa đến đón. Thấy Nguyễn
Trung Trực đang treo đứa con nhỏ của mình trên nhành cây
cho dân trong trong ấp nuôi để cố thoát khỏi cuộc vây bắt
của giặc Pháp. Thấy cả đám tù binh gầy guộc đang lê lết
san bằng đất làm phi trường Cửa Cạn trong Thế Chiến Thứ
Hai, thấy lại từng đoàn máy bay Nhật lên xuống bụi mù
cả một vùng, thấy đám lính Nhật bắn súng vang trời ăn
mừng khi Tân Gia Ba thất thủ. Thấy lại cả đám tàn quân
Quốc Dân Đảng bị Hồng Quân Mao Trạch Đông vượt sông
Dương Tử xua họ ra khỏi Trung Hoa và tràn qua biên giới
Việt Nam khiến người Pháp phải đưa ra họ ra đảo lánh
nạn, đang mình trần chặt cây dựng lều tạm trú trên đảo.
Thấy hình ảnh nghĩa trang của những Quốc Quân bỏ mình trên
đảo mà mắt vẫn trông về cố quốc.
Khi trở về quận, trong
đống công văn, tôi nhận được sự vụ lệnh về tỉnh
nhận một chức vụ mới. Tôi đã sống ở đảo ba năm,
không có ý định xin đổi đi đâu. Chắc không có chuyện
này tôi còn ở lâu hơn nữa. Tỉnh trưởng là Thiếu
Tá Đặng Đình Thụy gọi cho tôi nói như an ủi, không
nên ở đó quá lâu họ sẽ quên mình. Sau đó tôi hiểu
ngay lý do về tỉnh để nhường chức vụ Phó Tỉnh cho
một người khóa sau có cổ cánh trên bộ. Ông để
tôi giữ chức Trưởng Ty Kinh Tế và kiêm Tỉnh Đoàn
Xã Hội. Sẵn xe của tỉnh đoàn, tôi lái xe đi loanh quanh,
không thiết làm việc.
Một tuần sau, Tỉnh Trưởng
gọi tôi, giao cho tôi một trăm ngàn bảo tôi ra lại đảo
tiếp phái đoàn Tướng Nguyễn Khánh và Phó Thủ Tướng
Nguyễn Lưu Viên ra duyệt xét lần chót trước khi ký
sắc lệnh thành lập tỉnh Phú Quốc. Hôm phái đoàn
đến bằng hai máy bay, tùy tùng khá đông, có thêm một tướng
ngành Công Binh. Bên dân sự ngoài Thủ Tướng Viên có một
hai Thứ Trưởng.
Sau khi hội họp tại quận,
duyệt xét kế hoạch lập tỉnh lần chót, phái đoàn dân sự
đi thị sát các cơ sở hiện hữu, sau đó sẽ ra máy bay về
Saigon. Riêng phái đoàn các tướng lãnh ra chiến hạm xuống
đảo Hòn Thơm để quan sát phía nam đảo.Tôi được chỉ
thị tháp tùng họ. Lúc đứng trên boong tàu, nhìn lá cờ vàng
ba sọc và lá cờ tướng ba sao trên đỉnh chiến hạm, nền
trời xanh, mây trắng lững lờ trôi, mặt biển lặng, nước
trong và gió nhẹ hây hây, thật là một ngày quá đẹp. Tôi
nhìn vào đảo, tưởng tượng đến một ngày nào đó hòn
đảo sẽ trở thành trù phú sinh động như trong sự mơ ước
của mình.
Khi đến Hòn Thơm, hai ghe
chủ lực đã chờ sẵn sàng ở đó để đưa mọi người
vào đảo. Tôi đã đến Hòn Thơm vài lần. Trên đảo cây
cối xanh tươi, những bãi biển cát vàng lóng lánh, những
ghềnh đá sóng vỗ tung bọt trắng, đêm trăng ở đó thật
là huyền ảo. Ven biển là những rừng san hô, cá nhiệt đới
đủ màu lập lờ bơi dưới nước.
