Chim Việt Cành Nam
Trở về
Trang chủ
Tác giả
Quê hương đất nước con người

Vàm-Cỏ-Đông
"ký sự"


"Hỏa hồng Nhật-Tảo"
Mô hình chiến hạm L'Espérance ở phim trường

An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris Xuân Tân-Sửu 2021)

"Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam đánh Tây". Câu nói lịch sử bất hủ nầy của Nguyễn-Trung-Trực, ngày nay đã được toàn thể nhân dân ta trân trọng xem như là di sản của một thông điệp thiêng liêng bất khuất vẫn hãy còn có mang ý nghĩa giá trị tinh thần sắt đá của bậc tiền nhân muốn nhắn gởi trực tiếp lưu lại về sau cho những kẻ cầm đầu của đoàn quân hung hăng xâm lược bá quyền, man rợ. Và đồng thời, cũng để nhằm mục đích cảnh giác trách nhiệm của người con Việt hãy sẵn sàng "ra đi vì nước Việt".
-----------------------------------------------------------
...Những con sông lịch sử hùng tráng nầy của dân tộc từ lâu đều đã thủy chung hòa quyện, chảy thấm vào mảnh đất ngàn đời của tổ tiên ta, có dòng thủy lưu đổ ra biển Đông mang theo tinh thần hào khíoai hùng của người dân Việt để hòa tan vào đại dương tận đến lằn ranh lãnh hải của nước nhà từng đã được sự công nhận quốc tế trong công pháp quốc tế phân định rõ ràng về quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia dân tộc (B). Bao gồm luôn cả hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, vốn là một thực thể địa lý lịch sử từ ngàn xưa không thể tách rời của đất nước Việt-Nam ta, mà ngày nay, nó đã bị bá quyền Trung-Quốc ngang nhiên xua quân chiếm đoạt.
Ngày xưa ở quê tôi mỗi khi nói đến làng mình, thì người ta thường hay ngước mặt lên trời đưa tay lên chỉ về phía những cây đại thụ cao ngất để hãnh diện khoe rằng đó là bức họa đơn sơ đặc biệt nổi bật về xóm vắng.

Tôi vốn không có duyên may sống ở trong lòng đất làng ta suốt thời trai trẻ cho nên sự nghiệp cuộc đời đều được khởi đầu từ ở phương xa, và cũng vì thế mà tâm hồn của trái tim tôi đôi khi phải bị xé ra từng mảnh nhỏ. Thực tình mà nói, có dịp đi xa khắp mọi miền đất nước thì người ta mới có thể công bằng cảm nhận được thế nào là tình yêu trong xã hội cộng đồng. Giữa năm mươi bốn sắc tộc tự bao đời thương yêu đùm bọc, sống hài hòa cùng nhau trên dãy đất tựa mình vào núi non và bể cả, thì chắc chắn có rất ít người may mắn để hội nhập, hòa mình (dù là du lịch) vào trong hết thảy cộng đồng xã hội nầy.

Do vậy, mà tôi có những ý kiến chủ quan là trong kiếp phù sinh của mỗi người sống trong bất cứ hoàn cảnh nào thì cũng đều do định mạng lựa chọn cho mình. Tuy nhiên, cho dù ngay cả trên những quê hương kế tiếp, nhưng tôi cũng vẫn đã có nhiều dịp lưu trữ các chứng từ về tình trạng tâm lý nảy sinh từ tình yêu thương làng mạc địa phương đã phù hộ cho mình được may mắn đoạt thành sở nguyện.

Thế nhưng kỷ niệm quý giá nhất của đời tôi luôn mang theo bên mình, thì lúc nào cũng vẫn lại là cái túi chứa đựng bên trong có nắm đất thiêng.


Nắm đất thiêng quê tôi

Đất thiêng quê tôi cũng chỉ là những máu mủ thịt da của nhịp thở, sức sống của hồn thiêng dân tộc không mang tính đa dạng nào khác biệt. Hơn thế nữa, lịch sử khẩn hoang dinh điền trong thời quá khứ thì người dân làng lại còn giữ được có những dấu ấn của hàng gót chân thuộc thành phần thế hệ tiên phuông, từng trải qua bao gian truân để mở đường khai lối cho vườn tược, ruộng đồng tốt tươi màu mỡ hôm nay. Do vậy, từ cuộc hành trình đào ao, vét giếng, cuốc mở luống cày bên cạnh các loại vũ khí thô sơ đề phòng thú dữ, người dân xưa còn phải nhọc nhằn vất vả với đôi tay, bàn chân dẽo dai chịu đựng biết bao nhiêu là khổ nhọc. Đó chính là hình ảnh của những mảnh đời chơn chất trong hòa bình, và được thể hiện qua các công việc tay làm hàm nhai trong hoàn cảnh xã hội lúc bấy giờ. Ngày nay hồi tưởng lại thời gian hơn nửa đoạn đời người, tôi muốn thành tâm chia sẻ đôi điều thú vị cùng quý đồng hương và các bạn độc giả thân mến xa gần về những mẩu chuyện từng đã có xảy ra ngay trên cả quê tôi.

Và những trường hợp ấn tượng khó phai mờ nầy, tôi gọi cho nó có một cái tên vui là các dị hình trong ký ức.

Thực vậy, trước hết tôi xin nói đến quy luật vô thường làm thay đổi liên tục cả hoàn cảnh không gian trong xã hội sinh tồn. Vì thế mà dân gian thường hay dùng cụm từ mộc mạc bình dân để nói lên mọi quyền hành, địa vị của con người đều đã bị xáo trộn, thăng trầm như khi lên voi xuống chó, cha làm quan con lầm than, không ai giàu ba họ chẳng ai khó ba đời v.v. Do vậy, thế hệ nào nhân chứng nấy, hơn thế nữa, hồi ức không phải là những chứng từ có giá trị khoa học cho nên dễ có bị sai lầm về suy luận. Nhưng với tinh thần nghiêm túc, chúng tôi đã làm hết sức mình khi tìm về những kỷ niệm của cục đất quê hương trong trí nhớ, và hi vọng mọi tình tiết mà mình đã viết ra không khác gì đã có xảy ra bên ngoài thực tế thuộc về quá khứ.

Bạn từ đâu đến là một câu hỏi, một thể nghi vấn gối đầu đã làm trăn trở tâm hồn cho hàng biết bao người sống lưu lạc xa cách quê hương khi chạnh lòng nhớ về cố quốc, có nơi chôn nhau cắt rún của mình. Và trong những lúc mơ màng như thiếp, bạn sẽ nhớ đến hình ảnh nào đầu tiên...có thể là gia phả tổ tiên, dòng tộc, ngôi từ đường, hiên nhà cũ, mái trường xưa, đình chùa miếu vũ, chợ búa, bầu bạn xóm làng v.v. Dĩ nhiên, trường hợp của chính tôi cũng không có gì khác hơn bạn cả, có khác chăng là do bởi những dấu ấn kỷ niệm khó quên còn giữ mãi ở trong lòng. Đó là những tâm hồn son trẻ hồn nhiên, chơn chất tình tự của xóm làng quyện lấy ảnh hưởng đồng hương trong những dịp lễ hội, thể thao, văn nghệ, giải trí miệt vườn.

Tuy nhiên, bên cạnh những sinh hoạt cộng đồng xã hội thôn ấp đó, mảnh đất của chúng ta lại còn có thêm nhiều nét chấm phá ngoại lệ do nhu cầu sinh kế của người dân mà hợp thành hoạt cảnh sinh động của quê mình. Hẳn bạn đồng hương nào còn nhớ về địa hình, địa vật của quê ta từ hơn nửa đoạn đời người thì chắc không sao quên được màu xanh thiên nhiên trên nền trời bị án ngữ sau tấm màn che của tán cây cao bóng mát. Và đó chính là những hình ảnh của rặng trâm bầu, dãy cây bàng, hàng tre trúc ngút ngàn, đặc biệt là hình thù của các loại cây da, thị, gõ mọc ven bờ sông Vàm-Cỏ-Đông cao vút vươn mình lên tận không trung như muốn chế ngự cả thiên nhiên!

Nắng đổ trên cành lá
Che mát rợp làng ta
Bao kỷ niệm quê nhà
Trúc, tre, da, thị, gõ...(1)


Cây đại thụ

Cảm động biết bao mỗi khi biết được ai kia vô tình nhắc nhở gợi lại cho mình về những kỷ niệm êm đềm của quê nghèo nơi xóm vắng sống với thuở tuổi mộng mơ trong giấc ngủ hòa bình. Tuy nhiên, trước hết tôi cũng xin mạn phép nghiêng mình tưởng nhớ đến những vị thầy khả kính đầu tiên của tuổi học trò đã tận tụy khai tâm từ lúc vỡ lòng, và gieo vào lòng tôi những ý thức hồn nhiên về ý nghĩa của nắm đất quê hương. Do vậy, cho dù từ ở phương xa nhưng hễ khi nào có dịp thả hồn trở về viếng thăm làng cũ, thì hình ảnh đập ra ngay trước mắt của tôi lúc nào cũng vẫn lại là những hoạt cảnh đậm màu như không bao giờ có sự chia ly nào đó.

Thực vậy, dưới bóng trăng soi trên sóng nước ruộng đồng mờ ảo, dịu dàng, tỏa ra màu sáng nhạt vàng nhìn thấy gót chân tôi thoăn thoắt ra tận bờ ao để nghe tim mình thổn thức khi trực diện trước bóng cũ tình quê. Nước sông khuya tiếp tục dâng tràn lên mí cỏ, cạnh bên là những nấm mồ mà ban ngày thỉnh thoảng thường có những luồng khói nhang tiếp dẫn hương linh của vong hồn dòng tộc gia đình, của xóm làng đầu thôn, cuối ấp.

Tôi đứng lặng người trong không gian tĩnh mịch, lá cây bàng già úa đọng sương nặng hạt rơi rớt nhẹ nhàng theo từng cơn của ngọn gió lùa. Nhìn những cây bàng cổ thụ còn sót lại thưa thớt ở cánh đồng, tôi liên tưởng đến ngày xưa ở nơi nầy chắc là có một cái trảng lớn lắm đến nổi có thể được gọi là cái nôi để sinh sôi nẩy nở ra loại giống cây nầy. Vì thế, cho nên người xưa thường hay quen đặt tên cho địa danh theo trực giác của mình. Còn trúc tre thì khỏi phải nói, cây nào cây nấy vươn mình cao ngất nghểu, mọc um tùm, nhà nhà đều có, hai bên đường xe nào cũng là từng dãy tiếp dãy của lũy tre, khóm trúc xanh tươi. Ngày xưa, tiền thân dung mạo của xóm làng hầu hết đều được thành hình kiến tạo bằng tre đất, chen lẫn vào bức họa đồng quê đó là những cây da, cây thị, cây gõ to bự phải mấy người ôm mới giáp vòng.

Sống chung nhau trong một cộng đồng chơn chất, người dân quê tôi mỗi khi giao tiếp, liên hệ với nhau thì bằng cả một tấm lòng có trái tim nghĩa tình làng xóm, tối lửa tắt đèn. Về phương diện xã hội nhân văn cũng vậy, ngoài tinh thần yêu nước, tôn sư, trọng đạo thì sự học hỏi tiếp cận văn minh làng tôi chỉ có tiến chứ không có đi lùi vì hầu hết đều là những di dân có tinh thần khai phá để sinh tồn. Ngày nay, tuy sử liệu nói không được nhiều về trường hợp tận trung báo quốc của vị khai quốc công thần (Tiền-quân Nguyễn-Huỳnh-Đức) trên con đường chinh phục tiến về miền đất phương Nam. Nhưng không vì thế mà làm cho tâm hồn của người dân quê tôi mất đi bao niềm tự hào, tôn kính về sự nghiệp vẻ vang còn để lại của người xưa. Tuy nhiên, vì các thế hệ di dân cao tuổi trải qua ở lãnh địa nầy đều là những thành phần xuất phát từ ở chốn ruộng rừng nghèo khổ đi tìm mảnh đất sinh tồn. Cho nên, lúc bấy giờ, đối với họ chỉ có những khái niệm phai mờ về lịch sử khẩn hoang lập ấp. Và chỉ sau khi một hai thế hệ vất vả lót đường hi sinh nằm xuống, thì các hàng hậu duệ mới có được giờ phút thảnh thơi để hồi tưởng lại công đức của các bậc tiền nhân.

