Từ
năm năm nay, cứ mỗi buổi sáng, bà Thảo có thói quen
lăn chiếc xe lăn đến gần bên cửa sổ ngoài hành lang
của The Heaven Land Nursing Home, rồi dừng lại ở đó trước
khi cúi xuống và với tay cẩn thận khóa cái thắng
của chiếc xe lăn. Đoạn bà chậm chạp mở quyển
sách đang cầm trên tay, hững hờ lật từng trang giấy,
bỗng dưng bà dừng tay lại nơi giữa quyển sách, nhìn
chăn chú vào một tấm ảnh. Xong bà với tay, run rẩy
cầm tấm ảnh đưa gần lên mắt như thể vừa tìm được
một hình bóng thân yêu trong ấy. Vài phút lặng lẽ trôi
qua, bà đưa tấm ảnh lên môi, hôn nhẹ lên bề mặt của
tấm ảnh cũ kỹ, rồi từ từ để trở lại vị trí
cũ, bà đặt nhẹ bàn tay lên trên như sợ nó rớt xuống
đất, song bà đưa mắt nhìn qua khung cửa nhỏ trước
mặt, buông tiếng thở dài...
Ngoài kia, qua khung cửa hẹp,
cánh đồng xanh mướt màu mạ mới mổi bật dưới
bầu trời trong xanh của buổi sáng mùa xuân, xa xa, những
đàn cò trắng đang bay lượn tung tăng tìm mồi, đùa
giỡn tạo nên một bức tranh cảnh đồng quê tuyệt đẹp.
Bà Thảo lẩm bẩm một mình.
-
Ôi, đẹp quá. Thật là một tuyệt tác phẩm.
Khu dưỡng đường hoàn toàn
chìm trong yên lặng, những cơn gió nhè nhẹ thoảng qua
từ song cửa sổ khiến bà cảm thấy dễ chịu.
Bà từ từ nhắm mắt lại, mơ màng như đang bước vào
trong giấc mộng. Có lẽ, cuốn phim dĩ vãng đang chầm
chậm quay lại trong ký ức của bà, những tháng năm đong
đầy kỷ niệm của hơn 50 năm về trước, cái ngày mà
bà bắt đầu chớm biết thế nào là thương nhớ một
người, thế nào là sự rung động của trái tim. Mở
đầu cho một mối tình thơ dại...
...Ðầu xuân năm ấy, cũng
vào một ngày thanh tịnh như buổi chiều nay, trên cánh
đồng nặng chĩu những bông lúa vàng quê Ngoại, Thảo
bước đi lặng lẽ trên bờ đê bên chú Khải, cả hai cùng
yên lặng như đang theo đuổi những ý nghĩ của riêng mình.
Thấp thoáng xa xa, một số nông dân đang tíu tít, bận
bịu với công việc của đầu mùa gặt, kẻ đổ lúa,
người đập chầy, nhịp nhàng và đều đặn như một
bản nhạc dân ca. Thỉnh thoảng một vài câu vọng cổ
vang lên từ các bác nông phu, đi theo sau những tiếng cười
trong trẻo của các cô thôn nữ, tạo nên một khung cảnh
yên vui của một đất nước thanh bình.
-
Thảo đang nghĩ gì thế?
Câu hỏi của chú Khải khiến
Thảo giật mình quay lại. Tim Thảo đập dồn đập
như muốn bung ra khỏi lồng ngực, mặc dù đây không phải
là lần đầu tiên Thảo đi bên cạnh chú Khải.
Nhưng sao lạ quá, lần này cái cảm giác bẽn lẽn, e thẹn
lại bao quanh tâm hồn nàng. Thảo có cảm giác nóng
ran hai bên má, nàng hơi cúi mặt để tránh ánh mắt của
chú Khải đang nhìn mình chăm chăm, rồi lí nhí trả lời
trong miệng.
-
Dạ không, Thảo không nghĩ gì cả.
Thảo nghe tiếng chú Khải
cười rất nhẹ...như chế nhạo.
-
Thật chứ? Thế, Thảo có muốn biết là chú đang nghĩ
gì không?
Thảo không trả lời, nàng
chỉ lắc đầu nhè nhẹ. Cả hai cùng im lặng đi bên
nhau. Thảo nghĩ, chắc chú Khải cũng nhận thấy hôm
nay thái độ kỳ cục của Thảo khác hẳn những lần
trước chăng? Giọng chú Khải nổi lên, nghe rất nhẹ,
ấm và theo sau là một tiếng thở dài nho nhỏ như ngập
ngừng.
-
Chú đang mơ, giá chú gặp được Thảo 20 năm về trước.
Thế rồi sau ngày ấy, chú
Khải đi biền biệt không về thăm gia đình Thảo nữa
và cũng từ ngày ấy, chú Khải đã để lại trong tim
Thảo một nỗi nhớ nhung khôn nguôi hình bóng một người...
…Ba năm sau, Thảo thi đậu
tú tài toàn phần và hình bóng của chú Khải cũng
đã phai lạt dần trong tâm trí Thảo. Thảo nay đã lớn
và trở thành một cô thiếu nữ trong lứa tuổi thanh
xuân, hồn nhiên, tự tin và yêu đời. Phần thưởng cho
Thảo, bố mẹ cho Thảo lên Đà Lạt nghỉ mát vài tháng
trước khi chuẩn bị đi du học bên Pháp và để bảo
đảm cho sự an toàn cho cô con gái rượu, bố mẹ đã
cẩn thận gởi nàng cho một gia đình người bạn thân,
bác Bính, trước khi trở về Saigon và không quên dặn
dò trăm chuyện.
Nhưng việc ấy không làm
cho Thảo bực bội vì trong tâm trí nàng đang tràn nhập
niềm vui. Phải, không vui sao được, bắt đầu từ hôm
nay, mình được tự do. Thảo có cảm giác như mình "người
lớn" hẳn lên nhất là được tự quyết định vài
chuyện mà không phải giải thích dài dòng với mẹ, chỉ
nghĩ như thế cũng đủ làm cho Thảo cảm thấy sung sướng,
chẳng khác gì đây là cơ hội giúp nàng vượt qua khỏi
"Khung cửa hẹp" của cuộc đời mình. Ngày hôm sau, nàng
mặc áo khoác mầu hồng nhạt và quàng thêm chiếc khăn
quàng mầu xám lên cổ, rồi sách bóp tung tăng ra phố.