Lúc mọi người đang dùng
bữa trưa, thì một tin khẩn cấp từ chiến hạm báo cáo qua
máy truyền tin là Việt Cộng dùng súng cối 81 pháo vào phi
trường, định phá máy bay và tấn công vào phái đoàn dân
sự đang chờ tại trạm hàng không. Tướng Khánh yêu cầu
mọi người trở lại ngay chiến hạm và ra lệnh tàu quay về
Dương Đông. Khi chiến hạm vừa nằm trên đường ngang với
phi trường, hàng loạt trọng pháo được phóng ra nã vào sâu
trong đảo. Tiếng nổ vang vọng lại, một vài cột khói bốc
cao, tôi có cảm tưởng như đang đứng trước giờ đổ bộ
Normandy trong cuộc Thế Chiến Thứ Hai.
Báo cáo của lực lượng
địa phương cho biết đã đẩy lui được Việt Cộng ra ngoài
hàng rào phi trường. Máy bay bị một số đạn nhỏ, không
biết hư hại ra sao. Phía ta, hai địa phương quân bị thương
nhẹ và một nghĩa quân bị thương nặng.
Tôi cùng với một bác sĩ
quân y được ghe ra đón vào đảo để săn sóc mấy binh sĩ
bị thương. Sau khi băng bó và cho thuốc xong, bác sĩ liên lạc
với tướng Khánh, cho biết cần phải di chuyển nghĩa quân
về bệnh viện tỉnh để giải phẫu gấp, nếu chậm sẽ
không qua khỏi đêm nay. Trời tối dần, tiếng súng đã ngưng,
nhưng tình hình vẫn còn hồi hộp căng thẳng. Vị bác sĩ
phải trở lại chiến hạm và đưa cho tôi chiếc máy truyền
tin nhỏ để liên lạc. Tôi tiễn ông ta ra ghe rồi trở về
bệnh xá thăm lại mấy binh sĩ bị thương. Bà mẹ anh nghĩa
quân vừa thấy tôi, ôm choàng lấy tôi khóc nức nở, van nài
cố cứu sống đứa con. Tôi không biết làm gì hơn, cố đứng
yên lấy tay vỗ về bà ta an ủi để cơn đau đớn nguôi dần.
Chợt có tín hiệu từ máy truyền tin, tôi liền mở máy, từ
chiến hạm báo cho anh chuẩn bị bãi đáp cho trực thăng tải
thương. Tôi nghe vọng qua máy, tiếng tướng Khánh gọi về
Cần Thơ, "Mặt Trời đây, Mặt Trời đây! Cho chuồn chuồn
ra đón mấy đứa con tôi bị thương về tỉnh ngay!" Tôi liền
bảo mọi người đem đến một số đèn để làm dấu cho
bãi đáp. Nghĩ đến tướng Khánh, lo cho binh lính của mình,
ra lệnh bất chấp các điều kiện mà thấy thương ông. Trời
tối mà biển thì rộng, "chuồn chuồn" nào mà dám mò ra. Quá
nửa đêm, tôi nghe tiếng khóc gào lên từ trong bệnh xá. Lại
một thằng con của ông vừa hi sinh...
Đêm đó, tôi ngồi ở sân
trước bệnh xá, không ngủ, nhìn lên trời máy bay thả hỏa
châu liên tiếp sáng rực để bảo vệ hai chiếc máy bay còn
lại ở phi trường. Tôi được biết tướng Kỳ cũng có mặt
trong những chuyến bay đó để liên lạc với tướng Khánh
phía dưới. Sáng sớm hôm sau, một đại đội Dù được thả
xuống truy lùng Việt Cộng, nhưng chúng đã trốn lủi vào
một xó xỉnh nào đó từ lâu rồi. Tôi chợt nhớ đến ít
lâu nay, tình báo cho biết Việt Cộng trên đảo có súng cối
81, nhưng thám báo cố tìm mà không ra. Chúng đã dùng đúng
lúc, dù không nhằm được đúng mục tiêu, nhưng đã làm tiêu
tan dự án của tướng Khánh cho hòn đảo.