Tôi rất tiếc rằng khi mình còn nhỏ không mấy khi biết lưu tâm về những loại văn hóa miệt vườn, chỉ sinh sôi nẩy nở tùy theo phong thủy đặc trưng của mỗi địa phương. Đó chính là những thổ âm, thổ ngữ quê rặt, những câu thơ, hò vè chơn chất chứa chan thắm đượm hình ảnh thật thà có sao nói vậy cho qua câu chuyện! Tôi nhớ rành rành ông Tám, bà Bảy, cậu Hai, cô Ba có tác phong mỗi người một vẻ nhưng cuối cùng tất cả đều gặp nhau ở trong một tình yêu cục đất quê hương. Nhưng khi nhắc đến đất, thì chúng ta cũng không sao quên được nước. Vì nước chính là máu của đất, nước đã xâm nhập vào từng tế bào của đất tạo nên phong thủy vùng miền, tạo nên con người của đất nước ngàn năm văn vật. Và là những thực thể liên hợp không thể tách rời, để cùng mãi mãi nguyện thề thủy chung nghìn đời hòa quyện lấy nhau như bóng với hình.

Nước ở quê tôi, đây chính là dòng thủy lưu êm ả của con sông Vàm-Cỏ-Đông. Và nói cường điệu cho oai, thì nền văn minh miền quê tôi phát sinh ra được trước hết thuở khi xưa cũng phải nhờ vào phương tiện giao thông thiên nhiên do của trời cho nầy. Tuy nhiên, theo lịch sử của thời gian thì hình ảnh ở ven bờ đã có rất nhiều thay đổi, kể cả lòng đất dưới đáy sông cũng vậy. Từ lâu, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu trình bày khác nhau qua các bài viết về ’Vàm-Cỏ-Đông ký sự" mô tả cuộc sống trên dòng nước, dưới trăng sao. Và thực tế, là nói về bước chân của các thành phần di dân lập nghiệp từ ở miền Trung hồi thế kỷ thứ 17, thì cũng có những toán người lẻ tẻ đi ngược dòng sông dần theo bằng thủy lộ nầy.


Sông Vàm-Cỏ-Đông

Lục bình và các phiêu lưu thảo trôi nổi
trên sông Vàm-Cỏ-Đông

Nhân dịp nói thoáng qua về lịch sử của con sông quê tôi, thì tác giả cũng không quên nhớ lại ý nghĩa giá trị của những con sông lịch sử của dân tộc nước nhà. Và nếu sông Hát là dòng nước linh thiêng đã từng được Hai Bà Trưng gieo mình tuẫn tiết, thì tuần nước sông Gianh, sông Bến-Hải là nơi từng có những nhịp cầu oan nghiệt, thống khổ cùng với vận dân trong những thời kỷ niệm đau buồn.
 


Sông Gianh

Sông Bến-Hải
Ngược lại, các dòng sông Bạch-Đằng, Như-Nguyệt và Rạch-Gầm&Xoài-Mút v.v chính là những hình ảnh tiêu biểu hào hùng chói rạng trong lịch sử của dân tộc về thành tích đại thắng đánh đuổi giặc xâm lăng.

Sông Bạch-Đằng được gắn liền với tên tuổi của 3 vị anh hùng của dân tộc nước nhà là Ngô-Quyền, Lê-Đại-Hành và Trần-Hưng-Đạo.

Trận thủy chiến lần thứ nhất, Ngô-Quyền oanh liệt đánh bại quân xâm lăng Nam-Hán vào năm 938. Đây là một trận đánh được xem như là quan trọng nhất xảy ra trên sông Bạch-Đằng, với chiến công tiêu diệt gần hết cả giặc khựa và giết được Hoàng-Tử Hoằng-Thao Nam-Hán. Và đồng thời, chấm dứt được thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc bị giặc xâm lăng đô hộ.

Trận thủy chiến lần thứ nhì, Lê-Đại-Hành oanh liệt đánh bại quân xâm lăng Tống vào năm 981. Sau đó, ông sáng lập ra nước Đại-Cồ-Việt.

Trận thủy chiến lần thứ ba, Trần-Hưng-Đạo oanh liệt đánh bại quân xâm lăng Mông-Nguyên vào năm 1288. Cuộc chiến thắng kiêu hùng, do nhờ sự phối hợp thành công về tâm lý và chiến thuật theo như sách lược của ông trong Hịch tướng sĩ, Binh thư yếu lược và Vạn kiếp tông bí truyền thư.

Ngày nay, người ta có thể nói rằng Bạch-Đằng giang là một dòng sông lịch sử từ lâu được hầu hết mọi người dân Việt đều nghe biết đến. Và cũng từng đã được người nhạc sĩ tài hoa của dân tộc Lưu-Hữu-Phước (A) hòa mình tiếp dẫn hồn thiêng sông núi sáng tác ra một bản hùng ca bất hủ lưu truyền "Bạch-Đằng giang"(A) để ghi nhớ công lao đã giúp cho tổ tiên dân tộc ta mấy phen chiến thắng oanh liệt trước giặc xâm lăng thuở xa xưa.


Mô hình chiến thắng trên sông Bạch-Đằng (năm 938)
Di tich cọc gỗ (năm 938) trên sông Bạch-Đằng


Khu di tích Bạch-Đằng ngày nay

Tiên phuông trong các con sông gắn bó với nhiều chiến công chống giặc ngoại xâm, giờ đây Bạch-Đằng giang nổi tiếng kiêu hùng trên vòm trời đất Việt cũng từng đã được các nhà chiến lược về quân sự, ngoại giao quốc tế thường tìm dịp đến tham quan tìm hiểu về chiến thuật ưu thắng trên sông nước của các vị anh hùng dân tộc nước nhà. Và một trong những nhà ngoại giao tầm cỡ là Ông Đại-sứ Hoa-Kỳ tại Việt-Nam Daniel Kritenbrink vào ngày 28-09-2020 cũng đã có chính thức viếng thăm khu di tích lịch sử Bạch-Đằng, và bày tỏ lòng ngưỡng mộ thắp hương tưởng niệm trước tượng đài của ba vị anh hùng Ngô-Quyền, Lê-Đại-Hành và Trần-Hưng-Đạo.

Và sau khi kết thúc chuyến viếng thăm đầy ấn tượng, thì ông cũng đã không quên lưu lại dòng cảm nghĩ lịch sử sâu sắc của mình trong Facebook của Đại-sứ quán Hoa-Kỳ tại Hà-Nội như sau:

- "Những chiến thắng nầy không chỉ phản ảnh lòng can đảm của người Việt-Nam mà còn cho thấy các quốc gia, dù lớn hay nhỏ, đều có thể đứng lên bảo vệ chủ quyền của mình"...(sic).


Đại-sứ Hoa-Kỳ Daniel Kritenbrink
đang thắp hương trước tượng đài Ngô-Quyền

Đặc biệt là sông Như-Nguyệt, thì lại được gắn liền với tên tuổi vang lừng của vị anh hùng dân tộc nước nhà là danh tướng Lý-Thường-Kiệt.

Ông là một tướng quân tài ba thao lược quốc gia từng đã cho công bố văn bản "Tuyên Ngôn Độc lập" đầu tiên của nước Việt-Nam ta. Chính ý nghĩa hùng tráng trong nhật lệnh lịch sử nầy đã có tác động mạnh mẽ vô cùng về tâm lý, làm nâng cao sức mạnh tinh thần hi sinh chiến đấu của ba quân tướng sĩ nơi trận mạc. Trong trận thủy chiến quan trọng có tính cách quyết định chiến trường Việt-Tống được xảy ra trên con sông Như-Nguyệt vào năm 1077, Lý-Thường-Kiệt đã oanh liệt chiến thắng vẻ vang trước sự đại bại của quân xâm lăng man rợ nhà Tống đến từ phương Bắc.


Trận thủy chiến trên sông Như-Nguyệt
(năm 1077)

Và con sông Rạch-Gầm&Xoài-Mút ở đất phương Nam cũng là nơi từng có xảy ra một trận thủy chiến vô cùng ác liệt vào năm 1785. Trong chiến trận lịch sử nầy, vị anh hùng tướng quân Nguyễn-Huệ nước Nam ta đã từng giáng cho quân xâm lăng Xiêm-La (Thái-Lan) một bài học sấm sét run sợ để đời. Chiến công nầy cũng là một bài học có ý nghĩa giá trị lịch sử, nhằm cảnh cáo vào cho bất cứ kẻ gian hùng nào cố ý nuôi tham vọng mưu đồ núp bóng ngoại bang hòng cõng rắn cắn gà nhà, rước voi về giày mả tổ của dân tộc.


Đoạn sông Rạch-Gầm & Xoài-Mút

Những con sông lịch sử hùng tráng nầy của dân tộc từ lâu đều đã thủy chung hòa quyện, chảy thấm vào mảnh đất ngàn đời của tổ tiên ta, có dòng thủy lưu đổ ra biển Đông mang theo tinh thần hào khíoai hùng của người dân Việt để hòa tan vào đại dương tận đến lằn ranh lãnh hải của nước nhà từng đã được sự công nhận quốc tế trong công pháp quốc tế phân định rõ ràng về quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia dân tộc (B). Bao gồm luôn cả hai quần đảo Hoàng-Sa và Trường-Sa, vốn là một thực thể địa lý từ ngàn xưa không thể tách rời của đất nước Việt-Nam ta, mà nay, nó đã bị bá quyền Trung-Quốc ngang nhiên xua quân chiếm đoạt.


Đảo Song-Tử-Tây

Trở lại địa lý của con sông Vàm-Cỏ-Đông ở quê tôi có tên xưa là Waico Oriental, hay Thuận-An, quen gọi là sông Bến-Lức khi chảy qua địa phận Long-An, và dưới thời nhà Nguyễn nó còn có tên là Quang-Hóa. Sông Vàm-Cỏ-Đông phát nguyên từ Prey-Veng (Cam-Bốt) chảy ngang qua tỉnh Svay-Rieng đến đoạn sông Suối Mây là vào địa phận của tỉnh Tây-Ninh (Việt-Nam). Rồi khi chảy đến Long-An, thì hợp lưu nhập vào dòng sông Vàm-Cỏ-Tây (có chiều dài 186km) ở Tân-Trụ. Sông Vàm-Cỏ-Đông và sông Vàm-Cỏ-Tây hợp thành sông Vàm-Cỏ(thuộc hệ thống sông Đồng-Nai) đổ ra biển nơi cửa Soài-Rạp.


Sông Vàm-Cỏ

Cửa sông Soài-Rạp

Tại địa bàn trong tỉnh Tây-Ninh có hai con sông lớn, là sông Vàm-Cỏ-Đông và sông Sài-Gòn. Nói riêng, Vàm-Cỏ-Đông là một con sông có vị trí đặc biệt đóng vai trò lợi ích quan trọng đáp ứng được nhu cầu giao thông hiện đại và từng được coi như là con sông kinh tế của miền Đông ở đất phương Nam, cũng như có ảnh hưởng về lịch sử văn minh văn hóa phân bố tại địa phương từ thời xa xưa.