Mặc dù đã bao năm rời
xa thành phố sương mù nhưng Thảo vẫn nhớ như in những
con đường dốc thoai thoải trơn trượt, những bậc thang
bằng đá từ thung lũng lên con đường chính. Thảo thả
bộ từ Café Thủy Tạ Hồ Xuân Hương lên khu Hoà Bình, từ
chợ Hoà Bình đi băng qua sân Cù (hay Đồi Cù) hướng về
trường Lycée Yersin là nhà thờ chính tòa Ðà Lạt, Thánh Nicolas
Bari. Giáo đường này còn được gọi là nhà thờ Con Gà vì
trên đỉnh tháp chuông có hình con gà, đây là nhà thờ lớn
nhất Đà Lạt do Giám mục địa phương quản nhiệm và cũng
là một trong những công trình kiến trúc đẹp, trang nhiêm
tiêu biểu và cổ xưa nhất của Ðà Lạt do người Pháp để
lại. Ðồi Cù, nằm giữa trung tâm thành phố Đà Lạt bên
cạnh Hồ Xuân Hương, Đồi Cù và Hồ Xuân Hương được xem
là những biểu tượng không thể thiếu khi nhắc đến Đà
Lạt. Đồi Cù Đà Lạt dưới thời toàn quyền Paul Doumer vẫn
còn rất hoang sơ và chưa có một công trình nào thực sự
phát triển cho đến khi dưới thời toàn quyền Jean Decoux,
khi một kiến trúc sư người Pháp Lagisquet đã thiết kế
biến Đồi Cù thành một thắng cảnh, một địa danh, một
vẻ đẹp đặc trưng của thành phố Đà Lạt, nơi đã đem
lại cho những khách thưởng ngoạn một thành phố Đà Lạt
thơ mộng, một phong cảnh hữu tình và một thiên nhiên
thoáng mát.
Thảo đi băng qua thảm cỏ
xanh ngắt của Ðồi Cù, rồi dừng chân lại nghỉ mệt
dưới hàng thông cao vun vút, đưa mắt ngắn nhìn dẫy
núi xa ra, nàng nghĩ, "Thật là một phong cảnh hữu
tình". Song Thảo ngả hẳn người xuống thảm cỏ xanh
mầu lá mạ và êm như nhung, nàng nhằm mắt lại để
tận hưởng những giây phút an bình trong tâm hồn.
Những vệt nắng ấm len lỏi qua những khe hở của nhánh
thông, nhảy múa, đùa vui trên da thịt Thảo. Thỉnh thoảng,
những cơn gió nhè nhẹ mát rượi thổi ngang qua mang theo
mùi thơm của lá thông và mùi hăng hăng của cỏ khiến
Thảo cảm thấy khoan khoái dễ chịu.
Ðồi Cù
(Sân Cù)
Rồi Thảo miên man nghĩ: "A
mình còn phải ghé nhà thờ Thánh Nicolas Bari, thăm thác
Cam-Ly hay ra bờ Hồ Xuân Hương hóng gió, nhâm nhi ly trà
chanh đường hay ly chocola nóng ở café Thủy Tạ thì còn
gì thơ mộng hơn nữa chứ. Nhưng việc đầu tiên là
phải tản bộ ra khu chợ Hòa Bình, phải hối lộ cái
bao tử rỗng này trước cái đã, phải kêu một tô phở
xe lửa, tái, nạm, gầu, gân, sách với một đĩa rau
butter salad khổng lồ cho đã thèm mới được. Nghĩ
đến đây, Thảo tủm tỉm cười một mình, hình như chỉ
có Đà Lạt mới có món phở kỳ lạ và chỉ có dân
Ðà Lạt mới ăn phở theo kiểu lạ đời thế này thôi,
nhưng chẳng sao. Thảo cảm thấy nón này ngon đáo để,
không rõ vì nó lạ miệng hay vì cái không khí lành
lạnh của Đà Lạt khiến người ta mau đói, nên không
ai quan tâm cho mấy về cái ngon của nó? Cả ngày hôm
ấy, Thảo đi loanh quanh trong chợ, ngó cái này rồi nhìn
cái kia, cái gì cũng trông rất lạ mắt. Nàng mua một
vài thứ cần thiết rồi quay về nhà bác Bính trước
khi trời tối.
Sáng hôm sau là ngày cuối
tuần, Thảo đã chuẩn bị sẵn sàng để đi lễ ngày
Chủ Nhật. Quần áo chỉnh tề, nàng bước ra sân trước
của nhà bác Bính, đưa mắt nhìn qua bên kia đồi, dưới
chân đồi là nhà thờ Thánh Nicolas Bari. Thảo nhìn
xuống thung lũng trước mặt, nàng nghĩ.
- Mình sẽ đi ngõ tắt cho gần vì chỉ cần vượt qua
cái thung lũng này là đến ngay".
- Có phải Thảo định vượt qua cái thung lũng này để
đến nhà thờ cho gần không?
Thảo giật mình quay lại,
gã thanh niên đang đứng đối diện với nàng mà nàng
chưa gặp bao giờ. Thảo chưa kịp hỏi xem hắn là ai
thì hắn đã nhanh nhẩu giới thiệu.
- Oh, Vĩnh xin lỗi làm Thảo giật mình, Vĩnh là
cháu nội của ông bà Bính. Bà nội có kể cho
Vĩnh nghe về Thảo. Ba mẹ Vĩnh sống ở Saigon, Vĩnh
ở lại đây với ông bà nội.
Vĩnh chỉ khoảng tuổi Thảo
với dáng dấp thư sinh, đeo kính cận đầy cộm, người
dong dỏng cao, khá đẹp trai. Và trời ơi, con trai gì mà
nước da trắng bóc, hai má đỏ au như con gái, đúng là
người Ðà Lạt có khác. Thảo mỉm cười gật đầu.
- Ðúng rồi, mình băng qua thung lũng này có được
không Vĩnh?
Vĩnh đưa mắt nhìn Thảo
từ đầu đến chân rồi cười thành tiếng.