Sau đó ít lâu về lại
Rạch Giá, tôi bị một trận sốt rét kéo dài hơn hai
tháng trời, phải về Saigon chữa. Lúc trở về, nghe
tin con chó Tino thân yêu của tôi gửi Thiếu Úy Mạo mang
theo hành quân đi lạc mất, càng thấy buồn thêm ....Tiếp
theo, tôi lại nhận được lệnh động viên. Vận hạn
xẩy ra liên tiếp. Tôi lên đường nhập ngũ, bỏ lại
đảo xưa, bỏ lại miền Tây, bỏ lại quốc lộ 4 mà gần
như hàng tuần tôi ngồi xe qua những đồng lúa xanh rờn
mênh mông và dọc theo các kinh lạch chạy dài bên lộ. Bỏ
lại những buổi trưa chờ phà qua Bắc Mỹ Thuận, ngồi
trong quán ăn những đĩa cơm với chim sẻ chiên giòn hay những
con tôm rim đỏ ngậy. Những sạp mãng cầu xanh tươi mơn mởn,
những cần-xé đầy vú sữa tròn bóng tưởng như tất cả
mầu mỡ của phù sa đồng bằng Cửu Long chan hòa trong đó.
Nhớ nhất là những buổi chiều mưa, qua Bắc Vàm Cống, nhìn
những giọt mưa rơi trên dòng sông rộng mịt mờ, nhìn những
đám lục bình trôi trên giòng nước trong mùa nước lũ,
tưởng như những cuộc đời long đong đang bị giòng đời
cuốn đi…
Tôi mang giấy nhập ngũ
về Saigon, bạn bè đi gần hết. Một hôm tôi đi ngang
qua Việt Tấn Xã, mà anh Nguyễn Ngọc Linh đang làm giám
đốc ở đó, nhớ tới lúc gặp anh trong phái đoàn
tướng Nguyễn Khánh ra đảo để thành lập tỉnh vừa
rồi và lời anh dặn: Khi nào về Saigon nhớ đến gặp
anh. Tôi vào chào anh trước khi đi trình diện. Tôi nhớ
lúc đó chính phủ đang lập nội các mới nên các bộ
trưởng cần những nhân viên có khả năng thích hợp.
Anh giới thiệu tôi đến Bộ Y Tế để nhận một chức
vụ có tính cách chính trị và được hoãn dịch. Tôi
làm việc cho hai đời Tổng Trưởng, sau này được gửi
đi học và trở về bộ phục vụ cho đến khi rời nước
ra đi.
Anh Linh đã giúp tôi một
khúc quanh khá ngoạn mục. Nhớ đến những ngày tôi theo
anh hoạt động và sau này mỗi khi anh đến thành phố
tôi ở Mỹ, anh đều gọi tôi đến gặp anh. Lần cuối
cùng, anh đã yếu nhiều, thấy thương anh, người anh
hùng đã thấm mệt. Anh đã mất trước đây mấy năm.
Không biết nói gì thêm để cám ơn anh."
*
Trở lại chuyến thăm Phú Quốc.
Sáng sau chúng tôi ra khỏi phòng đến nơi ăn điểm tâm,
trên đường gặp hầu hết là người ngoại quốc. Theo
thói quen ở Mỹ, tôi chào "Hi", họ không trả lời và
thản nhiên bước đi. Chắc hẳn họ là người Nga hay Đông
Âu gì đó. Bữa ăn sáng theo cách continental, nhiều món
khá ngon hơn ở khách sạn các nơi. Tôi thấy có một
quầy phở, đến gọi ăn thêm. Cô gái mặc áo lụa giọng
Bắc Kỳ tiếp tôi, chúng tôi trao đổi một vài câu. Tôi
có nói hơn bốn mươi năm tôi mới trở lại đây, cô
hỏi lại: "Hồi đó chắc chú là cán bộ đi công tác?".
Tôi lắc đầu, cô chợt nhận ra điều gì và không nói
nữa…
Sau đó, họ đưa đoàn du
lịch của chúng tôi đi thăm An Thới, phía Nam đảo. Dọc
đường, xe dừng lại một tiệm bán ngọc trai, họ nói
nay Phú Quốc cũng đang nuôi hạt trai. Tôi đã đến Nhật
và vịnh Hạ Long, được xem họ lặn xuống mò trai và
biểu diễn mở trai lấy ngọc, nên ra ngoài đi xung quanh
và ra phía biển sát cạnh đó. Tôi nhớ đây là bãi
Trường, bãi dài hơn mười cây số, vẫn còn hoang vu
chưa khai thác. Tôi đứng đó, nhìn theo chiều dài của
bãi và nhìn ra biển rộng, nhớ lại đã nhiều lần
lênh đênh vượt sóng ngoài xa. Tôi thắc mắc không hiểu
họ sẽ thiết kế cái bãi Trường này ra sao…
Tôi quay lại vào một cửa
tiệm bên cạnh, nhìn thấy một đàn chó nhỏ, đàn chó
Phú Quốc. Chúng đến quấn bên chân, tôi xoa đầu chúng
và chạnh nhớ đến con chó Tino của tôi hồi đó. Con
chó Tino là giống chó Phú Quốc, lông đen sát mình, có một
đường xoáy chạy dài dọc sống lưng, rất khôn và săn rất
giỏi. Nghe nói chó Phú Quốc đã được ghi trong một cuốn
tự điển quốc tế.