Với chiều dài 280km, dòng sông Vàm-Cỏ-Đông chảy xuyên qua các huyện Châu-Thành, Bến-Cầu, Hòa-Thành, Gò-Dầu, Trảng-Bàng (Tây-Ninh), và huyện Đức-Hòa, Đức-Huệ, Bến-Lức, Cần-Đước (Long-An). Ngày nay, dòng sông có một bến phà nhỏ là Lộc-Giang, và được bắc sang sông bằng các cây cầu như Bến-Sỏi, Gò-Chai, Gò-Dầu, Đức-Huệ, Đức-Hòa, Bến-Lức v.v. Ngày xưa, dưới thời nhà Nguyễn thì hình ảnh của con sông nầy từng đã được sử gia Trịnh-Hoài-Đức có những công trình nghiên cứu ghi chép về địa lý, nhân văn trong sách "Gia-Định thành thông chí" như sau:

"... Ở thượng lưu sông Thuận-An cách phía Tây trấn 160 dặm rưỡi. Phủ sở ở bờ phía Bắc sông lớn có người Trung-Hoa và Cao-Miên ở chung lẫn lộn làm ăn, có tuần ty coi thâu thuế lệ cước đồn và phòng giữ biên cảnh. Từ đây chảy 24 dặm rưỡi có cửa sông Khê-Lăng, 91 dặm rưỡi đến thủ sở Quang-Phong giáp địa giới Cao-Miên. Đây là con đường mà sứ thần Cao-Miên sang cống hiến phải đi ngang qua. Dọc theo sông ruộng đất mới khẩn còn nhiều rừng rú. Lên hướng Tây nước chia làm hai nhánh. Nhánh phía Bắc tục danh là Cái-Bát đi thẳng ra Bắc, 100 dặm chỗ cùng tuyền về đằng Bắc, 100 dặm nữa là rừng Quang-Hóa. Nhánh phía Nam tục gọi là sông Cái-Cay, đi lên hướng Tây hơn 100 dặm cũng cùng tuyền. Tới đây đều là đất rừng Quang-Hóa liên tiếp nối dài..."

Sông Vàm-Cỏ-Đông ngày xưa có đặc điểm là nước trong xanh biếc, trải dài như tấm dải lụa khi băng mình ngang qua những cánh đồng ruộng lúa chín vàng, và từng tạo ra nhiều huyền thoại trong xã hội dân gian của hai tỉnh Tây-Ninh và Long-An. Lúc bấy giờ, trên thủy lộ vận chuyển giao thông từ Sài-Gòn lên Tây-Ninh, hay ngược lại, thì các dân chài ở quanh vùng địa phương họ thường bắt gặp có từng đàn cá con nào con nấy to lớn ước khoảng cả từ 2-3 kg trở lên bơi lội tung tăng thành đàn. Hai bên bờ sông thì cây cối um tùm, chim bầy ríu tít trên không, vượn khỉ nô đùa hú nhau chuyền cành trên các nhánh cây mọc ngược đâm sà xuống nước. Ngoài ra, họ còn không thấy có một mái nhà, bóng người nào lai vãng, và thỉnh thoảng mới có những chiếc ghe bầu xuôi ngược chở hàng tạp hóa, tro dừa, nông sản bán buôn qua lại mà thôi. Còn cảnh trí ở khúc sông thượng nguồn của nó dạo ấy, thì thật là hoang dã vô cùng với muôn màu sắc thiên nhiên vốn là cội rễ nhà trời bao bọc vây quanh cây cối um tùm cùng đầy voi, cọp, chim muông, rắn rết v.v. Và chỉ cần qua khỏi một đoạn sông từ châu thành Tây-Ninh đến Nàng-Dinh thì người ta sẽ dễ dàng bắt gặp ra ngay một bức tranh tĩnh lặng, hoàn toàn có khác với quang cảnh ngày nay với tình trạng đất chật người đông, nhà cửa san sát ở ven sông.


Nhà cửa người dân ngày nay sinh sống
ven bờ thượng nguồn sông Vàm-Cỏ-Đông

Từ châu thành Tây-Ninh, khi thuyền tách bến xuôi dòng đến đất Cẩm-Giang thì người ta có thể nhìn thấy từng làn khói lan tỏa trên các lò gạch đốt lên liên tục ngày đêm. Thuở ấy, các ghe thuyền đều chèo bằng tay cho nên di động rất chậm chạp, mà người chèo lái cũng chẳng phải cần ra sức cơ bắp một cách vội vàng. Họ chèo một cách khoan thai, từ từ với nét mặt bình thản hồn nhiên chớ không có lộ ra vẻ gì hối hả cả. Chiếc ghe bầu của họ chính là một mái nhà di động trên sóng nước, bên trong có sàn ngủ, và nhà bếp có treo lủng lẳng nồi chảo, gáo dừa v.v. Và mỗi khi chiều chạng vạng tối, thì họ ngưng chèo để bày ra ăn cơm ở mũi đầu ghe đang thả trôi nhẹ nhàng theo dòng nước. Hình ảnh sinh hoạt êm ả dưới mái gia đình hằng ngày nầy, thoạt trông vào thấy họ sống một cuộc đời an nhiên tự tại, hạnh phúc biết là bao!

Rồi như sau một giấc ngủ thì cảnh quan mới lại hiện ra, ấn tượng nhất là đoạn sông Vảm-Trảng. Nơi đây, cạnh sát bờ sông ngày trước có một gia đình truyền thống chuyên làm nghề đóng ghe, chằm nón lá. Cảnh trí quanh vùng tuy không đa dạng nhưng có đổi thay mặt khác về yếu tố địa lý lịch sử, và chiều sâu về cuộc sống nhân văn, tâm linh.


Cảnh quan yên bình ngày xưa

Và nếu xa xa bờ bên kia của nó là mật khu Ba-Thu, thuộc vùng chiến khu Mỏ Vẹt (Bec Canard) đã có từ suốt trong thời kỳ còn bị Thực-Dân đô hộ, thì bên nầy của nó là một xóm nhỏ dân lành có giáo đường "Tha-La, một địa danh lịch sử" (C) đã đi vào huyền thoại. Và mãi cho đến giờ phút nầy, bài thơ "Tha La xóm đạo" nổi tiếng của Vũ-Anh-Khanh cũng đã từng được phổ nhạc, thành ra một bài ca từ lâu có rất nhiều người nghe biết đến.


Bản nhạc "Tha La xóm đạo"

Dòng sông tiếp tục chảy xuôi về Bến-Lức, và khi vừa nhìn thấy được nhịp cầu Bến-Lức dài cỡ bao nhiêu, thì người ta càng nhìn thấy tầm không gian bao la ở đó đạt đến cỡ lớn hơn cả bao lần. Lùi lại đoạn sông Đức-Hòa, Đức-Huệ có nhà máy đường Hiệp-Hòa lớn nhất ở miền Nam thời bấy giờ, thì người ta cũng dễ dàng nhìn thấy có từng dãy ruộng mía bát ngát, và những cánh đồng tràn ngập nước phèn mọc đầy lau sậy.


Cánh đồng ngập nước

Qua khỏi Cần-Đước, là dòng sông Vàm-Cỏ-Đông chảy đến Tân-Trụ và giao đầu hợp lưu với dòng sông Vàm-Cỏ-Tây trở thành sông Vàm-Cỏ. Địa hình đồng ruộng nơi đây, có cảnh quan khá đặc biệt của khu vực đồng bằng sông Cửu-Long. Nhất là, về hình ảnh của những đám lá tối trời thường được các nhà quân sự coi như là những pháo đài phòng thủ thiên nhiên ở vùng đầm lầy sông nước từ thời kháng chiến của nghĩa quân Trương-Công-Định. Và sự kiện nói về công dụng thực tế của những đám lá tối trời nầy, thì từ bao năm qua cũng đã được báo chí nước ngoài nói đến rất nhiều trong suốt thời kỳ còn chiến tranh tại Việt-Nam.


Đám lá tối trời (dừa nước)
Hình hài của con sông Vàm-Cỏ-Đông sau những đường nét phác họa tượng hình, thì đến đây nó đã rõ rệt thành hình như là một bức tranh thiên nhiên bao la hòa mình vào cảnh vật khí thiêng của đất phương Nam. Và hiện nay, công dụng sự ích lợi của nó, cũng như về yếu tố ý nghĩa lịch sử của các con sông khác, thì đã được liệt kê chung vào danh mục của 13 con sông nổi tiếng nhất của Việt-Nam là: sông Bạch-Đằng, sông Hồng, sông Đà, sông Mã, sông Gianh, sông Bến-Hải, sông Hương, sông Đà-Rằng, sông Srêpôk, sông Đồng-Nai, sông Sài-Gòn, sông Vàm-Cỏ-Đông, và đặc biệt nhất là sông Cửu-Long có ảnh hưởng trực tiếp rất nhiều về mặt kinh tế nông nghiệp của hầu hết mọi người dân sinh sống ở miến Tây.

Hiện nay, mặc dù trên dòng sông Vàm-Cỏ-Đông đã có tới 7 cây cầu đã được bắc sang sông, giúp cho mọi phương tiện giao thông được dễ dàng thuận tiện hơn xưa nhưng bù lại thì cảnh cũ đã hẳn bị đổi thay rất nhiều. Ven hai bên bờ sông, người ta dễ dàng nhìn thấy có hình ảnh khói tỏa lưng trời, do các khu công nghiệp ngày càng mọc thêm ra (nhất là khu công nghiệp quy mô "Thành-Công" toạ lạc gần sát bên giáo đường Tha-La ở An-Hòa, Trảng-Bàng) cộng vào với các nước thải dơ bẩn làm ô nhiễm môi trường trong dòng nước. Tuy nhiên, từ khu công nghiệp quy mô "Thành-Công" thì cũng có chi lưu của sông Vàm-Cỏ-Đông xuôi theo dòng nước chừng vài cây số là đã tới ranh giới của xã An-Tịnh (Trảng-Bàng), Thái-Mỹ (Củ-Chi) và Tân-Mỹ (Đức-Hòa). Và bên cạnh tuyến xe buýt đi về Củ-Chi dưới chân cầu Thái-Mỹ (về phía địa phận Long-An) hiện nay hiện có 1 sân golf hiện đại với cảnh quan thiên nhiên bao la tươi mát xanh màu lục, đêm đêm tỏa ánh ánh sáng chiếu lung linh cả một góc trời.


Sân golf Tân-Mỹ

Ngày xưa, trước đây vài thập niên trở lại đây thôi, trên suốt chiều dài của dòng sông nầy người ta thường có dịp nhìn thấy được một bức tranh linh hoạt hằng ngày của những dân chài chăm sóc từng bè nuôi cá thác-lác, cá lóc, cá ba-sa v.v. Hay kéo những vó đăng, thả lưới, đặt lờ, đóng đáy bắt tôm cua cá, thì nay, cảnh đẹp nên thơ đó đã không còn. Trên thủy lộ nầy, giờ đây ngoài quang cảnh xe cộ dày đặc trên cây cầu Bến-Lức (trước khi vào thành phố Long-An) bắc nhịp sang sông nối liền đường giao thông huyết mạch về miền Tây, thì ngày nay trong địa phận tỉnh Tây-Ninh có 3 bến cảng chính vận tải bằng đường thủy (sông VCĐ) là cảng Thanh-Phước (Gò-Dầu), cảng Fico và cảng Bến-Kéo (Hòa-Thành).

Cảng Thanh-Phước là cảng trung chuyển thuộc công ty liên doanh Saigon VRG và CJ Koreo Express có khả năng vận chuyển khoảng 5 triệu tấn hàng hóa mỗi năm, và có thể tiếp nhận loại sà lan có trọng tải trên 2000 tấn. Từ lâu cảng Thanh-Phước đã đi vào hoạt động vận chuyển cung cấp vật liệu cho các doanh nghiệp quanh vùng, đặc biệt là khu công nghiệp Phước-Đông.


Cảng Thanh-Phước

Cảng Fico thuộc công ty cổ phần xi măng Fico Tây-Ninh hiện nay đã được tân trang, và có năng lực xếp dỡ đáp ứng thỏa mãn nhu cầu vật liệu xi măng tiêu thụ tối đa cho nhiều công trình lớn bây giờ.