- Ðược chứ, nhưng chắc Thảo phải vào thay quần tây
và mang giầy tennis.
- Không sao, Vĩnh đợi Thảo chút nhé.
Vĩnh không trả lời, anh gật
đầu rồi thong thả ngồi xuống cái băng đá dưới
giàn hoa tigo tím chờ Thảo. Vài phút sau, Thảo bước
ra trong bộ quần áo mầu vàng nhạt điểm những nụ
hoa nhỏ li ti mầu hồng, tóc cột đuôi gà cao, sandal cũng
màu vàng nhạt, trông nàng tươi mát và trẻ trung như con
búp bê biết đi. Vĩnh nói như reo lên.
-
Trời ơi, Thảo xinh quá.
Thảo không trả lời, nàng
nheo mắt nhìn Vĩnh.
-
Thôi ta đi kẻo trễ.
Hai người cùng sánh bước
bên nhau, đi dần xuống thung lũng. Đến đoạn đường
có những cây lau dại mọc cao ngang eo, Vĩnh bước đi trước
gạt đám lau dại sang hai bên để mở đường cho Thảo,
thỉnh thoảng anh quay lại để chờ Thảo.
-
Thảo có mệt không?
Thảo trả lời ra vẻ không
sao cho oai nhưng thực sự nàng đã mệt phờ cả người,
nàng đưa tay lau những giọt mồ hôi đang chảy dài xuống
hai bên má, miệng lẩm bẩm, "Biết vậy thà đi trong
phố có hơn không, đúng là anh hùng nửa mùa, người
Saigon có bao giờ "băng rừng lội suối" như thế này
đâu cơ chứ, cho chừa cái tật cà chua nhé". Cứ
đi được vài bước, Vĩnh lại quay lại để "check" cô
bạn mới xem ra sao rồi. Bỗng, Vĩnh nhận thấy mặt Thảo
xanh như tầu lá, anh hoảng hốt quay ngược lại, bế xốc
cô bạn lên tay đi thoăn thoắt lên đồi, đặt nhè nhẹ
Thảo xuống thảm cỏ xanh trước sân nhà thờ. Anh
móc túi, rút chiếc khăn mùi xoa trắng, rồi cẩn thận
chấm nhẹ những giọt mồ hôi trên trán Thảo, giọng anh
hơi run run, an ủi bạn.
-
Thảo nằm nghỉ một chút cho đỡ mệt, chắc tại Thảo
chưa quen leo đồi đấy thôi.
Thảo nằm yên hai mắt nhắm
nghiền, thỉnh thoảng nàng hé mắt nhìn khuôn mặt lo âu
của Vĩnh, nàng cảm thấy mến thương người bạn mới
quen và thấy lòng mình ấm lại.
Những ngày nghỉ hè ở
Ðà Lạt là những ngày hạnh phúc của đôi bạn trẻ.
Vĩnh cũng vừa thi xong tú tài phần II và chờ để
vào Saigon học trường Nông Lâm Súc nên ngày nào Vĩnh
cũng đưa Thảo đi chơi, họ tung tăng bên nhau như đôi chim
dove, nào thăm những thắng cảnh hữu tình, nào đồi
thông, Hồ Than Thở, Thác Prenn, Hồ Tuyền Lâm, Trúc Lâm
Tự, Thác Datanla, v.v...và cuối cùng là Thung Lũng Tình
Yêu, nơi mà Thảo và Vĩnh cùng đón nhận nụ hôn đầu.
Nảy mở một mối tình ngây thơ trong trắng.
Thung Lũng
Tình Yêu
Một buổi sáng cuối tuần,
Vĩnh rủ Thảo đi chèo thuyền ở Hồ Tây, nói là chèo
thuyền cho le chứ cái tướng "ròm" như Thảo thì chèo
với lái cái gì chứ, nhưng cứ nhận đại thì đã
sao nào. Thế là hai đứa bước ra cửa, nào thì cùng
đi. Thảo phá lên cười, tiếng cười đòn tan mang đầy
nhựa sống. Đến nơi, Vĩnh mướn một chiếc
thuyền nhỏ vừa đủ cho hai chỗ ngồi, rồi đứng né
sang một bên. Vĩnh trong điệu bộ trịnh trọng, cúi
rạp đầu xuống, một tay để trên ngực và tay kia đưa
thẳng ra phía trước về phía Thảo, giọng anh tinh nghịch.
-
Tại hạ xin mời Thảo Lan tiểu thư lên thuyền.
Thảo cũng không chịu thua,
với điệu bộ kênh kiệu, nàng trả lời.
-
Ðược, ta xuống ngay đây.
Thế là cả hai cùng phá
lên cười và bước xuống thuyền. Thảo ngồi ở đầu
mui thuyền đối diện với Vĩnh rồi đưa mắt nhìn lên
bầu trời trong vắt, xanh mầu xanh thăm thẳm chen lẫn những
đám mây trắng ánh vàng, tím, đỏ tạo nên một bức
tranh lập thể đẹp tuyệt vời, khiến Thảo buột miệng
reo lên, nàng chỉ tay về phía cuối chân trời.
-
Vĩnh nhìn xem, thật là một tuyệt tác phẩm.
Vĩnh đưa mắt nhìn theo tay
Thảo, anh nheo một bên mắt, nghiêng đầu ngắm người yêu,
mỉm cười, giọng chêu chọc.
-
Thảo còn đẹp hơn cả tuyệt tác phẩm ấy.
Thảo đưa cập mắt to tròn
mầu hạt dẻ, nguýt yêu Vĩnh.
-
Vĩnh chỉ khéo nịnh đầm.
-
Ơ hay, Vĩnh nói thật đấy.
Rồi hai cùng cười rộ
lên khiến con thuyền mất thăng bằng, chòng chành chao
đảo. Từng cơn gió thổi đến làm tung bay làn tóc mây
buông lơi ôm lấy bờ vai thon và mơn trớn trên môi trên
má Thảo, khuôn mặt nàng trong sáng như thiên thần khiến
Vĩnh ngẩn người, anh cho thuyền đậu lại giữa hồ
và ngưng tay chèo, rồi ngồi yên nhìn Thảo không chớp
mắt. Thảo như một nàng tiên hiền dịu bị trời đầy
xuống trần gian trong mắt anh. Thảo quay lại, nàng bắt
gặp đôi mắt Vĩnh thẫn thờ như đang bị ai thôi miên, nàng
mỉm cười nhìn Vĩnh, ánh mắt diễu cợt, giọng nửa
huế nữa nam.