Nhớ hồi đó khi tôi rời
chỗ ở ra trụ sở quận mới, một người dân đem tặng
con chó nhỏ vì ở đó canh gác quá sơ xài. Việt Cộng có
thể đột kích từ ngã biển lên vì không có đồn canh ở
phía đó. Sau này tôi còn nuôi thêm một bầy ngỗng, cả hơn
chục con mua từ Rạch Gíá về. Ngỗng rất thính, thấy động
là la quàng quạc, và thường hay tấn công người lạ. Sau
khi tôi rời đảo, quận bị xâm nhập từ ngả đó hai lần,
có lần một quận trưởng bị tử thương.
Con Tino lúc nào cũng theo sát
tôi, ngồi ở đâu là nó nằm ngay dưới chân. Khi tôi ngủ,
nó nằm sát cạnh giường, không lúc nào rời. Lần nào ra
quán ăn hủ tíu, chủ quán Cù Đe cũng cho nó một tô xương
với bạc nhạc đầy ụ. Ai mà lạ, đi đứng lấm lét là
nó gầm gừ xua ra xa. Dân đến quận không đi bằng cửa chính,
cứ thập thò ở cửa, nó đuổi cho kỳ được ra khỏi quận,
nếu không có ai la cản. Mỗi lần Cha Cung từ An Thới lên,
áo linh mục lòe xòe, đến thăm quận là thư ký cứ phải
canh chừng vì sợ nó cắn rách áo của cha.
Có những lần đi máy bay
về Saigon, tôi đã lên ngồi ở máy bay chờ cất cánh, không
hiểu con Tino tìm cách nào nhẩy lọt được lên, khiến mấy
cô Tiếp viên hàng không la oai oái, tôi lại phải đi xuống
để nó theo, nên tôi thường là người lên sau chót. Đường
bay Saigon-Phú Quốc hồi đó có hai nữ tiếp viên khá đẹp
là cô Mai và cô Thoại. Các cô hay gọi đường bay này là
Air Nước Mắm. Không biết đã có lần, cô nào đã gặp
phải tai nạn nước mắm bị bể trong chuyến bay?.
Những ngày vắng tôi, con Tino
hay xục xạo đi tìm những nơi mà tôi thường đến. Lúc nó
chạy ngang qua quán Cù Đe, ông ta đem tô xương ra, nó cũng
chẳng thèm ăn và bỏ đi. Khi tôi di chuyển vào Rạch Giá,
tôi đem nó theo. Một lần về Sài Gòn công tác, nhờ Thiếu
Úy Mạo trông dùm và đem nó đi theo hành quân, con Tino đã
bị lạc mất. Tôi trở lại tỉnh, mất nó, buồn thẫn thờ
mất bao nhiêu tháng trời...
Trước khi vào thị trấn
nhỏ An Thới, xe dừng lại trước phòng triển lãm tù
binh Bắc Việt. Tuy biết là những hình ảnh và mô hình
đều ngụy tạo, tôi cũng bước vào xem họ giả trá đến
mức nào. Cộng Sản có nghề lừa mọi người. Tôi đã
có dịp đến thăm trại tù binh này khoảng năm 1970 trong
một dịp du hành quan sát khi tôi theo học trường Cao Đẳng
Quốc Phòng, trước một hai năm có cuộc trao đổi tù
binh giữa Mỹ và miền Bắc. Trại lúc đó có khoảng
30,000 tù binh và cần đến 5 tiểu đoàn quân cảnh giữ
trật tự. Có bác sĩ và một bệnh xá khá khang trang.
