"Ai bảo chăn trâu là
khổ"?
"Ai bảo chăn trâu là khổ?
Không, chăn trâu sướng lắm chứ..." (Quốc văn giáo khoa
thư)
Với trẻ em thôn quê, có con
vật nào gần gũi, thân thiết hơn con trâu? Trước hết vì
cái thú cưỡi trâu. Bức tranh dân gian Chăn trâu thổi sáo
với chú bé vắt vẻo ngồi trên lưng trâu là hình ảnh đẹp
của thời thơ ấu, của làng quê thanh bình, yên vui.
Cưỡi trâu là một cái thú.
Có thể đi qua bụi gai. ruộng lầy, thậm chí qua sông. Nhưng
chủ yếu vì được chỉ huy một con vật to lớn gấp mình
hàng chục lần. Trẻ con đôi khi cũng cưỡi bò, nếu nhà không
nuôi trâu. Nhưng cưỡi bò không thú vị bằng, vì bò lưng
nhỏ lại trơn, dễ ngã, và nhất là bò hôi hám do không tắm.
Ngoài ra trâu còn hiền lành, "sáng dạ" hơn bò. (Người ta
nói Ngu như bò chứ có nói Ngu như trâu đâu). Nếu
cậu chủ bé quá, không leo được thẳng từ sườn trâu lên
lưng thì trèo từ phía đầu, có thể đứng lên cả hai sừng,
trâu sẽ nghển cổ để cậu dễ dàng tuồi người về phía
lưng. Trâu rất nhớ đường. Ði trong đêm tối, nếu người
không thuộc đường, cứ việc dong trâu đi trước. Trâu
dong bò dắt mà.
Nhưng sung sướng nhất là những
ngày chăn trâu tập trung. Bây giờ những bãi chăn thả có
thể tập trung vài chục trâu bò gần như không còn nữa, chứ
cách đây khoảng ba chục năm về trước, có rất nhiều bãi
chăn tự nhiên: những đồi hoang đủ loại lau cỏ, những
cánh đồng rạ sau khi gặt còn bỏ không hàng tháng, những
triền đê cao rộng mượt cỏ về mùa xuân,... Buổi trưa,
tan học về, trẻ con ăn cơm vội vàng rồi í ới gọi nhau
"đi trâu". Những con trâu đói meo đánh sừng lạch cạch vào
văng chuồng, hễ thấy bóng người là thò đầu ra, mắt như
giục giã van lơn nhanh nhanh cho chúng đi thôi. Vì đói quá,
hay vì sung sướng được tháo cũi sổ lồng mà nhiều con vừa
ra khỏi chuồng đã tế lên phía trước, làm cho nhiều đứa
trẻ phải lốc thốc chạy theo, hò hét khản cả giọng.
Dù thả đồng hay thả đồi,
lũ trẻ cứ việc "ngoã" trâu lại (quấn thừng vào cổ hoặc
sừng), bỏ đấy cho chúng tự do kiếm ăn. Trâu quen nhau, ăn
theo đàn, chỉ cần nhìn thấy một con là yên tâm. Lũ mục
đồng tha hồ bày đặt các trò vui: đi tắm, đi "ăn sim",
"ăn ong", ăn trộm hoa quả, chơi đánh trận giả (Ðinh Bộ
Lĩnh trước khi trở thành Ðinh Tiên Hoàng Đế đã từng
là một ông vua mục đồng trong trò chơi đánh trận giả này).
Mùa hè thú nhất là tắm - sông, suối, hồ, ao, ngòi, kênh,
mương - bất cứ chỗ nào có nước sâu cũng thành "bãi tắm"
được. Còn mùa đông thú nhất là đốt lửa, vừa sưởi
vừa nướng sắn, đôi khi cá tôm nữa. Mấy câu thơ của Ðồng
Ðức Bốn diễn tả thật sinh động cái cảnh ấy:
Chăn trâu đốt lửa trên
đồng
Rạ rơm thì ít, gió đông
thì nhiều
Mải mê đuổi một con diều
Củ khoai nướng để cả
chiều thành tro.