-
Mắc mô chi mà Vĩnh nhìn em dữ rứa?
Vĩnh vẫn không nhúc nhích,
mắt anh không rời khuôn mặt xinh xắn của Thảo, Vĩnh cắt
tiếng hát nho nhỏ vừa đủ cho Thảo nghe, giọng anh trầm
ấm và đong đầy yêu thương.
…"Thương đôi mắt sao trời lung linh
Thương yêu ngón tay ngà xinh xinh
Thương yêu đáng vai gày thanh thanh
Thương yêu vòng tay ghì xiết ân tình
Thương yêu dáng em buồn vu vơ
Thương yêu nét môi cười ngây thơ
Thương yêu tóc buông lơi nhẹ nhàng
Thương em mong manh như một cành lan…"
Hồ Tây
(West lake)
Trời đã quá trưa, cả Vĩnh
lẫn Thảo cũng cảm thấy mệt phờ và bụng đói meo.
Vĩnh quay sang hỏi Thảo.
- Mình ghé tiệm cạnh Hồ Tây ăn bánh Tôm, Thảo
nhé.
- Dạ. Thảo trả lời.
Cạnh Hồ Tây là tiệm bánh
Tôm nên người ta gọi nó là Bánh Tôm Hồ Tây, một món
ăn nổi tiếng và đặc sản của miền Bắc mà mẹ Thảo
vẫn nhắc đến, mẹ thường khen, "bánh Tôm Cổ Ngư
ngon lắm con ạ và chẳng có nơi nào sánh bằng". Song,
bánh Tôm ở Hồ Tây Thảo chẳng thấy ngon tí nào, bánh
thì xũng dầu và chỉ toàn là bột, làm Thảo thất
vọng lắm. Khi họ ăn xong thì buổi chiều ập đến thật
nhanh, ở đây trời mau tối quá, mới có 5 giờ chiều
mà con đường trước mặt đã mờ hơi sương, Vĩnh ôm
sát Thảo vào người, nàng tựa như con mèo ướt nằm
gọn trong vòng tay anh, cái dù nhỏ quá không đủ lớn
để che được hết những hạt bụi mưa phùn đang nhẹ
rơi xuống tóc Thảo, lóng lánh như những hạt kim cương.
Thảo rùng mình, một cảm giác lâng lâng chạy khắp thân
thể làm nàng đỏ mặt, nàng bước xa Vĩnh ra một chút,
nhưng hình như Vĩnh không đọc được những gì Thảo
đang nghĩ, anh kéo Thảo vào gần mình hơn, nhẹ nói.
- Nép sát vào gần anh kẻo ướt hết Thảo ạ.
Thấy Thảo không trả lời,
anh nói tiếp.
- Mình ra bờ Hồ Xuân Hương chơi nhé, trời này
mà ngồi ở Café Thủy Tạ, uống "Café Réel" hay chocola
nóng hay trà lipton chanh đường nóng, rồi lắng nghe tiếng
nhạc Lê Uyên Phương hay Khánh Ly hoặc nhạc Christophe, Art Sullivan,
Lobo hay Beatles và ngắm mưa rơi thì nhất, thú vị lắm
Thảo ạ.
Vĩnh dìu Thảo vào trong quán
Café Thủy Tạ nổi trên mặt Hồ Xuân Hương, anh chọn một
cái bàn gần bên cửa sổ và gọi một ly café sữa
cho anh, một ly chocola nóng cho Thảo, ít bánh ngọt rồi
ngồi xuống bên cạnh Thảo, anh choàng tay ôm lấy bờ
vai Thảo và kéo lại gần. Thảo ngồi yên, đầu dựa
trên vai Vĩnh, nàng lơ đễnh đưa mắt nhìn ra ngoài qua
khung cửa kính. Buổi tối ở Hồ Xuân Hương vắng người
qua lại, cảnh vật chung quanh như in bóng xuống mặt hồ
phẳng lặng tạo nên một bức tranh thủy mạc tuyệt đẹp.
Gần bên cửa sổ, dưới gốc thông già, một cặp vợ
chồng thiên nga đang bơi lội bên nhau, theo sau là một đàn
6, 7 thiên nga con đang đùa dỡn, bơi lội, làm khuấy động
mặt hồ yên tĩnh, nàng ngước lên nhìn Vĩnh, Thảo nói.
-
Vĩnh trông kìa, một gia đình hạnh phúc.
Vĩnh nhìn theo chỉ tay của
Thảo, anh âu yếm nói rất nhỏ chỉ đủ cho nàng nghe.
-
Chúng ta sẽ cho nhau những ngày hạnh phúc như thế, Thảo
nhé.
Mùi café sữa bốc lên đưa
hương thơm ngào ngạt cả căn phòng, giọng cô ca sĩ nào
đó văng vẳng vang lên từ cái máy hát phía sau lưng,
bài "Ðêm nay ai đưa em về" của nhạc sĩ Nguyễn
Ánh 9 nghe buồn tê tái,"Thời gian ơi xin dừng lạ, thời
gian ơi xin dừng lại, cho đôi tình nhân yêu trong muộn nàng,
đừng khóc ly tan... ". Thảo chợt rùng mình như
muốn xua đuổi những cảnh chia ly, những điều mà nàng
sợ không dám nghĩ.
Vĩnh nắm bàn tay Thảo xiết
nhẹ, kéo Thảo về với hiện tại, anh xoay ngang người
và ôm trọn Thảo trong lòng mình, giọng như đang xúc động.
-
Thảo có nhớ bài thơ "Le Lac" của thi sĩ Alphonse de
Lamatine (1790-1869), "Xin thời gian đừng đi qua, xin dĩ vãng
hãy trở về" không?. (Oh temps ! suspends ton vol, et vous, heures
propices).
Thảo gật đầu, rồi cả
hai cùng cất tiếng đọc bài thơ bằng tiếng Pháp.