Tiền của Mỹ nuôi ăn, tù binh biết chắc ngày về, không
phải lao động, nên yên trí hưởng gió biển, không thấy
cảnh trốn trại hay làm loạn. Lần thăm đó, họ đưa
tôi đến một căn phòng để có dịp nói chuyện với
một tù binh, anh ta cũng trạc tuổi tôi, cấp bậc Thượng
Úy, bị bắt trong một trận đánh vùng cao nguyên. Tôi
hỏi anh ta nguyên quán ở đâu, thì anh cũng sanh ở Hà
Nội như tôi. Khi rời căn phòng, tôi bắt tay anh, chúc anh
bình an và sớm trở về với gia đình. Tôi đã được
đọc đến hàng trăm chưa nói đến ngàn câu truyện liên
hệ đến những năm tháng của các sĩ quan miền Nam trong
các trại tù cải tạo miền Bắc, cưỡng bức lao động,
cực hình dã man, không biết được ngày về, nhưng chưa
bao giờ đọc được một truyện, một hồi ký nào
của các cựu tù binh miền Bắc trong các trại giam miền
Nam, chính họ cũng đã bị cải tạo rồi, nên không ai
dám viết lại…
Xe tiếp tục đưa chúng tôi
vào An Thới, ngày trước đứng ở đâu tôi cũng nhìn
thấy biển, nay chỉ thấy nhà cửa ngổn ngang. Chỗ tôi
đang đứng có lẽ là Bộ chỉ huy Duyên Khu vùng 4 hay trên
một sân bay dã chiến bằng các vỉ sắt. Tự nhiên tôi
nhớ đến các sĩ quan Hải quân cùng thời ở đó, họ
lớn tuổi hơn tôi, tư cách, được huấn luyện từ
thời Pháp, lại được tu nghiệp tại Mỹ. Đại Úy Nguyễn
Quốc Thanh, Thiếu Tá Trần Thanh Châu họ là quận trưởng.
Đại Úy Hoàng Cơ Minh lúc đó chỉ huy một chiến hạm,
sau các chuyến hải hành hay lên chỗ tôi, nằm nghỉ và
đọc những cuốn Livres de poche mà tôi mang từ Saigon ra.
Có lần Đại úy Minh tâm sự với tôi: "Ông Diệm,
ông ấy cứ cho an ninh theo rõi "moi", chỉ sợ "moi" mang tầu
sang Cam Bốt". Vì Đại úy có họ hàng với BS. Hoàng
Cơ Bình thuộc đảng đối lập. Sau này cả ba người
trên đều thành Đề Đốc giữ những chức vụ quan
trọng trong Hải Quân. Nhớ đến Đại úy Ái, TQLC, quận
trưởng cuối cùng mà tôi làm việc. Nhớ đến cả
Đại úy Trần Như Hùng, chỉ huy lực lượng Địa Phương
Quân trên đảo, và là anh một người bạn thân của tôi
là Trần Như Tráng. Trong mấy năm ở đó, tôi thường
theo sát Đại Úy Hùng đi lập các ấp chiến lược
cũng như đến các ấp xa thị sát. Đại uý Hùng có
nhiều kinh nghiệm về du kích chiến, vì có những năm
trấn đóng các đồn tại vùng châu thổ sông Hồng.
Có lần cùng toán thám báo đã bắt được tên Huyện
Ủy của đảo, trong lúc giam để chuyển lên tỉnh, thì
đêm đó hắn đã tự sát.
Nhớ đến Trung úy Dương
Hồng Võ, cũng xuất thân trường Chu văn An. Hôm Tổng
Thống Diệm bị thảm sát, cả trung đội Dân Vệ tại
An Thới, bảo vệ ấp và luôn cả Duyên Khu Vùng 4, họ
bỏ súng vì quân đội đã giết vị lãnh đạo của họ.
Quận Trưởng Thanh vì có liên hệ họ hàng với Tổng
Thống nên bị triệu hồi về Saigon, Duyên Khu Trưởng
cũng rời nhiệm sở về nhận một chức vụ quan trọng
hơn. Trên đảo không có ai là Trưởng, chỉ còn tôi với
Võ là Phó. Cái lo của Võ là không có một lực lượng
nào bảo vệ, nếu Việt cộng tấn công, thì ấp vỡ
mà bộ chỉ huy duyên khu cũng nát. Võ đã vội vàng
dùng ghe chủ lực lên quận yêu cầu tôi cùng xuống An
Thới nói với cha xứ Cung để Dân vệ cầm súng lại.