Cảng Fico

Còn lại là cảng Bến-Kéo (Hòa-Thành) đang trên đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Và được xem như là quan trọng nhất do mọi hình ảnh sinh hoạt nhộn nhịp ở bến tàu, cùng với mật độ lưu thông dập dìu của các loại xe tải, xe container chở đầy hàng hóa, vật liệu xây dựng, nguyên liệu clinker v.v. Cảng Bến Kéo Tây-Ninh có chiều dài 116m, hiện nay đã được tân trang và có khả năng tiếp nhận các loại tàu, sà lan trọng tải trên 1.000 tấn hàng, và có vị trí nằm cạnh khu công nhiệp Bến-Kéo có diện tích là 143,9 ha rất thuận tiện cho mọi nhu cầu vận chuyển giao dịch bằng đường thủy trên dòng sông Vàm-Cỏ-Đông.


Toàn cảnh cảng Bến-Kéo


Cảng Bến Kéo

Trở lại hình ảnh thiên nhiên của dòng sông Vám-Cỏ-Đông ngày trước, mà người ta từng quen thuộc với những cái tên dân dã gần gũi như: khúc sông Sóc-Om, Bến Năm-Chỉ, Vàm-Trảng, Rạch-Nhum, Trà-Cú v.v....Và như vậy, thì cũng đủ để cho người ta đoán được phần nào về những vùng miền đất đai hoang dã khi xưa, mà dòng nước vô tình của nó cứ mãi tiếp tục chảy qua đã để lại nhiều dấu ấn về văn minh văn hóa lịch sử. Tiêu biểu là ở khúc quanh dòng sông thuộc quận Bến-Cầu, các nhà khảo cổ ngày nay đã tìm thấy được hiếm hoi có những di tích đồ đá, dụng cụ đất nung, di cốt động vật, vỏ của các loài nhuyễn thể v.v. Cũng theo sự phân tích của các nhà khảo cổ, thì trầm tích văn hóa hậu Óc-Eo ven bờ Vàm-Cỏ-Đông từ ngàn xưa đã từng có những dấu ấn văn minh lịch sử về các công trình kiến trúc đền tháp tiêu biểu như là các di tích Bến-Đình ở Bến-Cầu, tháp Chóp-Mạt ở Tân-Biên và tháp Bình-Thạnh ở Trảng-Bàng v.v.

Riêng về khu di tích lịch sử Bến-Đình ở Bến-Cầu, thì vào năm 2019 các nhà nghiên cứu khảo cổ học từ trong nước (D) sau hai tháng khai quật đã phát hiện ra được nhiều dấu tích lịch sử có niên đại hơn cả 1000 năm. Tại đây, ngoài di tích đền tháp và nhà Dài khá còn nguyên vẹn thì những gạch nung cùng mảnh bình gốm có chi tiết hoa văn cầu kỳ, tỉ mỉ cũng đã được các nhà khảo cổ đánh giá cho là có kỹ thuật cao về phương thức nung và chế tác trong thời đại bấy giờ.


Di tích Bến-Đình

Chân tháp Bến-Đình 

 Cọc gỗ ngàn năm được phát hiện tại Bến-Đình

Gạch nung cùng mảnh bình gốm được phát hiện trong khu di tích.

Ngoài ra, ngay tại Thanh-Điền ở Châu-Thành cũng còn có di tích của một bệ đá Yoni bên cạnh chân tháp gò Cổ-Lâm.
 


Gò Cổ-Lâm

Bệ đá Yoni

  Chân tháp

Trầm tích văn hóa hậu Óc-Eo quanh dòng Vàm-Cỏ-Đông trong quá trình lịch sử cho đến ngày nay còn được chứng minh rõ rệt bằng hai ngôi tháp cổ ở Trảng-Bàng và Tân-Biên. Cùng với các hiện vật gạch gốm được tìm thấy sau các cuộc khám phá khai quật, thì người ta có dịp hiểu thêm được phần nào về hình ảnh cuộc sống trong không gian sinh tồn của cộng đồng cư dân tại địa bàn xã hội thời ngàn xưa. Nghiên cứu về trầm tích văn hóa hậu Óc-Eo quanh dòng Vàm-Cỏ-Đông sau khi chấm dứt chiến tranh, thì lại có thêm một điều lý thú bất ngờ đã làm cho cục đất Trảng-Bàng trở thành một địa danh quyến rủ. Trảng-Bàng bây giờ được đánh giá coi như là một nơi có tiềm năng khai thác du lịch, và sự kiện nầy không phải chỉ riêng do nhờ vào có các món ăn đặc sản bánh canh nổi tiếng địa phương quen thuộc. Nguyên nhân chính của nó, là do có sự may mắn còn tồn tại dấu vết kho tàng của một công trình kiến trúc mang tính tiêu biểu cho nền văn hóa hậu Óc-Eo, theo như tài liệu nghiên cứu của nhà khảo cổ. Đó là hình ảnh của một ngôi tháp khá còn nguyên vẹn vừa được trùng tu, tọa lạc ở trong vùng địa lý Trảng-Bàng. Và thực sự ngày nay chính nhờ vào ảnh hưởng giá trị của kho tàng văn minh tháp cổ Bình-Thạnh (mà dân địa phương quen gọi là tháp Chàm đó), đã khiến cho bây giờ có rất nhiều du khách hiếu kỳ bắt đầu tìm đến nơi đây để tham quan. Hơn thế nữa, từ lâu ngọn núi Bà-Đen cao ngất từng được người ta ví như là cái nóc nhà của miền đất phương Nam, từng hấp dẫn được hàng triệu du khách thập phương chiêm bái, vãng cảnh. Nay, đất nước hòa bình thì hình ảnh của ngôi tháp Bình-Thạnh, Trảng-Bàng cũng thường được họ ghép thêm vào trong những tuyến tham quan quanh vùng non nước Tây-Ninh.

Tháp cổ nầy là một trong ba ngôi tháp hiếm hoi duy nhất được tìm thấy ở miền Nam, đặc biệt nói riêng là có hai tháp nằm ở trong vùng địa lý Tây-Ninh. Tháp Bình-Thạnh (Trảng-Bàng) thì khá còn nguyên vẹn hơn hẳn tháp Chóp-Mạt (Tân-Biên) và đã được Hội Nghiên-Cứu Đông-Dương phát hiện vào năm 1886. (Còn Tháp Chàm Vĩnh-Hưng thì nằm ở Bạc-Liêu). Tháp Bình-Thạnh có vị thế nằm bên hữu ngạn sông VCĐ có niên đại xây dựng khoảng thế kỷ VIII, và cũng là ngôi tháp cổ ngày nay bắt đầu đã được nhiều du khách tìm đến tham quan. Theo chức năng và mô hình xây dựng của tháp nầy, thì nó giống tương tợ như lối kiến trúc của các đền tháp Chàm ở miền Trung hiện còn tồn tại. Và mặc dù tuy người ta chưa có thể khẳng định được một cách hoàn toàn chính xác về phương pháp xây dựng, nhưng kỹ thuật làm cho các viên gạch chất chồng lên được dính trết và khắng khít chặt chẽ với nhau thì quả thật là một kỳ công tuyệt xảo.

Tháp cổ Bình-Thạnh, Trảng-Bàng thời còn chiến tranh và đường giao thông trắc trở, cho nên tháp đã bị hoang phế quá lâu đến nỗi có nhiều người địa phương cũng chưa hề có dịp được tìm đến tham quan. Sau năm 1975, trước khi quần thể thánh địa Mỹ-Sơn nơi biểu tượng cho lịch sử của tháp cổ Chămpa được tổ chức UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hoá thế giới vào năm 1999, thì trước đó, Bộ Văn-Hóa Thông-Tin (cũ) cũng đã chính thức công nhận xếp ngôi tháp cổ của nền văn minh hậu Óc-Eo quanh vùng dòng Vàm-Cỏ-Đông nầy vào di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia vào năm 1993.


Tháp Bình-Thạnh

Còn tháp Chóp-Mạt thì nằm trong vùng địa lý Tân-Biên từng được các nhà khảo cổ phát hiện ra từ đầu thế kỷ XX, tháp nầy có đường nét kiến trúc tương tợ cùng niên đại với tháp cổ Bình-Thạnh, và cũng được Bộ VH&TT chính thức công nhận là di tích lịch sử cấp quốc gia vào năm 1993. Tháp nằm trên địa thế gò đất cao giữa cánh đồng quang đảng với kiến trúc cổ kính uy nghi, trầm mặc tạo ra một mỹ quan cá biệt nổi bật ở quanh vùng.

Chiều cao đỉnh tháp đo được 10m, mặt vách chính trổ ra hướng Đông và có 4 mặt tháp quay theo 4 hướng. Hiện nay, dù đã trải qua mấy đợt trùng tu nhưng tương đối tháp vẫn còn giữ được khá nguyên vẹn hình hài hoang sơ, cổ kính của một vài chứng tích. Giờ đây, nếu như tháp cổ Bình-Thạnh ngày càng được nhiều người nghe biết đến do nhờ có cùng nằm chung địa bàn với nhà thờ nổi tếng Tha-La và làng bánh canh giò heo, thì tháp cổ Chóp-Mạt cũng có địa thế đặc biệt khác là do nhờ cùng nằm trên tuyến đường tham quan khu di tích lịch sử "Trung ương cục Miền Nam" nổi tiếng thời chiến tranh. Cho nên, bây giờ tháp cũng đã lần lượt thu hút được nhiều con số du khách trên con đường tham quan Căn-Cứ TƯCMN dừng chân lại viếng thăm.


Tháp Chóp-Mạt

Căn cứ Trung ương cục Miền Nam

Trầm tích văn hóa hậu Óc-Eo quanh vùng địa lý sông Vàm-Cỏ-Đông chảy ngang qua còn có khu di tích Bình-Tả từng được phân bố vị trí nằm ngay tại huyện Đức-Hòa (Long-An). Đây là một cụm di tích kiến trúc nhỏ nhưng có chiều sâu về giá trị nghệ thuật cổ xưa đựợc tìm thấy ngay tại ba địa điểm ở Gò-Đồn, Gò-Xoài và Gò Năm-Tước (Long-An). Vào năm 1930 và 1931, hai nhà khảo cổ học Henri Parmentier và J.Y. Claeys đã lần lượt nghiên cứu khám phá khu di tích cho biết công trình kiến trúc nầy có niên đại từ thế kỷ I đến thế kỷ VII sau công nguyên. Và các hiện vật được tìm thấy từ lâu trong khu di tích Bình-Tả như là tượng Dvarapala, mi cửa đá chạm trổ hoa văn, bản minh văn Pali-Sanskrit v.v đều là những dấu ấn văn minh thời đại có sự trộn pha ảnh hưởng của Phật-giáo và Ấn-giáo cạnh vùng ĐBSCL.

Ngày nay, khu di tích Bình-Tả đang trong tình trạng hoang phế nhưng đã được Bộ Văn-Hóa&Thông-Tin chính thức công nhận là di tích quốc gia vào năm 1989.


Tượng Dvarapala (Di-tích Gò-Đồn)

Mi cửa Đá chạm trổ hoa văn (Di-Tích Gò-Đồn)

 Bản minh văn (Di-Tích Gò-Xoài)

Tại miền Đông Nam phầnhiện nay có các hệ thống sông lớn như Đồng-Nai, Sài-Gòn, Thị-Vải, và các con sông khác nằm trong hệ thống của nó thì đều có những vị trí địa lý cũng như về công dụng hữu ích riêng. Tuy nhiên, nếu muốn nói đến tiềm năng phát triển về du lịch sinh thái trên sông nước thì chỉ có sông Vàm-Cỏ-Đông là có nhiều điều kiện thuận tiện nhất về mọi mặt. Vả lại, theo cái nhìn của đa số thành phần sành du lịch trong thời điểm bây giờ, thì phong thủy vùng địa lý Cần-Thơ là nơi thích hợp điển hình cho mọi hình thức du lịch sinh thái sông nước miệt vườn, An-Giang - du lịch tâm linh, Kiên-Giang - du lịch biển đảo, Bạc-Liêu - du lịch văn hóa v.v. Tuy nhiên, nếu muốn nói riêng về hình thức tổ chức du lịch nội địa trên sóng nước vùng ĐBSCL kéo dài thời gian trên dòng sông như hiện nay, thì bây giờ đã có chiếc du thuyền "Victoria Mekong" được khai trương từ trước đầu năm 2020 để phục vụ thường xuyên trong tour du lịch Cần-Thơ&Châu-Đốc, và tổ chức nầy cũng thu hút được nhiều du khách bắt đầu đăng ký để tìm dịp trải nghiệm về chuyến du hành.