"Un soir, t'en souvient-il? nous
voguions en silence,
On entendait
au loin, sur l'onde et sous les cieux,
Que le bruit
des rameurs qui frappaient en cadence
Les flots
harmonieux."
(Hồ nhớ chăng một chiều êm ả
Ta với Nàng lặng lẽ rong chơi
Mênh mông những nước cùng trời
Chỉ nghe tiếng mái chèo bơi nhịp nhàng)
"Tout à coup, des accents inconnus
à la terre
Du rivage charmé
frappèrent les échos,
Le flot fut attentif,
et la voix qui m'est chère
Laissa tomber ces
mots"
(Rồi bổng nhiên tiếng Nàng xa lạ
Bến bờ lau vang dội âm thanh
Nghe như từ cỏi xa xăm.)
Ðến gần đoạn cuối của
bài thơ, Thảo ngước mắt lên nhìn Vĩnh, mắt nàng long
lanh ngấn lệ.
"Ô temps,
suspends ton vol! et vous, heures propices
Suspendez votre cours!
Laissez-nous savourer les rapides
délices
Des plus beaux de nos jours".
(Thời gian ơi! hãy ngừng ngay lại
Hãy ngừng bay, ngừng lại đi đi thôi!
Quên đi hạnh phúc chúng tôi
Xin cho tận hưởng cuộc đời thần tiên!)
Thảo dừng lại không đọc
thêm. Tiếng Thảo như nghẹn lại trong tim. Vâng, thời
gian xin dừng lại, cho Vĩnh và nàng được hưởng trọn
vẹn niềm hạnh phúc. Vĩnh chấm dứt đoạn cuối giọng
anh chùng hẳn xuống.
"Assez de malheureux ici-bas vous
implorent
Coulez, coulez pour eux
Prenez avec leurs jours les soins
qui les. dévorent;
Oubliez les heureux!"
(Ðời lắm kẻ đau thương, vô phúc
Hãy trôi nhanh, mang hết khổ đau!
Quên đi những kẻ yêu nhau
Cuộc đời say đắm, dạt dào tình thương!)
Ba tháng trôi qua như một
giấc mơ. Ngày cuối bên nhau, Vĩnh nắm tay Thảo đi trên
con đường vắng người qua lại, dưới hàng cây mimosa
vàng óng, họ vui cười tung tăng bên nhau như hai con bướm
trắng bay lượn trong khu vườn mùa xuân tươi thắm để
quên nghĩ đến sự chia ly. Trên cao, từng đàn chim
Robin đầy mầu sắc đang dừng lại nghỉ chân trên những
cành mimosa nở rộ, hót ríu rít líu lo, tạo thành những
khúc nhạc nhịp nhàng êm ái. Vĩnh ôm sát Thảo vào
lòng như chẳng muốn rời xa nàng, anh hôn nhẹ lên tóc,
lên má, lên môi Thảo, thì thầm bên tai người yêu.
- Mình chờ nhau Thảo nhé.
Thảo im lặng trong giây lát,
mắt nàng mờ lệ. Thảo ngẩng mặt lên nhìn Vĩnh, ánh
mắt trìu mền, khẽ gật đầu, nàng thầm nghĩ, Vĩnh
có biết chăng? trong tim Thảo đang thổn thức, một tình
yêu mồng nàn tha thiết.
Những ngày hạnh phúc qua
nhanh như một cơn gió thoảng cũng như cuộc chia ly nào
cũng đầy nước mắt. Thảo lên đường qua Pháp
và Vĩnh ở lại Saigon. Những hứa hẹn sẽ chờ đợi
nhau, những lá thư mầu xanh từ Saigon đến Paris đong đầy
yêu thương và nhung nhớ, đem nguồn vui bất tận đến
với Thảo trong những ngày cô đơn và những năm tháng
xa quê hương. Thảo đón nhận những lời ngọt ngào thương
yêu của Vĩnh trong thư như những viên thuốc thần dược
xoa dịu mọi ưu phiền trong Thảo. Những lá thư
đến đều đặn hầu như mỗi tuần, và có lẽ đây
là niềm hy vọng của tình yêu giữa Vĩnh và nàng, một
hứa hẹn của thủy chung. Thảo đợi từng ngày, chờ
thư của Vĩnh từng buổi. Thế rồi, bỗng dưng những
lá thư mầu xanh êm ái ấy không đến thường xuyên nữa,
thưa dần, thưa dần và tắt lịm. Thảo ngỡ ngàng đến
tê dại cả tâm hồn, tim nàng chìm đắm trong nỗi buồn
tưởng như bất tận.
…Ðịnh mệnh khắt khe và
vô tình cũng như những mối tình đầu thường không
toàn vẹn. Tháng Tư 1975 đã cắt đứt hoàn toàn tia hy
vọng cuối cùng của Thảo. Thảo sợ hãi đến kinh hoàng
và không biết cuộc đổi đời này sẽ đưa mình về
đâu, mọi tin tức và liên lạc nơi quê nhà đều dán
đoạn. Thảo biết rằng từ nay nàng sẽ phải tự đương
đầu với cuộc sống để có thể tồn tại nơi đất
khách quê người, nàng nằm vật xuống giường, hai hàng
nước tuôn trào trên má và thiếp đi trong cơn ác mộng.
Một năm trôi qua, thời gian
thật đúng là liều thuốc thần diệu xoa dịu vết
thương lòng, hình bóng Vĩnh cũng đã mờ dần theo thời
gian và trưởng thành sự suy nghĩ của một cô gái ngây
thơ trong trắng. Thảo trở thành một thiếu nữ cứng
cỏi, chính chắn hơn xưa. Vài tháng sau, Thảo được một
gia đình người Mỹ bạn của bố mẹ
nàng bảo lãnh sang Mỹ sinh sống, bắt đầu một
cuộc sống mới, hoàn toàn khác biệt so với lối sống
tại Pháp. Nhất là về phương diện suy nghĩ và
văn hóa, văn hóa Âu Châu vốn vẫn trọng "Tồn cổ
và phong kiến" trong khi văn hóa của người Mỹ lại
tương đối dễ thở khiến giới trẻ có thể tiếp
nhận một cách nồng nhiệt và tích cực hơn. Người
Mỹ yêu tự do, chuộng cuộc sống tự lập và tôn trọng
quyền tự quyết cá nhân. Thảo cũng như những người
trẻ khác, nàng dễ dàng hòa mình trong cuộc sống mới
với lối sống phóng khoáng và giản dị. Nàng như
con chim sổ lồng và thoát ra ngoài "Khung cửa hẹp"
chẳng khác gì anh chàng Jérome của nàng Alissa trong tác
phẩm "La Porte Etroite" (Khung cửa hẹp) của đại
văn hào André Gide. Thảo bắt đầu một cuộc
sống tự lập và giao thiệp rộng rãi hơn, nhưng không
có nghĩa là Thảo sống buông thả.