Cha Cung với tôi cũng thân nhau, và cũng dễ hiểu trong
một lúc phẫn nộ, mất niềm tin họ hành động như
thế, chỉ cần có cha nói mấy câu phủ dụ để họ
cầm súng lại. Dân Ba Làng tại đây, vượt biển sau năm
54 là những thành phần chống Cộng có hạng, du kích
địa phương chưa bao giờ dám đến trêu chọc…
Một lần nữa, khoảng đầu
năm 1975, tôi lại ở trong đoàn của BS. Văn Văn Của bay
ra An Thới để tổ chức trại tiếp nhận những đồng
bào tị nạn trên các xà lan từ miền Trung không được
phép vào bến Saigon.
*
Hôm sau nữa họ đưa thăm phía
Đông của đảo, xe chạy trên một con đường cắt ngang
đảo từ Dương Đông sang Hàm Ninh. Dọc đường họ dừng
lại cho xem một vườn tiêu. Trong thời gian tôi còn ở
đảo tôi đã làm một thống kê, mỗi năm Phú quốc
sản xuất hơn 300 tấn, đứng đầu cả nước, theo sau
là Bà Rịa. Trong lúc đứng nói chuyện với chủ vườn
tiêu, anh ta biết tôi đã ở đây và cho biết có người
anh là lính thám báo đã bị chết trên đồi phía bên
kia…
Sau đó, xe dừng để thăm
chùa Sư Muôn, tôi nhớ là chùa này là một ổ Việt
Cộng trong vùng bất an, quận vẫn để yên không muốn
khuấy động vì tình hình tôn giáo thời đó, nhưng
thỉnh thoảng vẫn mời sư trụ trì lên hỏi thăm. Đặc
biệt sư trụ trì là nam giới, mà đệ tử thì toàn
là ni cô. Ni cô thì được gửi từ một chùa sư nữ
ở Gia Định; chùa này cũng bị đặt trong tình trạng
nghi ngờ. Một hôm tình cờ tôi sang thăm trạm Viễn Thông
của đảo, tôi nhìn thấy một bức điện tín, nội
dung báo tin một ni cô tại chùa này tự tử. Tôi báo
về tỉnh để điều tra, nhưng không hề nhận được
trả lời.
Hàm Ninh vẫn còn là một
bến vắng tuy rằng đã có một dẫy hàng bán hải sản
khô và một vài căn nhà gạch, nhưng không được như
các nơi khác. Họ xây một cái cầu xi măng dài chạy
ra biển, vì biển phía Đông của đảo rất nông, thuyền
nhỏ cũng khó vào. Tôi đứng ở đầu cầu nhìn ra biển
rộng, bao nhiêu nỗi nhớ tràn đến. Tôi đã đến đây
vài lần, có lần phải ở lại hơn một tuần vì bão
biển, ăn toàn ghẹ đỏ, như ở một chốn tận cùng
trái đất. Nhớ nhất là hình ảnh tôi ôm cái sọ trắng
của con trâu rừng cuối trên đảo đã bị bắn chết,
tưởng như cái thiên đường lỡ dở mà mình đang đi
tìm nay đã mất hẳn rồi ...
Trên đường về, họ dừng
xe ghé thăm một tiệm bán rượu Sim đặc sản và một
nhà thùng nước mắm, sản xuất theo lối cổ truyền,
đóng chai thủ công. Cuối ngày họ để chúng tôi đi thăm
khu chợ bên bờ sông Dương Đông, thuyền đánh cá đậu
đầy, nước sông đổi mầu, bùn hai bên bờ lóng lánh
ánh dầu và rác rưởi. Cũng không thể tránh được
vì bao nhiêu thuyền đều đậu trong sông, xả dầu nhớt
và rác vô tội vạ.
Mới đây, tôi có được
xem một tấm hình chụp một dòng nước đen chảy thẳng
ra biển dài trên một cây số từ cửa sông này, và
nhớ lại có một họa đồ của người Pháp để lại
dự định làm một kè đá dài ngoài biển để chặn
sóng xô cát vào cửa sông, đồng thời làm nơi cho thuyền
bè đậu tránh sóng…
*
Ngày thứ ba có thời giờ
tự do, tôi muốn đi tìm thăm một số người quen cũ.