Du thuyền Victoria Mekong

Và nói riêng về trên sóng nước Vàm-Cỏ-Đông, thì hình thức tổ chức như kiểu du thuyền bùng nổ theo xu hướng du lịch trên sông thì luôn luôn bao giờ cũng chỉ lại là một ý tưởng không có tính khả thi cao. Tuy nhiên, với góc cạnh nhỏ nào khác hơn thì người ta sẽ thấy rằng hình hài của dòng sông Vàm-Cỏ-Đông trong tiềm năng phát triển về ngành công nghiệp không khói trong tương lai thật là phong phú, đặc biệt do nhờ có cảnh quan thiên niên tạo dáng nên thơ hài hòa phong thủy ở quanh vùng. Do vậy, khi nào ngưởi ta có thể bắt đầu thực hiện chương trình nầy thì sẽ được ví như là một sự đột phá để cho hàng du khách đam mê có dịp khám phá ra bao điều thú vị của thiên nhiên hoang dã còn sót lại quanh quẩn ở đâu đây. Và mặc dù bây giờ người ta chưa từng thấy có những tổ chức du lịch nào trên sông nầy, để cho du khách có dịp được trải nghiệm xuôi dòng xuyên qua hai tỉnh Tây-Ninh và Long-An. Nhưng, từ lâu cũng đã có những thành phần du lịch bụi thích đêm ngày lênh đênh trên sóng nước nơi đây để tận hưởng thời gian dưới không gian gần gũi cây lá mây ngàn, để hòa mình vào hoàn cảnh địa lý nhân văn bản địa và cũng để tạo dịp khám phá ra bao điều thú vị trong cuộc hành trình.

Đi thực tế, thì cảnh quan ở thượng nguồn sông Vàm-Cỏ-Đông ngày nay tương đối cũng hãy còn giữ được vẻ thắng duyên yên ắng, thanh bình. Dòng sông vẫn chảy lờ đờ cuốn trôi từng mảng lục bình xanh biếc theo thời gian ngày tháng, và có những đoạn sông được nhìn thấy chân trời man mát xuyên qua những đồng bãi ven bờ. Giữa bầu không khí trong lành, gió thoảng nhẹ gợn từng đợt sóng lăng tăng, xa xa là hình bóng của ngọn núi Bà Đen xanh thẩm uy nghi, trầm mặc sẽ làm cho khách lãng du cảm thấy tâm hồn sảng khoải, yêu thích bức tranh thiên nhiên bao la điểm tô sắc màu cỏ nội hoa ngàn. Trong địa bàn vùng địa lý nầy (từ Trảng-Bàng theo ngược dòng về thượng nguồn) thì có nhiều di tích lịch sử nổi tiếng về lịch sử, văn hóa như là Tháp cổ Bình-Thạnh, Chùa Cao-Sơn, Chùa Gò-Kén, Đình Thanh-Phước, Đình Thạnh-Đức, Đền Quan Lớn Trà-Vong, Tháp cổ Chót-Mạt, Vườn Quốc-Gia Lò-Gò&Xa-Mát và Căn-Cứ Trung-Ương Cục Miền Nam.

Đặc biệt, là hai địa danh nổi tiếng sau cùng nầy từ lâu đã có rất nhiều hình ảnh linh hoạt trên thực địa đầy ấn tượng, chắc chắn sẽ dành cho du khách tham quan khám phá ra bao điều thú vị bất ngờ ở nơi có con sông Vàm-Cỏ-Đông nằm trong khu vực, và có những con suối nhỏ liên tục đêm ngày chảy ra dòng sông lớn. Và nếu Vườn Quốc-Gia Lò-Gò&Xa-Mát từng được các nhà nghiên cứu đánh giá coi như là một kho tàng sinh thái thiên nhiên phong phú còn tồn trữ rất nhiều về các hệ động thực vật quý giá, thì Căn-Cứ Trung-Ương Cục Miền Nam từ lâu cũng đã được đồng bào trong cả nước, kề cả con số kỷ lục của các thành phần du khách nước ngoài tìm đến tham quan.


Sinh hoạt trên nguồn nước, xa xa là núi Bà-Đen
Đài quan sát trong Vườn Quốc-Gia LG&XM và một di tích trong Căn-Cứ TƯCMN

Còn về cảnh sắc ven bờ con sông Vàm-Cỏ-Đông khi vào địa phận Long-An cho tới hạ nguồn, thì dáng vẻ hoang sơ đã có ít nhiều thay đổi bằng hình ảnh của những đám lá tối trời, những cánh đồng nông nghiệp lúa nếp và vườn tược hoa màu. Và mặc dù địa lý quanh vùng tuy có hệ thống sông ngòi và kênh rạch chằng chịt nhưng ảnh hưởng của dòng VCĐ lúc nào cũng đóng vai trò cần thiết cho sự giao thông đường thủy của người dân. Mặt khác, chương trình phát triển du lịch địa phương cũng đang trên đà khởi sắc với những dự án đã được thực hiện ven bờ sông thuộc huyện Bến-Lức. Vùng đất nầy từng là địa bàn chiến lược về quân sự và kinh tế của Long An, tại đây hiện có nhiều khu công nghiệp hiện đại và hệ thống khách sạn, nhà nghỉ góp phần phục vụ cho khách yêu thích du lịch đến từ khắp mọi miền. Du lịch trên đoạn sông nầy, du khách sẽ có dịp nhìn thấy khu phố xinh đẹp "The Pearl Riverside" trong tương lai hài hòa với cảnh quan thiên nhiên ở ven bờ sông VCĐ.


"The Pearl Riverside"

Và cảnh quan ở ven bờ sông Vàm-Cỏ-Đông ở địa phương Bến-Lức ngày nay cũng đã có một sự đổi thay sắc màu rõ rệt với tốc độ quá nhanh ít ai ngờ. Từ một miền quê sông nước mà bây giờ đã từ từ mọc lên thành phố xá khang trang, tiệm tùng, hàng quán khắp cả nẻo đường, và đặc biệt là khu du lịch Happyland. Khu du lịch Happyland là một không gian giải trí mang đậm tính chất văn hóa dân tộc tọa lạc ven bờ VCĐ thơ mộng, và được giới thiệu lên bằng hình ảnh của những di tích kiến trúc đặc trưng của ba miền Nam-Trung-Bắc.

Đến tham quan, du khách sẽ có dịp được trải nghiệm khám phá đôi điều lý thú bất ngờ qua những thì giờ thư giãn để ngắm nhìn, vui chơi, thưởng thức ẩm thực đa dạng dưới làn gió hây hây thổi nhẹ thoáng qua từ bờ sông VCĐ nước chảy êm đềm.


Cổng chào bình minh

Bến ghe mời khách

Đặc biệt trong những ngày lễ Hội-Xuân tưng bừng trước đây, Happyland cũng đã từng có mời các nghệ sĩ nổi tiếng từ Hồ-Chí-Minh như là Phi-Nhung, Trinh-Trinh, Bình-Tinh, Thanh-Bạch, Kim-Tử-Long, Quyền-Linh v.v về khu du lịch trình diễn nhiều màn văn nghệ thật là đặc sắc.


Cảnh quan về đêm

Trở lại vùng địa lý nhân văn, văn minh sông nước quanh dòng Vàm-Cỏ-Đông do nguyên nhân có những thời kỳ chuyển dịch kinh tế khác nhau cho nên cộng đồng cư dân ở nơi đây khi xưa cũng đã từng dùng thủy lộ nầy để di chuyển về nhiều nơi khác, nhất là về vùng đồng bằng sông Cửu-Long làm ăn sinh sống. Do vậy mà với cái nhìn trung thực, thì lịch sử cục đất theo quanh vùng nầy hoàn toàn không có dáng vẻ gì để có thể được gọi là biểu tượng đặc trưng cho một sự khai phá mở mang có tầm cỡ lớn hơn. Tuy nhiên, nếu đào sâu vào các công trình nghiên cứu về nền văn hóa cổ Việt-Nam trong thờì kỳ đồ sắt như Sa-Huỳnh, Đông-Sơn, Đồng-Nai thì bên cạnh đó người ta nhận thấy rằng các nhà khảo cổ đã định sẵn cho nền văn hóa hậu Óc-Eo tại vùng đồng bằng ở miền Nam có một giá trị ảnh hưởng rất lớn trong đời sống của cư dân thời bấy giờ.

Còn nói riêng về nguyên khí của đất nước thiêng, thì khúc rạch Sóc-Om gần Bến-Thủ cũng từng là một chiến khu lịch sử oanh liệt của ba vị quan võ của triều đình Chúa Nguyễn là Huỳnh-Công-Giản, Huỳnh-Công-Thắng, Huỳnh-Công-Nghệ vào thế kỷ thứ 17 đã hi sinh chiến đấu chống giặc Miên thường sang quấy nhiễu giết hại dân lành. Ngoài ra, tại khu vực nầy các ông còn có công góp phần thực hiện kế hoạch chương trình phát triển dinh điền, di dân khẩn hoang lập ấp về vùng tân biên cương vào thời bấy giờ. Công đức của ba vị tiền hiền ngày nay đã được ngườì dân địa phương kính trọng, và lập đền thờ ở nhiều nơi trong tỉnh Tây-Ninh.

Và khúc sông Vàm-Trảng (Trảng-Bàng) thì cũng từng là nơi tiếp nối nguyên khí hào hùng của dòng Vàm-Cỏ-Đông, là chiến địa cuối cùng của vị Lãnh-Binh Đặng-Văn-Tòng trước khi bị sa cơ rơi vào tay giặc. Ông là con của vị tiền hiền Đặng-Văn-Trước từng được Nguyễn-Tri-Phương giao cho nhiệm vụ bảo vệ Đại đồn Chí-Hòa. Sau khi pháo đài Chí-Hòa thất thủ, ông dẫn tàn quân về Vàm-Trảng gần Tha-La, Trảng-Bàng lập chiến khu tiếp tục chiến đấu. Tuy nhiên, cuối cùng đã ông bị sa cơ rơi vào tay giặc bắt lưu đày sang tận Guyane, và sau đó ông qua đời ở tại miền đất xa xôi nầy.

Ngoài ra, Vàm-Cỏ-Đông cũng còn là dòng sông từng soi bóng kiêu hùng của Trương-Quyền. Ông sinh năm 1844, là con của vị anh hùng Trương-Định và từ thuở nhỏ từng đã hăng hái xung phong theo cha ra chiến trường chống giặc xâm lăng. Sau khi Trương-Định tuẫn tiết, Trương-Quyền dẫn quân về ẩn trú tại chiến khu Đồng-Tháp-Mười. Sau đó, ông đưa quân về lập cứ địa tại vùng An-Cơ (Châu-Thành) Tây-Ninh là nơi thuân tiện nhờ có địa thế gò cao, có hào sâu và bờ thành lũy tre dày bao quanh kiên cố. Trong thời gian nầy ông tìm cách liên lạc với vị anh hùng Thiên-Hộ-Dương và liên kết với anh hùng Pu-Kom-Pô thuộc lượng võ trang Cam-Bốt từ bên kia biên giới để thành lập mặt trận liên quân kháng chiến chống thực dân Pháp. Khi mặt trận liên quân chiến đấu thắng lợi lập được nhiều chiến công thì ông mở rộng tầm địa bàn hoạt động du kích quân sự tới biên giới Tây-Ninh&Svay-Rieng, và hùng cứ cả một dải đất dài ven theo khúc sông Vàm-Cỏ-Đông từ Châu-Thành kéo xuống tới Trảng-Bàng.