Hai mươi năm sau, Thảo về
lại Đà Lạt, nàng lần bước theo lối cũ trở về
căn nhà xưa với nhiều kỷ niệm của mối tình đầu
và nhất là mơ ước tìm lại hình bóng Vĩnh. Vẫn
con đường với những bậc thang bằng đá hoa cương dẫn
xuống nhà Bác Bính, cái cổng sơn vôi trắng vẫn còn
nguyên. Thảo đẩy cổng bước vào, giàn hoa tigo tím
đang nở rộ, cái ghế băng đá dài bằng ci-năng vẫn
kê ngang dưới giàn hoa tím. Thảo liếc mắt nhìn quanh,
không một bóng người, mọi vật đều chìm trong yên
tĩnh, Thảo thầm nghĩ chắc Bác Bính đi vắng. Thảo
bước sâu vào trong vườn, đứng sát vào hàng rào của
sân trước đưa mắt nhìn qua bên kia đồi, nàng không thấy
có gì thay đổi. Thảo liếc mắt nhìn xuống thung lũng,
những kỷ niệm êm ái bỗng trở về trong ký ức, thật
mãnh liệt, Thảo cảm thấy mình đang bị xúc động với
cái dĩ vãng năm xưa dồn dập trở về.
-
Thưa, cô muốn tìm ông bà Bính?
Thảo giật mình quay lại,
một người đàn ông khoảng ngoài 50, tóc hoa râm, dáng
dong dỏng cao, da xạm đen xạm vì cháy nắng. Thảo lắp
bắp.
-
Dạ, thưa Bác có ông bà Bính ở nhà không ạ?
-
À, ông bà Bính đi vắng.
Giọng Thảo trở nên ngập
ngừng.
-
Vậy, thưa Bác có anh Vĩnh ở nhà không ạ?
Bỗng, người đàn ông lùi
lại phía sau vài bước, ông ta nhìn Thảo một lúc trong
ngỡ ngàng, rồi để một bàn tay lên ngực, giọng nói
hơi có vẻ ngạc nhiên.
- Vĩnh đây.
Thảo mở tròn mắt nhìn
Vĩnh, nàng từ sững sờ đến xót xa, ngày rời xa Vĩnh
20 năm về trước, hình ảnh của một thư sinh vẫn còn
nguyên vẹn trong ký ức nàng. Thảo cảm thấy tim mình
thắt lại, nàng tiến lại gần bên Vĩnh, nắm lấy hai
bàn tay chai cứng của anh, giọng nàng như nghẹn lại nơi
cổ họng.
-
Thảo đây, Vĩnh không nhận ra sao?
Vĩnh rút tay lại vội vàng
như để che dấu sự thay đổi nơi thể xác mình, giọng
anh hơi run run.
-
Thảo thay đổi nhiều lắm, Vĩnh không nhận ra.
Ngay lúc ấy, một cô bé
gái khoảng 6 hay 7 tuổi chạy ra đứng giấu mặt sau lưng
Vĩnh. Vĩnh nhìn Thảo cười. Anh nói.
-
Ðây là bé Thảo Lan. Con gái Vĩnh.
-
Thảo Lan?
Vĩnh gật đầu, anh nheo một
bên mắt, giọng vẫn tinh nghịch như ngày nào.
-
Vĩnh lấy tên của Thảo để đặt cho con…hìhì...cho
đỡ nhớ nhung.
-
Vậy, chị đâu? Vĩnh cho Thảo được gặp chị nghe.
-
Thu Hà đã mất cách đây bốn năm khi bé Thảo Lan mới
lên hai tuổi.
Thảo nhìn Vĩnh trong im lặng.
Có lẽ Vĩnh đã gặp nhiều gian khổ trong cuộc sống,
nàng cảm thấy thương Vĩnh bội phần và quên hỏi vì
sao Vĩnh rời xa nàng.
Mấy ngày Thảo còn ở lại
Đà Lạt, Vĩnh xin nghỉ làm và anh dành hết thời gian
cho Thảo. Họ trở lại những nơi mà hai đứa đã
để lại nhiều kỷ niệm, buồn ít hơn vui của 20 năm
về trước. Phong cảnh vẫn như xưa, có khác chăng
là bức tường vô hình đang ngăn cách giữa Thảo và
Vĩnh. Thảo cảm thấy hình như tim nàng đang bị giằng
xé bởi hai mối tình, yêu chồng và yêu Vĩnh, cái ý
tưởng ngoại tình trong tư tưởng khiến Thảo rùng mình
sợ hãi. Vĩnh chắc cũng chẳng khác hơn Thảo là
mấy, có lẽ anh cũng đang bị mối tình thơ dại dần
vật không kém. Đã bao lần Thảo thấy Vĩnh định
đưa tay quàng qua vai Thảo, nhưng lại vội vã rút tay lại
và ngay chính Thảo, có những lúc nàng muốn nhắm mắt
để phó mặc cho định mệnh đưa trái tim mình đi tìm
lại thời gian đã mất.
Một hôm, Vĩnh đưa Thảo
trở lại con đường ngập hoa mimosa thuở nào, Vĩnh bỗng
dưng đứng lại nhìn Thảo với ánh mắt năm xưa, anh đưa
tay vén mấy sợi tóc mai trên má Thảo, khẽ nói.
- Em có muốn trở lại
thăm Thung Lũng Tình Yêu hôm nay không?
- Vâng.