Tuy vậy chăn trâu cũng nhiều
khi thật khốn khổ. Ấy là chẳng may khi trâu lạc, cả nhà
bổ đi tìm. Lại có khi trâu phá lúa, rau màu, bị người ta
bắt giữ, phải về gọi bố mẹ đến xin rồi xơi một trận
mắng hay một trận đòn lằn mông. Rồi những ngày đông
mưa phùn rét thấu xương, củi lửa đâu mà đốt, áo thì
chỉ một hai manh, đứa nào đứa ấy run cầm cập, môi tím
thâm. Lũ trâu thì vừa đói vừa rét, vì đồi núi, ruộng
đồng trơ một màu xỉn đất, một đám cỏ cằn cũng khó
kiếm. Chúng lang thang cả ngày mà bụng vẫn lép kẹp. Có năm
rét quá, trâu bị sưng chân, quỵ giữa đồng, phải đem rơm
đến sưởi, may thì khỏi, nếu không thì phải thịt tại
chỗ, cả nhà ngậm ngùi.
"Con trâu là đầu cơ nghiệp"
Khoảng năm nghìn năm trước,
nhờ thuần hoá trâu rừng làm sức kéo, cha ông ta đã bước
từ đời sống hái lượm bấp bênh sang đời sống nông nghiệp
ổn định mà nghề chính là trồng lúa nước. Con trâu được
coi là "đầu cơ nghiệp", bởi vì "Đường cày bằng ngày cuốc",
sức trâu làm đất bằng hàng chục lần sức người. Bò cũng
dùng để cày bừa nhưng kém trâu nhiều, bởi vì bò không
quen dầm nước và sức lại yếu hơn trâu: Yếu trâu hơn
khoẻ bò, Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã
tranh về già; Trâu he cũng khoẻ bằng bò; Trâu ho bằng bò
rống; Trâu gầy cũng tầy bò bò khoẻ....
Một gia đình được coi là
sung túc phải có "ruộng sâu trâu nái". Mua trâu là một việc
lớn trong ba việc lớn của đời người, do đó, người ta
không gọi là "mua" nữa, mà gọi là "tậu": Tậu trâu, cưới
vợ làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn. Tậu trâu
đúng là một việc khó khăn, vì ngoài việc phải có một
"nố" tiền lớn, người mua phải thông thạo xem tướng trâu,
hiểu giá cả để khỏi bị lừa, bị hớ. Bởi những tay
buôn trâu thường là những tay lừa đảo ghê gớm. Thật
thà cũng thể lái trâu mà. Trong nghề buôn xưa, có lẽ
chỉ buôn trâu được "tôn xưng" là "lái" (buôn chè, buôn vải,
chứ không có lái chè, lái vải,… và ngày nay có thêm từ
lái
súng nhưng ít dùng).
Có ít nhất hai tiểu thuyết
nổi tiếng về con trâu, và cũng là về nông dân, nông thôn.
Hồi trước Cách mạng, nhà văn Trần Tiêu viết tiểu thuyết
Con
trâu, kể về nỗi khao khát có một con trâu cái của bác
nông dân tên là Chính. Bác Chính đi làm thuê, làm mướn, lao
tâm lao lực với một động cơ mãnh liệt là có đủ tiền
tậu một con trâu cái. Có một con trâu cái để sinh lợi là
có tất cả: tậu ruộng, mua nhà, để thoát khỏi đói nghèo;
mua "xã", mua "hương", để thoát khỏi thân phận "bạch đinh",
vì ở chốn quê đầy sự phân biệt ngôi thứ, đẳng cấp.
Bác lao vào làm thuê với tất cả niềm say mê cho mục đích
"lớn lao" đó, đến nỗi kiệt sức, phải kết thúc bằng
cái chết thảm thương.
Trong kháng Pháp lại có tiểu
thuyết Con trâu của Nguyễn Văn Bổng. Ta thấy cách giặc
phá ta thật thâm hiểm: sát hại trâu bò để phá hoại sản
xuất, làm cho cả quân dân đều đói thì không thể kháng
chiến dài lâu. Người nông dân khu V hồi ấy có lúc phải
"kéo bừa thay trâu" vô cùng vất vả. Cho nên vấn đề "con
trâu" trở thành mối quan tâm hàng đầu của tổ chức Ðảng
và lực lượng vũ trang địa phương. Người ta không chỉ
đào hầm cho người mà còn đào hầm cho cả trâu nữa.