Hơn 40 năm rồi chắc cũng chẳng còn ai. Người đầu tiên
tôi định thăm là ông Hồng Đại, chủ một nhà thùng
nước mắm lớn, hồi xưa thân với tôi vì hay đi ăn nhậu
với nhau. Nhưng ông Hồng Đại không còn ở đó, và họ
chỉ đến cửa hàng thời trang của con gái ông. Cô này
cho biết cha cô về Saigon dưỡng bệnh đã lâu. Nói lại
chuyện xưa, thì mới biết là khi tôi rời đảo thì
cô chưa sinh ra, nhưng nay thì cô đã có gia đình và con
gái đầu lòng đã lên Saigon học đại học.
Buổi chiều hôm cuối cùng,
lúc đợi máy bay về Saigon trong phòng đợi vắng người,
nhìn những dự án tương lai của hòn đảo Phú Quốc
vẽ lớn trên tường, hình ảnh những cao ốc hoành tráng
ven biển, và một khu kỹ nghệ ở Bắc đảo với những
cột khóí cao. Tôi nghĩ đó là khát vọng tự nhiên
của một dân tộc vừa thoát khỏi cảnh cấm vận lầm
than, bất chấp các hậu quả về môi trường thiên nhiên
cũng như môi trường sống sẽ đến như thế nào. Từ
khi rời hòn đảo năm 1965, cho tới nay đã ở hải ngoại
bao nhiêu năm, tôi thường đọc tin khắp nơi nếu có bài
nào về hòn đảo tôi không thể bỏ qua. Bạn bè ở nơi
xa có bài nào đặc biệt liên hệ đều gửi cho tôi,
có người vẫn quen gọi đùa tôi là "Chúa đảo", tuy
tôi không phải "Xếp" của hòn đảo. Tôi nghĩ, Hà Nội
là nơi tôi sanh ra, Saigon nơi tôi sống hơn hai mươi năm ở
đó, nhớ thì nhớ nhưng mà vẫn ngần ngại. Còn Phú
Quốc thì lúc nào cũng thấy băn khoăn.
Tôi đọc những bài viết
và những hình ảnh quảng cáo cho hòn đảo, thì đó
là một nơi du lịch lý tưởng. Bên cạnh đó lại có
những bài báo nêu ra nhiều tệ trạng phát triển của
Phú Quốc. Chính quyền và doanh nhân toa rập với nhau
phá nát hòn đảo để thu lợi nhuận cấp thời. Họ
dùng các chữ như: Băm nát hòn đảo, chia nát rừng chia
lô bán, bê tông hóa hòn đảo, xây dựng lấn biển, tàn
hại môi trường cũng như bao nhiêu tệ trạng xã hội
đã xẩy ra… Xem phía dưới các bài viết thì nhiều
lời bình luận nặng nề như: Nào là nhếch nhác, nhem
nhuốc, rác rưởi, sẽ không trở lại…
Cũng không ngạc nhiên lắm.
Khi tôi ở đó năm 1965, dân số chỉ khoảng 8,000 người,
sống trong điều kiện của thiên nhiên cung cấp. Nay dân
số lên đến gần 190,000 người, cộng với 4 triệu
du khách theo thống kê năm 2019. Họ dự kiến sẽ tăng số
du khách lên 7 triệu, nghe mà tội nghiệp cho hòn đảo.
Không hiểu họ sẽ dành ra bao nhiêu phần trăm lợi nhuận
để đối phó với những vấn đề cấp bách về
môi trường. Hòn đảo không những cần về hạ tầng
cơ sở mà còn dựa vào kiến thức xây dựng, đạo
đức của người cầm quyền và trình độ ý thức
công dân của dân chúng. Bao nhiêu viên chức bị kỷ luật
và khiển trách. Cũng không ngạc nhiên, khi có những hình
ảnh ngập lụt ngang người trong các khu phố trên đảo
năm vừa qua, vì các kênh rạch thiên nhiên đã bị lấp
để dựng nhà và các con lộ chạy dọc biển đã chắn
ngang nước lũ chảy ra biển…
Tôi đã có dịp đi thăm các
hòn đảo trong vịnh Caribbean, Trung Mỹ cũng như dọc Thái
Bình Dương của Mỹ, Canada…hay những thành phố du lịch
biển của Mexico, của Âu châu dọc theo Địa Trung Hải như
Saint Tropez, Canne, Nice của Pháp. Hay Portofino, Cinq Terres, Sorriento
của Ý … Và nhớ lại các bãi biển Vũng Tầu, Nha
Trang, Đà Nẵng, Sầm Sơn, Đồ Sơn tại miền Bắc do người
Pháp để lại. Tất cả họ đều tôn trọng biển và
bãi biển. Biển là báu vật mà thiên nhiên tặng cho
con người.Cách thiết kế của các đường vòng bên
bãi biển Phú Quốc đã khác hẳn của họ.