Làm sao Thảo quên được
Thung lũng tình yêu, nơi mà Thảo và Vĩnh đã trao cho nhau
nụ hôn đầu đời. Có lẽ cả Vĩnh lẫn Thảo đều
muốn tìm lại cái giây phút êm đềm ấy. Hôm nay là
ngày thường nên Thung lũng tình yêu không đông người
cho lắm, Thảo cảm thấy ngỡ ngàng vì phong cảnh ở đây
đã thay đổi nhiều làm mất đi vẻ thơ mộng của lúc
trước. Vĩnh và Thảo vừa đi vừa nói chuyện
về cuộc đời của mình sau ngày miền nam Việt Nam thất
thủ. Vĩnh kể cho Thảo nghe về cuộc sống của
anh sau ngày ra tù cải tạo, gặp Thu Hà và mất Thu Hà.
Thảo kế cho Vĩnh nghe những gì đã xẩy ra cho cuộc
đời nàng, Vĩnh chăm chú nghe, anh cắt ngang lời Thảo.
- Thảo có hạnh phúc không?
Thảo gật đầu, nàng đưa
mắt nhìn vào khoảng không trước mặt, trả lời Vĩnh:
- Trong tình yêu không có sự so sánh Vĩnh ạ.
Thảo yêu Vĩnh, một mối tình thơ dại, tinh khiết và
êm ái như một cơn mộng đẹp của con tim lần đầu biết
rung động. Còn với Tuấn, Thảo yêu Tuấn, một
mối tình thủy chung, đam mê, say đắm, vị tha của một
con tim đã nếm vị ngọt của được yêu và vị đắng
khi mất tình yêu.
- Thảo đang trách Vĩnh?
- Không Vĩnh ạ, em chỉ trách định mệnh quá khắt
khe với chúng mình.
Vĩnh dẫn Thảo đi về phía
dòng sông, gió thổi khá mạnh đưa những làn gió mát
dịu và thoảng thoảng mùi hoa ngọc Lan. Vĩnh đưa tay cho
Thảo vịn để bước xuống con đường dốc dẫn đến
một dòng sông nhỏ, hai người dừng lại dưới một
gốc thông già và đứng dựa lưng vào thân cây nhìn
ra dòng sông. Cả hai cùng yên lặng, có lẽ cả hai
cùng đang đeo đuổi một điều gì? Xa xa những con thuyền
đang chuyển mình rời bên đậu, trông giống như đàn
chim biển đang chuẩn bị cất cánh bay. Tiếng Vĩnh
hỏi kéo Thảo về hiện tại.
- Thời gian đã mất có tìm lại được không hở
Thảo?
Thảo nhìn Vĩnh, nhắc lại
câu hỏi của anh.
- Có được không hở Vĩnh?
Vĩnh ngồi xuống, dựa đầu
vào cây thông và nhằm mắt lại. Thảo nhìn Vĩnh,
niềm cảm xúc dâng cao và nàng cảm tưởng như ai đang
bóp nát tim mình. Tình yêu cho Vĩnh như đang đốt
cháy tâm tư, nàng đến gần ngồi xuống bên cạnh Vĩnh
và dựa đầu vào vai anh, nhắm mắt lại. Giọng hát Vĩnh
vang lên, nghẹn ngào như tiếng khóc.
Yêu em như thuở nào
Tình yêu còn biên đầy
trang giấy
Yêu em như thuở nào
Tình yêu còn đong đầy
trang sách.
Dù biết trái tim đã già
Mà những thiết tha chẳng
nhòa
Tình cũ vẫn nghe ấm nồng
Gọi tên nhau lúc cô đơn
Để nghe sưởi ấm tâm
hồn.
Em ơi đây tiếng đàn,
Lời ca dệt ân tình năm
tháng
Câu ca hay khúc nhạc
Tình yêu còn đong đầy
khao khát.
Dù có cách xa mỏi mòn
Mà những dấu yêu mãi còn
Sưởi ấm xác thân héo
gầy
Tình yêu như gió đem mây
Gọi mưa giăng kín khung
trời.
Này em hỡi, ta mơ ngày sẽ
tới
Khi tương phùng, em khóc
cho niềm vui vì hạnh phúc.
Ngọt hay đắng, trong cuộc
đời mưa nắng
Ta luôn cười trong giấc
mơ hạnh phúc xưa tuyệt vời
Riêng ta nơi núi rừng
Về đêm càng nghe hồn băng
giá
Câu ca hay khúc nhạc
Càng thêm sầu cho tình tan
nát.
Dù biết cách xa với đời
Dù biết thủy chung chẳng
rời
Mà vẫn xót xa tháng ngày
Chờ ta chi nữa em ơi
Còn đâu giây phút tuyệt
vời.
Trước khi trở về Mỹ,
Thảo hẹn gặp lại Vĩnh tại Café Thủy Tạ, vừa bước
vào quán, Thảo đã nhìn thấy Vĩnh ngồi ở cái bàn
ngay cửa sổ, nơi mà ngày xưa hai đứa vẫn ngồi bên
nhau. Bao kỷ niệm của những ngày xa xưa dường như
đang sống lại, có khác chăng là giờ đây Thảo và Vĩnh
đã rẽ ra hai ngã với hai cuộc đời riêng biệt.
Thảo đã có chồng và sống trong hạnh phúc; mặc dù,
mối tình xa xưa vẫn chưa phai lạt trong tim. Một mối
tình đầu thơ dại.
Café Thủy
Tạ Hồ Xuân Hương
Ngồi đối diện với Vĩnh
và vẫn như thường lệ, Vĩnh gọi một ly café sữa
cho Thảo và một ly café đen cho anh. Vĩnh đặt ly café
sữa xuống trước mặt Thảo, giọng giễu cợt.
- Thảo tập uống café
từ bao giờ thế?
Thảo nửa đùa nửa
thật.
- Từ ngày Vĩnh quên
bỏ Thảo trong tim anh.
- Ơ hay, ai bảo với Thảo
là Vĩnh quên Thảo đấy?
Thảo nhìn Vĩnh với đôi
mắt buồn vời vợi, giọng nàng như muốn khóc.
- Sao Vĩnh ngưng viết
thư cho Thảo? Vĩnh có biết là Thảo đau khổ đến
thế nào không?
Vĩnh không trả lời Thảo
ngay, anh ngồi dựa ra sau ghế và nhìn Thảo rất lâu.