Chiến thắng oanh liệt nhất của ông là trận đánh công đồn đả viện xảy ra trong ngày 07-06-1886 giết chết được viên tỉnh trưởng Tây-Ninh De Larclause, và tên phụ tá Lesage cùng 11 lính giặc. Vào ngày 14-6-1886, khi quân tiếp viện của Pháp từ Sài-Gòn theo sông Vàm-Cỏ-Đông kéo lên giải vây đồn, và khi vừa vào tới rạch Sóc-Om (rạch Vịnh) thì đã bị cánh quân phục kích của ông tấn công bất ngờ trong trận đánh lịch sử làm tiêu hao gần hầu hết binh lính giặc, trong đó có viên chỉ huy là Thiếu-Tá Marchaise bị tử thương.

Về sau, các chiến công hiển hách của ông đã được sử gia Trần-Văn-Giàu tóm lược trong tác phẩm "Chống xâm lăng" như sau:

..."Sau Trương Định, còn nhiều cuộc khởi nghĩa, nhưng không có cuộc nào có quy mô rộng rãi bằng, trừ cuộc khởi nghĩa của Trương-Quyền và Pu-Kom-Pô ở miền Tây Ninh...".

Ngày nay, tài liệu xác định về trường hợp qua đời của ông hiện còn đang bỏ ngỏ! Tuy nhiên, ngôi mộ của ông bây giờ thì được trùng tu khang trang, và tọa lạc tại ấp Bưng-Rò, xã Hòa-Hội, huyện Châu-Thành (Tây-Ninh).

Trước hơn cả thời tiền chiến 1945 hằng thập niên, do con đường quốc lộ 1 lúc bấy giờ khi còn chưa được trải đá đỏ hoàn toàn, cho nên sự giao thông vận tải vật liệu nặng từ thành phố Sài-Gòn về tỉnh lị Tây-Ninh chỉ trông cậy vào thủy lộ huyết mạch là dòng sông Vàm-Cỏ-Đông. Và trong giai đoạn lịch sử chiến tranh Đông-Dương sau khi Nhật-Bản bị giải giới tại Việt-Nam, thì Pháp trở lại và họ cũng lại dùng dòng sông Vàm-Cỏ-Đông để làm phương tiện hành quân và vận chuyển quân nhu về chiến trường ở địa bàn Tây-Ninh. Vì thế cho nên, đã có rất nhiều lần xảy ra những trận đụng độ ác liệt với phục kích quân của bộ đội Việt-Minh tại những khúc sông có lợi thế về chiến thuật du kích. Ngoài ra, còn có những con kênh đào khác đã được nối liền vào với sông Vàm-Cỏ-Đông như là kênh Séville đào năm1902 dài 4km500 nối liền châu thành Tây-Ninh với sông Vàm-Cỏ-Đông, kênh Gia-Lộc ở quận Trảng-Bàng, kênh Lý-Văn-Mạnh vòng qua kênh Tàu-Hủ đi vào Chợ-Lớn. Và riêng kênh Xáng, thì nối liền sông Vàm-Cỏ-Đông với sông Sài-Gòn.

Ngày xưa, thì trên khoảng ven bờ nối liền châu thành Tây-Ninh với sông Vàm-Cỏ-Đông bằng một con rạch nhỏ thì còn có một di tích lịch sử gọi tên là "Phủ-Cũ " và được dân gian truyền tụng cho là cái phủ nhỏ của Nặc-Ông-Chân Vương quốc Khmer ((1642-1659). Ngoài ra, theo truyền thuyết kể lại về giai thoại vua Gia-Long khi cùng đám tùy tùng bôn ba đào tẩu, thì chạy từ Gia-Định về tới Long-An rồi cũng dùng thủy đạo Vàm-Cỏ-Đông định sang đất Cao-Miên lánh nạn. Nhưng vì bị quân Tây-Sơn đuổi theo bén gót, cho nên khi chạy tới bến ghe làng An-Thạnh (gần Mộc-Bài) thì vua Gia-Long mới dừng xa giá và gấp rút lên bờ, băng rừng lội suối vào lánh nạn ở núi Bà-Đen bây giờ*.

Đặc biệt, là sông Vàm-Cỏ-Đông còn có một chi lưu đã đi vào lịch sử chiến tranh dân tộc. Đó là dòng Nhật-Tảo đã một thời ghi danh chiến công hiển hách của vị anh hùng dân tộc Nguyễn-Trung-Trực (1839-1868), đã từng đốt cháy chiến tàu L'Espérance của giặc xâm lăng Pháp cách nay hơn 150 năm về trước**.


Ngả ba sông Nhựt-Tảo nơi đốt cháy tàu L'Espérance

Trong trận đánh lịch sử nầy, vị anh hùng Nguyễn-Trung-Trực đã chỉ huy đoàn quân cảm tử áp dụng chiến thuật du kích xông vào cận chiến khiến quân thù trở tay không kịp nên bị tổn thất nặng nề. Do vậy, cho nên ngày nay hễ mỗi khi nhắc tới hình ảnh của con sông Vàm-Cỏ-Đông lịch sử nầy, thì người ta không sao có thể quên được chiến tích lừng lẫy của ông. Một con người từng biểu lộ khí phách hào hùng khi đứng trước pháp trường của giặc, và đã được dân gian truyền tụng ghi nhớ mãi mấy câu thơ mà ông ngâm vang trước mặt quạn thù:

Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên
Yêu gian đàm khí hữu long tuyền
Anh hùng nhược ngộ vô dung địa
Bảo hận thâm cừu bất đái thiên
..................
Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai
Phong trần hăng hái tuốt gươm mài
Anh hùng gặp phải hồi không đất
Thù hận chang chang chẳng đội trời

Và nếu ở thượng nguồn của dòng Vàm-Cỏ-Đông Tây-Ninh từng tự hào là nơi có được in bóng của các vị anh hùng họ Huỳnh, họ Trương, họ Đặng thì dòng Vàm-Cỏ-Đông Long-An cũng từng đã tự hào là nơi còn tàng trữ những chiến công của vị anh hùng dân tộc nước nhà, là Nguyễn-Trung-Trực.

Ông là một liệt sĩ cận đại của nước nhà vào cuối thế kỷ 19 ở đất phương Nam, xuất thân từ Bình-Định dưới thời vua Minh-Mạng. Sau khi lớn lên thì vào Nam lập nghiệp sinh sống cùng chung với dân chài ở Long-An, rồi Cà-Mau. Trong khi Pháp sắp đánh thành Gia-Định (do Nguyễn-Tri-Phương trấn giữ), thì ông liền đứng lên chiêu mộ dân chài gia nhập vào đoàn quân của Trương-Công-Định cố thủ đồn Chí-Hòa. Sau khi đồn Chí-Hòa bị rơi vào tay giặc, thì ông chạy về Long-An tiếp tục lãnh đạo cuộc trường kỳ kháng chiến chống giặc xâm lăng. Và hơn tám tháng sau, ngày 10-12-1861, thì ông chỉ huy trận đánh thành công đốt chìm chiến tàu L'Espérance của Pháp tại dòng sông Nhựt-Tảo. (Sự kiện nầy về sau, thì trong một phần tài liệu trong tác phẩm của nhà nghiên cứu Alfred Schreiner: " Abrégé de l'histoire d'Annam" (1906), thì cũng đã có đưa ra những lời cảnh báo cho rằng, trận đánh chìm tàu L'Espérance ở Nhựt-Tảo chỉ là một khúc nhạc đạo đầu cho các cuộc tổng tấn công toàn bộ những đồn bót của Pháp về sau)...


Tượng Nguyễn-Trung-Trực ở Kiên-Giang
"Hỏa hồng Nhật-Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên-Giang khấp quỷ thần"

Trở lại sau chiến công Nhựt-Tảo, thì vào khoảng một năm sau (1862) lực lượng nghĩa quân tinh nhuệ của ông cũng đã có mở ra những cuộc hành quân phục kích tấn công các tàu tuần tiểu Pháp tại vàm sông Bến-Lức (VCĐ) và trên sông Tra gây nên nhiều thiệt hại cho giặc. Sau đó, Nguyễn-Trung-Trực liền mở rộng địa bàn hoạt động kháng chiến sang các tỉnh Gia-Định, Biên-Hòa, và ông cũng từng được triều đình phong chức Lãnh-Binh và Thủ-Úy. Ít lâu sau, ông kéo quân về ở Kiên-Giang lập thêm cứ địa, và mãi cho đến năm 1868 thì mới khởi binh đánh phủ đầu vào đồn Kiên-Giang chiến thắng vẻ vang, làm cho giặc Pháp bị tổn thất nặng nề. Tuy nhiên, sau đó bị giặc phản công mạnh mẽ cho nên ông đành phải chạy ra đảo Phú-Quốc, và cuối cùng ông bị rơi vào tay giặc bắt đem về hành quyết tại chợ Rạch-Giá. Khi ấy, ông mới vừa tròn 30 tuổi.


Tượng Nguyễn-Trung-Trực trong đền thờ chính ở Rạch-Giá 

Những mảnh ván tàu L'Espérance

Hiện nay, trên đất phương Nam đã có nhiều đền thờ ông tại các nơi như Kiên-Giang, Phú-Quốc, An-Giang, Hậu-Giang, Sóc-Trăng, Bạc-Liêu, và Long-An. Riêng tại vàm Nhựt-Tảo, thì hiện nay đã có một khu di tích lịch sử quốc gia rộng khoảng chừng 6,2 ha nằm bên cạnh một ngôi miếu thờ cũ. Bên trong có tượng đài, và được chia làm 4 khu biệt lập để lưu trữ, bảo tồn nhiều hình ảnh, và tư liệu tái hiện về cuộc đời cũng như về sự nghiệp cách mạng của ông. Bên ngoài khu di tích Nhựt-Tảo có trồng những cây xanh, và các loại kiểng quý khiến cho khung cảnh nơi đây đượm thêm một vẻ nên thơ, trầm mặc.

Riêng về tàu chiến L'Espérance thì từ lâu cũng đã được khai quật lên sau hơn một thế kỷ dài, và người ta được dịp tìm thấy có tất cả là 89 hiện vật. Trong đó, có 78 hiện vật gỗ, 8 hiện vật sắt, 2 hiện vật đồng và 1 hiện vật bằng thủy tinh. Tuy tất cả bộ khung tàu như đà, be, lườn, cột buồm từ lâu đã bị đục lấy phế liệu nhưng vẫn còn sót lại có những mảnh gỗ bọc đồng với dấu vết bị cháy loang lỗ.


Du khách tham quan Viện Bảo-Tàng Long-An

Khu di tích lịch sử Nhựt-Tảo 

Tái hiện chiến trận

Trở lại với hình ảnh sự nghiệp công lao của Nguyễn-Trung-Trực từng được hậu thế vinh danh lưu truyền, thì ngày trước, vua Tự-Đức sau khi nghe tin ông bị thọ tử thì cũng rất đỗi vô cùng thương tiếc cho vị anh hùng tận trung báo quốc ở đất phương Nam. Cho nên, Ngài sai hoàng giáp Lê-Khắc-Cẩn tổ chức làm lễ truy điệu, và đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:

Ký bi ngư nhân
Hùng tại quốc sĩ
Hỏa Nhựt-Tảo thuyền
Ðồ Kiên-Giang lũy
Ðịch khái đồng cừu
Thân tiên tự thỉ
Hiệu khí cổ kim
Thử nhân nam tư
Xích huyết hoàng sa
Ô hô dĩ hi !
Huyết thực thiên thu
Chương nhữ trung nghĩa
.......................
Giỏi thay người chài
Mạnh thay quốc sĩ
Đốt thuyền Nhật-Tảo
Phá lũy Kiên-Giang.
Thù nước chưa xong
Thân sao đã mất
Hiệu khí xưa nay
Người nam tử ấy
Máu đỏ, cát vàng
Hỡi ơi thôi vậy !
Ngàn năm hương khói
Trung nghĩa còn đây

Hơn thế nữa, Nguyễn-Trung-Trực một vị anh hùng yêu nước vào lúc bấy giờ cũng đã từng có để lại một câu nói để đời cho kẻ thù của dân tộc:

"Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, thì mới hết người Nam đánh Tây". Câu nói lịch sử bất hủ nầy, ngày nay đã được toàn thể nhân dân ta trân trọng xem như là di sản của một thông điệp thiêng liêng bất khuất vẫn hãy còn có mang ý nghĩa giá trị tinh thần sắt đá của bậc tiền nhân muốn nhắn gởi trực tiếp lưu lại về sau cho những kẻ cầm đầu của đoàn quân hung hăng xâm lược bá quyền, man rợ. Và đồng thời, cũng để nhằm mục đích cảnh giác trách nhiệm của người con Việt hãy sẵn sàng "ra đi vì nước Việt".