Hồn quê Việt Nam
Con trâu không chỉ là công
cụ, là tài sản mà còn là người bạn đồng hành của người
nông dân. Trâu bầu bạn với dân cày, khi tươi vui cũng như
khi lầm than cực nhọc: Trên đồng cạn, dưới đồng sâu/
Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa; Lao xao gà gáy rạng ngày/
Vai vác cái cày, tay dắt con trâu (ca dao). Con trâu do đó
có khi được dùng để chỉ luôn nghề nông: Dù ai buôn bán
trăm nghề/ Không bằng đi về theo đít con trâu. Người với
trâu thân thiết đến mức thề ước sống chết có nhau: Cấy
cày vốn nghiệp nông gia/ Ta đây trâu đấy ai mà quản công/
Bao giờ cây lúa còn bông/ Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu
ăn. Với những đức tính và hạn chế có gì giống đó
với người nông dân, cho nên trong thành ngữ, tục ngữ, ca
dao, con vật này thường dùng làm ẩn dụ cho người nông dân
xưa: khoẻ mạnh, cần mẫn, hiền lành nhưng cũng cam chịu:
Khoẻ
như trâu, Làm như trâu, Thân trâu ngựa, Trâu cày ngựa cưỡi.
Ngoài ra, trâu được dùng làm "văn liệu" để thể hiện những
quan niệm nhân sinh, những quan hệ xã hội khác nhau: Trâu
chết để da, người ta chết để tiếng, Trâu chậm uống
nước đục, Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy, Trâu ta ăn
cỏ đồng ta Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã (Trâu bạn với
trâu, ngựa bạn với ngựa), Trâu kén cỏ trâu gầy, trò
kén thầy trò dốt, Trâu lành không ai mừng cả, trâu ngã lắm
kẻ cầm dao, Trâu buộc ghét trâu ăn, Trâu khát chẳng phải
đè sừng, Trâu mộng húc nhau nát đồng cỏ cằn, Trâu không
có, bắt chó đi cày, Trâu trao chạc, bạc trao tay,…
Còn nhớ khi chuẩn bị cho Đại
hội Thể thao Ðông Nam Á (Sea Games) thứ 22 - Ðại hội lần
đầu tiên tổ chức tại Việt Nam, giới học thuật tranh luận
mãi về việc chọn biểu tượng nào: con rồng? chú tễu? con
trâu,.. cuối cùng thì con trâu đã "thắng". Con trâu vừa biểu
tượng cho Việt Nam, vừa vẫn rất gần gũi với khu vực Đông
Nam Á - quê hương của cây lúa nước, cũng là khu vực trồng
lúa nước lớn nhất hành tinh hiện nay.
Ở một số nơi trên đất
nước ta có tục chọi trâu. Trâu là hình ảnh của sức mạnh,
của tinh thần thượng võ. Những con trâu chọi, người ta
kiêng gọi là "con trâu" mà gọi trân trọng là "ông trâu" hoặc
"trâu". Ví dụ nói "dự giải năm nay có 32 trâu", giống như
nói "32 người" vậy. Sự tôn trọng loài trâu đã biến đổi
cả quy tắc ngữ pháp!
Máy móc thay dần sức trâu,
sức người. Ðó là một điều đáng mừng. Nhưng bên cạnh
cái được vẫn có cái mất. Bãi chăn thả hết dần, bờ
ruộng bé teo, có khi chẳng đủ bàn chân người đi, nói gì
có cỏ cho trâu. Trâu được nuôi tại chuồng bằng cỏ voi,
bằng cám tổng hợp, sung sướng hay nhàm chán tù túng,
cô đơn? Người viết bài này đã từng một thuở chăn
trâu, nay nghĩ đến người bạn ruộng đồng năm xưa thật
không khỏi ngậm ngùi.
(ÐTT)
.............................................
Ảnh: Tranh thủ các dự án
còn bỏ không, một số nông dân ở Hà Nội đã nuôi
trâu đàn.
|