Thảo thay đổi khá nhiều, chững chạc, lịch thiệp và
đẹp hơn xưa, tiếng cười vẫn trong và dòn tan như pha
lê, khuôn mặt trái soan thanh tú, xinh xắn với cái mũi
cao thon gọn, đôi mắt long lanh như biết cười ngày trước
nay phản phất thoáng buồn, làn môi đỏ nọng, hàm răng
đều đặn trắng như ngà khiến nụ cười thêm phần
khuyến rũ và thu hút người đối diện. Cả con người
Thảo toát ra một nét đẹp thanh cao, tươi mát và dịu
dàng. Trái ngược hẳn với Vĩnh, 20 năm gian khổ
đã khiến anh trở nên già trước tuổi. Bỗng,
Vĩnh ngồi bật dậy nghiêng hẳn ra phía trước, nhìn
thẳng vào mắt Thảo.
- Thảo muốn biết thật
à?
Thảo gật đầu. Uống
thêm một hớp café, với giọng trầm buồn, Vĩnh bắt
đầu kể về cuộc đời mình.
Thảo ạ, cuộc đời thường
không đơn giản như mình nghĩ và ước mơ chỉ là mơ
ước thôi. Vĩnh thi rớt năm thứ hai và trình diện
nhập ngũ vào Thủ Đức. Sau những tháng huấn luyện
ở quân trường, Vĩnh theo đơn vị tác chiến và đóng
ở Quảng Trị, nơi có những cuộc giao đấu rất ác
liệt. Thảo đi rồi thì đâu biết rõ về đời
sống của một người lính trận, cực, khổ, đói,
nhọc, không thiếu một thứ gì. Chiến tranh đã
biến con người trở nên chai đá, mất cả miền tin và
cảm xúc. Sống chết chỉ cách nhau một gang tay
thì Thảo nghĩ xem còn thì giờ đâu mà mơ mộng hay viết
thư cho ai. Cái hy vọng trở về gặp lại người yêu
chỉ là sự ao ước mà thôi. Có những lúc Vĩnh
nhớ Thảo như điên dại, nhưng phải cố tìm quên thì
mới có tâm trí mà đánh giặc. Những bữa phải
gác đêm hay những ngày đụng độ với địch, không ngủ,
hình ảnh Thảo là nguồn an ủi duy nhất của Vĩnh và
là niềm hy vọng cho ngày trở về. Khi miền nam Việt
Nam thất thủ, Vĩnh giữ lon Chuẩn Úy và đi tù cải
tạo 2 năm 11 tháng 30 ngày. Thế mới đau, Vĩnh không
đủ tiêu chuẩn ba năm tù cải tạo nên không được đi
chương trình HO. Vĩnh ở lại Việt Nam rồi trở
về Đà Lạt, làm đủ mọi nghề, song lấy Thu Hà, ba
năm sau Hà mất. Thảo ơi, có những lúc nản và chán
đời quá, Vĩnh muốn kết liễu đời mình đi cho xong,
nhưng lại nghĩ đến Thảo Lan và mỗi lần gọi tên con,
Vĩnh nhớ Thảo vô cùng và cảm thấy lòng mình ấm
lại.
Vĩnh kể xong cuộc đời
anh thì hai con mắt của Thảo cũng xưng to tướng và cái
mũi thì cũng đỏ như trái cà chua vì khóc cho số phận
quá lận đận của người yêu cũ. Bao giận hờn đều
tan biến, Thảo càng lúc càng thấy thương cho Vĩnh, định
mệnh thật sự quá cay nghiệt và khắt khe với anh. Vĩnh
ngồi yên nhìn Thảo, tình yêu thuở ban đầu trở về
như vũ bão và đang nghiền nát trái tim anh, anh mơ ước
nếu mình có thể tìm lại được thời gian đã mất
và nếu định mệnh đừng quá éo le với anh và Thảo,
thì có lẽ anh và Thảo đã có những ngày hạnh phúc
bên nhau. Vĩnh nhắp một hớp café rồi hỏi Thảo.
- Thời gian đã
mất có tìm lại được không hở Thảo?
Thảo lắc đầu buồn bã,
nàng hỏi lại Vĩnh.
- Tìm lại được
không hở Vĩnh?
Vĩnh không trả lời, Thảo
lại hỏi:
- Vĩnh có còn nhớ
tác phẩm để đời của đại văn hào Marcel Proust, À
la recherche du temps perdu (Ði tìm thời gian đã mất) không?
Vĩnh gật đầu, anh cất tiếng đọc một câu văn bất
hủ mà Marcel Proust đã viết trong sách, "Thật không may,
thật không may, dễ mất người yêu hơn là hoàn thành Tìm
kiếm thời gian đã mất."(It is, unfortunately, easier to lose
a lover than complete In Search of Lost Time).
Xong anh nhìn Thảo với đôi
mắt buồn vời vợi.
- Trễ quá rồi phải
không Thảo? Thôi mình hẹn nhau kiếp sau Thảo nhé.
Thảo không còn nén được
cơn xúc động, nàng ôm mặt khóc nức nở. Vĩnh bằng
hoàng trong tê tái, anh đến ngồi cạnh bên Thảo, ôm trọn
Thảo trong vòng tay, mặc cho con tim mình đang rướm máu.
"L'amour, c'est
l'espace et le temps rendus sensibles
au coeur"
(Yêu là tim thổn thức bất
kể không gian hay thời gian).
Ngoài kia, mưa đang rơi và
trong quán, tiếng hát của Thái Thanh vang lên như đang nức
nở.
"Kiếp nào có yêu nhau,
Thì xin hẹn đến mai sau
Hoa xanh khi chưa nở
Tình xanh khi chưa lo sợ
Bao giờ có yêu nhau
Thì xin gạt hết thương
đau
Anh đâu anh đâu rồi?
Anh đâu anh đâu rồi?
Ðừng nhìn nhau nữa anh
ơi
Xa nhau đã xa rồi, quên
nhau đã (đã) quên rồi
Còn nhìn chi, còn nhìn chi
nữa anh ơi
Nước mắt đã buông rơi
theo tiếng hát qua đời
Ðừng nhìn nhau nữa... anh
ơi!
Khánh
Lan,