Do vậy, mà ngày nay bất cứ người dân ở địa phương nào có dòng sông ấy chảy ngang qua thì cũng đều lấy làm tự hào về lịch sử của cục đất quê mình. Tuy nhiên, cũng không phải chỉ có riêng về người dân ở quanh vùng địa phương đó, mà ngay chính cả hầu hết những người con dân Lạc-Hồng Nam-Bắc-Trung cũng vậy. Họ cũng đều biết hãnh diện chung về lịch sử nầy, và họ thường ví chiến công Vàm-Cỏ-Đông trên dòng Nhật-Tảo như là một bản sao oanh liệt có tầm vóc nhỏ hơn, nếu đem so bì với các trận thủy chiến oai hùng ở Bạch-Đằng giang, Như-Nguyệt giang, sông Rạch-Gầm&Xoài-Mút thuở xưa đã từng dạy cho quân thù xâm lược những bài học để dời.

Trở lại về hình ảnh quê tôi, do chính là vì thuộc vùng địa lý rừng ruộng quê nghèo, cho nên sức tiến của người dân quê tôi chỉ có thể nhìn thấy được là qua những công trình văn minh cơ bắp cùng với tinh thần gắn bó tình tự quê hương, bảo vệ thương yêu làng mạc. Và sở trường nầy, đã giúp cho họ miệt mài tạo dựng được nên bao hình ảnh xinh đẹp nên thơ của xóm làng.

Rồi theo thứ tự thời gian, mọi sự hòa đồng tập tục của các di dân đã trở thành một cuộc tập họp cộng đồng dị chủng giữa những người Việt, Chăm, Miên, Hoa trộn pha trong môi trường sao chụp. Và những dòng máu pha trộn về sau nầy, mới chính đúng là các biểu tượng cho tinh thần đoàn kết tương liên để cùng nhau xây dựng tương lai. Nhưng tôi mến yêu nhất, là những con người xa xứ mà không bị bơ vơ một mình. Đó là trường hợp của những thành phần dâu rể, những thành viên từ ở phương xa đến với quê tôi được xóm làng cưu mang xem như là thân nhân họ hàng ruột thịt trong gia tộc. Lại nữa, có những thành phần ưu tú trong số họ ra sức vun bồi cho nắm đất thiêng ở nơi nầy trở nên màu mỡ, xanh tươi. Và đi xa hơn, có kẻ còn yêu thương đất đai ở địa phương hơn cả chính những người bản địa lâu đời.

Vả lại, nếu trong lịch sử của danh nhân ít có ai thành công ở nơi chôn nhau cắt rún của chính mình, thì tại chốn quê hương tôi cũng vậy. Đất cũ đãi người mới, phải chăng đó là một hiện tượng thực tế nhan nhản đã xảy ra trong xã hội ngoài đời. Theo lời các vị bô lão kể lại, thì những con người làm rạng danh cục đất quê tôi chính lại là những thành viên từ phương xa đến lập nghiệp xin chọn nơi nầy làm hạnh phúc quê hương. Do vậy mà càng về sau, quê tôi không thiếu nhân tài trên nhiều lãnh vực cộng thêm vào tiềm lực của con người bản địa.

Và một trang sử mới bắt đầu. Khởi đi từ thượng nguồn con sông Vàm-Cỏ-Đông xuyên qua bao ruộng đồng đổ về sông cái, người ta có thể ngắm nhìn cảnh vật tuy không đa dạng nhiều nhưng lại tiềm tàng một sức sống phong phú với bàn tay đôi chân chịu đựng bền bỉ, dẻo dai.

Thật đúng là:

Làng tôi sống với nghề nông
Sau mùa gặt lúa lại trồng ngô khoai
Siêng năng làm lụng tối ngày
Vui đời hạnh phúc trong tay tình người (1)


Nông dân ngoài ruộng đồng

Còn sau nầy khi lớn lên không còn có dịp để sống ngay trên quê hương, thì hễ cứ mỗi khi nhớ nhà thì người dân quê tôi lại càng nhớ đến từng ngôi chợ, đình làng, chùa chiền, miếu vũ, nhà thờ, thánh thất...Và nhớ cả như in về hình ảnh không gian bao la nên thơ của con sông lững lờ nước chảy êm đềm, luôn có những âm thanh của câu hò :

Thuyền ai tách bến xa xa
Cho tôi gởi tặng chút quà duyên quê (1)

để mở đầu cho tiếng hát bài ca Vọng-cổ được cất lên lên bằng giai điệu quê hương của những chàng trai, cô gái mần việc đồng áng, hoa màu ở ven bờ chi lưu của con sông Vàm-Cỏ-Đông. Và cũng chính những ký ức gắn bó còn tồn đọng theo dòng thời gian làm cho người ta không bao giờ quên được hình ảnh của NSƯT Út Bạch-Lan (1935-2016), một danh ca nổi tiếng trong làng nghệ thuật trình diễn sân khấu cải lương được hàng triệu khán giả ái mộ, và phong tặng cho với một danh hiệu hi hữu rất đặc biệt, là "Sầu nữ cải lương".

Nghệ-sĩ Út Bạch-Lan (Đặng-Thị-Hai) sinh ra ở tại xóm vắng cạnh bến đò Lộc-Giang, Đức-Hòa, (Long-An), nơi có dòng sông Vàm-Cỏ-Đông hiền hòa, thơ mộng hằng ngày tiếp tục nước trôi lững lờ ngang qua một vùng đất phì nhiêu, màu mỡ mang theo hình ảnh sức sống sinh hoạt cần cù của người dân sở tại. Cũng nơi đây, có con đò năm xưa (nay đã có bến phà nhỏ) từng tiễn đưa biết bao người chiến sĩ anh hùng hăng hái sang sông lên đường chống giặc xâm lăng tàn phá xóm làng. Thuở ấy, cô gái nhỏ bên sông nầy vì sinh kế nên phải rời bỏ xóm làng về sống ở thành đô và từng rảo bước chân hát rong khắp cả đó đây. Do nhờ có giọng ca thiên phú về cổ nhạc nên tài năng sớm được tỏa sáng, cho đến khi "sầu nữ" trưởng thành thì đã sớm thành công vẻ vang trên con đường sự nghiệp cầm ca, và trở thành một trong những cô đào hát cải lương thượng thặng ăn khách nhất trong làng hia mão trên đất phương Nam vào giữa thập niên 50 (thế kỷ XX). Sau năm 1975, thì bà cùng với các nghệ sĩ nổi danh khác như Bạch-Tuyết, Lệ-Thủy, Ngọc-Giàu, Tài-Linh, Thoại-Mỹ, Vũ-Linh, Diệp-Lang v.v còn có nhiều dịp lần luợt theo chân các đoàn hát đi lưu diễn nghệ thuật ở nước ngoài cho kiều bào xem và đã được khán giả hoan nghinh nhiệt liệt. Hơn 60 năm gắn bó với nghệ thuật cải lương, NSƯT Út Bạch-Lan đã để lại cho đời bằng những dấu ấn sâu đậm trong nhiều tuồng tích đặc sắc như là "Tình Lan và Điệp", "Nửa bản tình ca", "Tình mẹ con" v.v.


Sầu nữ
Út Bạch-Lan

Cũng ven bờ Vàm-Cỏ-Đông trong khu vực nầy ngày trước, thì cũng có một tín hữu thuần thành công-giáo là Côximô Nguyễn-Hữu-Trí cùng gia đình từ Huế đã chạy vào đây lánh nạn truy sát của triều đình nhà Nguyễn vào năm 1937. Dọc theo các chi lưu của khúc sông nầy, nhất là tại Tha-La, ông quy tụ được một số gia đình cùng nhau khẩn hoang làm ruộng rẫy, hoa màu, Và đồng thời, ông cũng tạo dịp tổ chức thường xuyên các buổi sinh hoạt đọc kinh cầu nguyện chung. Về sau nầy, sau khi trở thành thánh tử đạo bỏ mình trong ngục thất, thì giờ đây phần mộ của ông đã được cải táng đem hài cốt về trước núi Đức Mẹ nhà thờ Tha-La tại Trảng-Bàng.

Ngày nay, theo sự ghi nhận tán dương của GP Phú-Cường:

...Từ đây, Tha-La đã thật sự thành hình, đó là nhờ công đức của các vị tiền bối, nhất là ông Côximô Trí...(sic)

Lịch sử bề dày góp công tạo dựng nên nhà thờ Tha-La ở ven bờ sông Vàm-Cỏ-Đông từng đã phải bị trải qua nhiều giai đoạn khó khăn, trắc trở. Tuy nhiên, hình ảnh tôn nghiêm của nhà thờ Tha-La ngày nay càng được trùng tu, kiến tạo và từ lâu đã trở thành một địa điểm quen thuộc dừng chân của nhiều thành phần du khách tìm đến tham quan.


Nhà thờ Tha-La

Ngoài ra, ở cạnh của một khúc sông VCĐ ngày xưa còn có một bản sắc chủng tử di truyền thật là hi hữu mà tôi lấy làm thích thú muốn nói ra trong phần ký sự đặc biệt nầy, thì đó chính là hình ảnh của hai ngón chân cái giao đầu của người Giao-Chỉ trong gia đình của những người dân bản địa. Và đây cũng chính là những ấn tượng khó phai mờ của lịch sử di dân khẩn hoang, lập ấp ở nơi nầy. Ngày xưa, vùng Rỗng Tượng (nơi khi xưa có nhiều voi) rộng lớn ăn thông về phía sông Vàm-Cỏ-Đông chính là nơi đất đai trù phú, vì tuy có rừng rậm cây cao nhưng đất mềm nhờ có nhiều lạch suối nhỏ, do vậy mà người dân di cư lập nghiệp đở phải vất vả trong việc cuốc cày, gieo, trồng, gặt hái. Hồi đó, có những dòng tộc gia đình từ xa đến đây sinh sống làm ăn chung đụng lẫn nhau nhưng có điều đặc biệt là phần đông, thì tướng mạo của họ đều có hai ngón chân cái giao đầu (gốc người Việt cổ).