Thấy buồn cho hòn đảo.
Buồn cho cả đất nước. Vừa có tin Phú Quốc được
nâng lên hàng "Thành phố", mong rằng lần này lớp chính
quyền mới sẽ làm được những điều tốt đẹp hơn.
Tôi ngồi trầm ngâm, rồi
tự nhiên viết thành một bài thơ. Đọc lại thì nghe
như một bài ca và tưởng như có tiếng đàn lục huyền
cầm phụ theo. Lời ca như là những điệp khúc ballad,
nhạc kể chuyện. Kể lại câu chuyện của một hòn đảo
sáu mươi năm cũ…
Điệp Khúc Nhớ Đảo
Ngày Mai Trở Lại Đảo.
Biển có còn xanh.
Rừng có còn hoang.
Trời có còn nhiều mây
trắng.
Ngày mai trở lại đảo.
Cỏ may có còn vờn nhau
tới mãi cuối đồi.
Ngày mai trở lại đảo.
Con sấu già đêm có còn
quẫy,
Trong lạch sâu Cửa Cạn.
Bãi Bổn, sao biển năm cánh
có còn,
nằm soải dài dưới rặng
dừa thưa.
Ngày mai trở lại đảo.
Có còn ghẹ xanh ghẹ đỏ,
Trên bến vắng Hàm Ninh
Ngày mai trở lại đảo.
Bầy cá voi có còn nằm
phun nước,
Mỗi mùa ruốc đến rủ
nhau về.
Lũ cá heo có còn chờ,
Rỡn cùng thuyền trên sóng.
Ngày mai trở lại đảo.
Có còn chim biển bay ngược
gió,
Đưa ta về những đảo mờ
xa.
Ngày mai trở lại đảo.
Có đêm nào còn trong,
Đèn lập lờ trên đỉnh
Bokor,
Dẫn lối về tránh Vũng
Trâu Nằm.
Ngày mai trở lại đảo.
Mưa lũ có còn đổ,
Sóng ngập tràn bờ nước
Dương Đông.
Ngày mai trở lại đảo.
Xuôi thuyền về An Thới.
Thăm xóm đạo Ba Làng.
Đừng qua Mũi Ông Đội,
Đã sẵn mồi Biên Mai.
Ngày mai trở lại đảo.
Nhớ ghé qua Hòn Thơm,
Xem lại bầy cá nhỏ,
Có còn trong dãy san hô.
Ngày mai trở lại đảo.
Tiếng súng không còn nữa.
Anh dân vệ trong làng,
Chú du kích bên sông,
Bắn bâng quơ cho có lệ,
Sợ vỡ mất thiên đường.
Ngày mai trở lại đảo.
Nhớ con chó Phú Quốc quá.
Năm tháng bạn cùng ta,
Trong quận nhỏ đìu hiu,
Đi lạc đâu mất rồi,
Lòng buồn thương vô hạn.
Ngày mai trở lại đảo.
Con trâu rừng cuối cùng
đã chết .
Con trâu rừng cuối cùng
đã chết.
Huyền thoại ngày xưa đã
vỡ rồi.
Huyền thoại ngày xưa đã
vỡ rồi.
Vỡ thật rồi...
Ngày mai trở lại đảo.
Nhớ tìm về Dinh Cậu,
Cồn cát bên sông chắc có
còn.
Những nấm mộ đạo trăm
năm cổ,
Chúa có đến kịp mang về
Thiên quốc không .
Ngày mai trở lại đảo.
Nghĩa trang Quốc quân tha
hương ngoài phi đạo,
Có còn mỏi mắt vọng cố
hương.
Ngày mai trở lại đảo.
Có còn căn nhà sàn cửa
biển.
Có còn hàng dừa xanh rợp
mát.
Cô gái năm xưa chắc chẳng
chờ.
Ngày mai trở lại đảo.
Câu chuyện sáu mươi năm
cũ,
Thôi đành để lại gửi
thiên thu.
Thôi đành để lại gửi
thiên thu...
7/2020