Bàn chân Giao-Chỉ

Thuở còn cắp sách dưới mái trường làng Cao-Cẳng, tôi còn nhớ có một ông thầy giáo thường hay vui miệng kêu tên những đứa học trò có hai ngón chân cái giao đầu nầy là trò Giao-Chỉ với tình thân thương, quý mến. Về sau lớn lên về Sài thành tiếp tục đi học, thì tôi cũng đã có dịp ở trọ trong nhà gia đình của người quê ở Hội-An. Và nghe họ kể chuyện lại, là khi xưa những người làm nghề bán chiếu trên ghe bầu từ miền Trung vào tận Gia-Định, Nam-Kỳ, thì phần đông cũng là những đồng hương của họ mà tướng mạo vốn có hai ngón chân cái giao đầu. (Trường hợp nầy cũng giống như hồi phong trào di cư từ Bắc vào Nam vào năm 1954. Tại làng di cư Truông-Mít, Gò-Dầu-Hạ, Tây-Ninh cũng đã có hiện tượng của một dòng họ gia đình mũi cụp). Rồi sau một thời gian ăn nên làm ra, thì hầu hết cả những người nầy lại tản mác quanh vùng để định cư luôn. Cách nay chừng sáu bảy mươi năm, tại trước lăng ông Tả-quân Lê-văn-Duyệt thì người ta nhận thấy có những người di dân miền Trung dẹp nghề bán chiếu để mở quán lều bán mì Quảng (một loại văn hóa ẩm thực của miền đất Quảng-Nam). Và vào những lúc đêm khuya mưa rơi ế khách, thì các ông chủ quán nầy nhớ nhà, nhớ cục đất thiêng rồi thường hay cất lên tiếng hát bài chòi, và nghêu ngao lơ lớ bằng mấy giọng ngâm nga về mấy câu hò tài tử dân gian vừa mộc mạc vui tai như:

Chàng trai xứ Quảng đi thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành

Còn như ta đây:

Từ ngày vào đất Sài thành
Xích lô, xe kéo đã rành lối đi

hoặc bắt chước giọng Nam-Kỳ để hát lên bài ca vọng cổ"Tình Anh Bán Chiếu"***, để tưởng nhớ lại nghề nghiệp sinh nhai cố hữu của ông bà.

Trở lại hình ảnh nắm đất thiêng quê tôi do bao bàn tay của con người tứ xứ đến đây cùng nhau xây dựng hình hài, thì tôi cũng không sao quên được về thực thoại của các thuyền nhân di dân kinh tế Trung-Hoa lén lúc xâm nhập âm thầm vào miền Nam Việt-Nam xảy ra dưới thời Pháp thuộc. Thuở ấy, từ chốn kinh kỳ cho tới quận lị thì thỉnh thoảng người ta thường thấy có bóng dáng của những người khách trú da vàng lạ mặt từ ở cố quốc phương xa đến tìm kế sinh nhai bằng với những nghề nghiệp tiện tần, vất vả. Chẳng hạn như gánh phân người, đi thu mua từ mớ lông vịt, lọ ve chai, và bán từ cục xà phòng, cái bánh bao, bánh tiêu, giò chéo quẩy v.v để rồi về sau trở thành tiểu thương, đại phú. Và cũng có một lần của tuổi học trò mà tôi còn nhớ, là được nghe ông thầy giáo làng giảng văn nói về trường hợp của những người khách trú nầy bền gan khổ nhọc lập nghiệp vẻ vang ở trên đất nước của chúng ta. Họ từng xâm nhập lậu vào bằng các dòng thủy đạo từ nhiều ngõ ngách, với sự nghiệp mới bắt đầu từ ở thành phố cho tới làng mạc bằng mấy gói đậu phộng rang...Đó cũng chính là một trong những hình ảnh dân gian sống thực, được truyền khẩu đầy thú vị của chính các thành phần di dân trộn pha lập nghiệp trên nhiều mảnh đất ven bờ Vàm-Cỏ-Đông, và ngay trên cả ven bờ của các con sông khác.

Tuy nhiên, sau bước thành công thì bên cạnh những kẻ vô tình bạc nghĩa hay như một mực cố tình phản bội lại sự cưu mang bao dung của người dân Việt, thì cũng đã có (dù rất ít) những con người tha phương cầu thực biết nhớ ơn xứ lạ quê người. Và họ đã nhiệt tình ra công đóng góp xây dựng thật nhiều cho phúc lợi xã hội, xóm làng dưới mọi hình thức vào mỗi thời kỳ****.


Chợ Bình-Tây ở Chợ-Lớn ngày xưa (năm1928)

Tượng Quách-Đàm trong chợ Bình-Tây ngày nay

Ngoài ra, trong quá khứ hẳn bạn nào còn nhớ, là trong những truyện xưa đã có nhiều điển hay tích lạ cũng xuất phát ra từ cục đất vô tình. Sự kiện, có kẻ lúc ra đi xa quê hương mang theo bên mình nắm đất tổ tiên. Và vào thời gian tuổi già trước khi nhắm mắt lìa đời, thì họ thường trối trăn lại với gia đình là mong muốn làm sao được gởi gấm nắm tro tàn trở về trên đất mẹ. Về sau, ước nguyện nầy đã trở thành như là một tập quán lâu đời trong tâm hồn của xã hội dân gian...

Tôi biết, có nhiều người yêu quê họ như tâm hồn của bao nhiêu người khác đã từng thể hiện ra tình yêu thương làng mạc của mình. Nhưng tôi cũng được biết rằng, đôi khi, nhiều người cũng không còn có được những cảm nhận trực giác ý nghĩa nào mỗi khi nhắc đến hai chữ quê hương. Lý do là vì họ đã sống xa làng mạc quá lâu ngày, cho nên tâm hồn thiết tha đã bị ảnh hưởng của hoàn cảnh không gian vô tình trắc trở. Riêng tôi, thì cũng đã không sao có thể tránh khỏi được những trường hợp đó, nhưng được an ủi ấm lòng là nhờ may mắn luôn luôn còn giữ được mãi ở bên mình túi nắm đất thiêng của quê hương.


Sông Vàm-Cỏ-Đông

Nắm đất thiêng của quê tôi chính là những cục đất ven bờ sông Vàm-Cỏ-Đông mến yêu, chạy dài xuyên qua các tỉnh lị miền Đông Nam phần. Ngày xưa, dọc theo hai bờ sông có cá tung tăng, có chim đầy đàn, có thú rừng nhởn nhơ, có cây thốt nốt, có hàng dừa xanh, có bụi cây rừng thân cao tán lá bự. Và các loại bình bát, cà na, hoa thơm, cỏ lạ v.v hòa quyện cùng sóng nước trong xanh thơ mộng đã để lại biết bao là kỷ niệm với tuổi thơ khi bơi lội nô đùa dưới bầu trời chói chang nắng hạ.

Theo địa lý lịch sử thuở xa xưa trước khi trở thành con sông, thì lạch nước nầy không thuộc vào lãnh thổ của bất cứ quốc gia nào. Tuy nhiên, trầm tích văn hóa Vàm-Cỏ-Đông ngày nay là một chứng từ khoa học đã định hình giá trị của nền văn minh cổ đại của sắc dân còn tồn tại với những di tích từng được phân bố ở quanh vùng!***** Do vậy, mà dựa vào sự nghiệm xét của các nhà nghiên cứu lịch sử về biên cương, chủng tộc khi đã dựa vào thực trạng lãnh thổ da beo của các sắc dân cùng sống chung đụng với nhau trên bán đảo Đông-Dương thời cổ đại...Và theo giả thuyết chung về nguồn gốc lịch sử của con sông nầy thì từ lâu đã được xác định rõ ràng, là khi xưa nó từng nằm trong vùng đất ảnh hưởng của vương quốc Phù-Nam (Funan)****** kéo dài xuống tận đô thị Óc-Eo.

Trên cõi đời bao la vô cùng tận, sự trinh nguyên của đất nước núi rừng thiên nhiên đã ban cho con người dậy sớm có ý chí siêng năng, khổ công chiến đấu, sáng tạo với tinh thần khai phá để sinh tồn.

Và hình ảnh lịch sử hạ nguồn của con sông Vàm-Cỏ-Đông ngày nay sau khi chảy ngang qua Vàm Nhựt-Tảo thì cũng đã có mang theo dấu ấn tiêu biểu của một di tích oanh liệt, hào hùng của dân tộc ra biển Đông nhập vào dòng hải lưu hòa tan sóng nước đại dương đến tận các miền hải đảo Hoàng-Sa, Trường-Sa mến yêu ở biên thùy tổ quốc (C).
 

An-Tiêm MAI-LÝ-CANG
(Paris Xuân Tân-Sửu 2021)
(*) - Nhà văn, Giáo-sư Thẩm-Thệ-Hà là người đầu tiên đã góp công nghiên cứu rất nhều về các truyền thuyết nầy.

(**) - Chiến thắng của vị anh hùng Nguyễn-Trung-Trực ngày 10-12-1861, tại vàm Nhật-Tảo, sông Vàm-Cỏ-Đông. Và trận đánh Kiên-Giang ngày 16-6-1868, đã được lưu truyền bằng mấy câu thơ lịch sử sau đây:

Điếu Nguyễn-Trung-Trực

----------

Thắng phụ nhung trường bất túc luân
Đồi ba chỉ trụ ức ngư dân
Hỏa hồng Nhật-Tảo oanh thiên địa
Kiếm bạt Kiên-Giang khấp quỷ thần
Nhất đán phi thường tiêu tiết nghĩa
Lưỡng toàn vô úy báo quân thân
Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
Tu sát đê đầu vị tử nhân

(Điếu văn của Huỳnh-Mẫn-Đạt)

- Nhạc Lưu-Hữu-Phước. Lời Lưu-Hữu-Phước&Mai-Văn-Bộ&Nguyễn-Thành-Nguyên.

(B) - Công ước Liên-Hiệp-Quốc Về Luật Biển 1982, quy định vùng biển thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi quốc gia có lằn ranh giới đại dương.

(C) - Tựa đề một bài viết của tác giả.

(D) - Các nhà khảo cổ thuộc Viện Khoa-Học Xã-Hội vùng Nam bộ.

*** - "Tình Anh Bán Chiếu" là tựa đề của một bài ca nổi tiếng từng do cố nghệ sĩ Út Trà-Ôn, đệ nhất danh ca vọng cổ Việt-Nam trình bày và rất ăn khách hằng bao thập niên qua.

**** - Theo tài liệu được biên soạn công phu trong quyển sách "Người Hoa tại VN" của Tiến-Sĩ Nguyễn-Văn-Huy, Hội viên Hội Nghiên Cứu Việt Nam (VINEC) xuất bản tại Paris vào năm 1993. Tóm lược ngoài mặt tiêu cực, thì cũng còn có sự tham gia đóng góp của họ vào những phúc lợi xã hội, nhất là về lãnh vực kinh tế. Trường hợp như họ Quách-Đàm xây chợ Bình-Tây ở Chợ-Lớn năm 1928. Hay như, họ Hui-Bon Hoa (chú Hỏa) hiến tặng đất xây Bảo-sanh-viện Đông-Dương (Từ-Dũ) năm1937 v.v. Trong dịp nầy, tác giả cũng muốn xin nhắc lại là ngày xưa vùng đất Gia-Định có truyền khẩu câu nói là Nhất Sĩ, nhì Phương, tam Xường, tứ Hỏa để chỉ vào các nhân vật giàu sang và có thế lực ở tại Sài-Gòn. Còn riêng về cộng đồng người Hoa ở tại khu vực Sài-Gòn&Chợ-Lớn, thì có câu nói khác là nhất Hỏa, nhì Đàm, tam Xường, tứ Ích để chỉ vào các nhân vật thành công lớn trên thương trường. Và hai họ Quách, Hui có đóng góp nhiều vào cho phúc lợi xã hội đương thời.

***** - Tháp "Chót-Mạt" thuộc quận Tân-Biên, và tháp "Bình-Thạnh" thuộc quận Trảng-Bàng (Tây-Ninh). Các hình tháp nầy, lại được xây cất theo kiến trúc của quần thể thánh địa Mỹ-Sơn của vương quốc Champa.

****** - Vương-quốc Funan hiện nay không còn nữa.

(1) - Thơ An-Tiêm Mai-Lý-Cang.


Đn thờ Nguyễn-Trung-Trực ở Kiên-Giang

Đền thờ Nguyễn-Trung-Trực ở Phú-Quốc

**********

A - Kính mời quý độc giả mở YouTube nghe bản hùng ca nước Việt:

Bài hát

Bạch-Đằng-Giang
 
 

https://www.youtube.com/watch?v=398CJTpVPxU

**********************************************************