Tham
luận trong hội thảo khoa học "Việc bảo tồn di sản âm
nhạc cổ truyền của các dân tộc thiểu số ở Trung bộ
và Tây Nguyên, chính sách và thực tiễn", thuộc Chương
trình KHCN cấp Quốc gia giai đoạn 2016-2020: "Những giải
pháp cấp bách nhằm bảo tồn và phát huy giá trị các di sản
âm nhạc cổ truyền của các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam".
***
Từ ngày Không gian cồng chiêng
Tây Nguyên được UNESCO công nhận là kiệt tác di sản văn
hóa phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại, phong trào
học tập và biểu diễn cồng chiêng ngày càng trở nên sôi
nổi và lan tỏa sâu rộng hơn, góp phần làm phong phú thêm
đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên...
Tuy nhiên, thực trạng cồng
chiêng Tây Nguyên cũng gần giống như các loại hình nghệ
thuật dân tộc khác đều bị tác động của mặt trái cơ
chế thị trường, cũng bị ảnh hưởng của xu hướng thương
mại hóa nghệ thuật. Phong trào "cải biên, cải tiến" cồng
chiêng làm mất bản sắc Tây Nguyên; Hiện tượng "chảy máu
cồng chiêng" tức là việc mua bán cồng chiêng diễn ra khá
phức tạp ở Tây Nguyên, cho thấy có một số buôn làng vốn
lưu giữ cồng chiêng có giá trị nay đã vơi dần; Việc sản
xuất, du nhập loại cồng chiêng kém chất lượng cũng xuất
hiện, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến giá trị đích
thực của những cồng chiêng cổ đã định hình.
Cùng với thực trạng, hiện
tượng trên, phong trào lễ hội cồng chiêng hoặc biểu diễn
cồng chiêng mang tính chất pha tạp, lắp ghép với các thể
loại âm nhạc đương đại nhằm "hiện đại hóa" lễ hội
Cồng chiêng... cũng là một điều đáng lo ngại. Một số
nơi đã chỉnh lại thang âm của cồng chiêng để chơi nhạc
mới. Có thể tạo cái mới cho cồng chiêng bằng cách đưa
cồng chiêng vào các liên hoan, trình diễn ngoài nghi thức cổ
truyền, nhưng không thể "cải tiến" mà đánh mất đi giá
trị nguyên thủy, giá trị gốc của cồng chiêng. Vì, khi các
nghi lễ được trình diễn dưới dạng sân khấu mang yếu
tố "hiện đại hóa", thì tính huyền ảo sẽ mất đi.
Theo khuyến cáo của UNESCO là
giáo dục cồng chiêng theo đúng phong cách nguyên bản của
nó không được nhân danh "cải biên, cải tiến" làm mất bản
sắc, mất yếu tố đặc trương vốn có của cồng chiêng
Việt Nam; nên trả cồng chiêng về không gian, môi trường
đích thực của nó, vì không ai hiểu giá trị, tính năng của
cồng chiêng và sử dụng (biểu diễn) cồng chiêng Tây Nguyên
bằng chính bản thân người sáng tạo ra nó, là những người
bảo vệ cái thần thái, hồn cốt của nó qua hàng trăm năm
sáng tạo. Dù cồng chiêng vật thể, được sản xuất, chế
tác, làm ra ở tại nhiều địa phương khác nhau, kể cả nước
Lào, nhưng người tạo thành thanh âm độc đáo, người thổi
hồn vào từng chiếc chiêng lại là người Tây Nguyên. Đó
là đôi tai kỳ diệu của những nghệ nhân có trách nhiệm
xác định cao độ chuẩn cho hàng âm dàn chiêng, cũng như xác
định độ chênh sai về âm thanh của từng chiếc chiêng và
kỹ năng chỉnh chiêng cho đúng tiếng để nó không trở thành
chiêng
chết. Chỉ với một chiếc búa nhỏ mà có thể điều
chỉnh âm chiêng lên cao hay xuống thấp một cách chính xác.
Các nhà nghiên cứu thường gọi đùa họ là người lên
dây chiêng.
Cồng chiêng và nghệ thuật
diễn tấu cồng chiêng tồn tại trong không gian văn hóa của
nó, cũng chính là phương thức, đặc tính tổng thể nguyên
hợp của loại hình văn hóa dân gian. Nói một cách khác, cồng
chiêng chỉ được bộc lộ đầy đủ trong các lễ hội truyền
thống của cộng đồng tộc người.
Tiếng nói của chiêng được
các tộc người Tây Nguyên sáng tạo thành nhiều bài chiêng
khác nhau. Trong trình thức lễ, mỗi loại dàn chiêng ứng với
của cuộc lễ, mỗi bài chiêng ứng với một lễ thức. Trong
lễ đâm trâu tạ thần người Ba-na sử dụng dàn chiêng
Hoh gồm 11 chiếc cồng núm và chiêng phẳng; trong lễ bỏ
mả người Gia-rai sử dụng dàn chiêng Arap (cing arap)
gồm 16 chiếc: 9 cồng, 7 chiêng (trong đó cồng, có núm là
bộ đệm, chiêng, không núm là bộ giai điệu)... cũng như
các bài chiêng khác nhau đánh trong các lễ bỏ mả, lễ
cúng
bến nước, lễ thổi tai, lễ làm nhà Rông
mới, lễ ăn cơm mới v.v...
Đành rằng, trước sự biến
đổi kinh tế - xã hội, sự phát triển của nhận thức cũng
như sự hội nhập và tính chất toàn cầu hóa về thông tin,
giao lưu văn hóa như hiện nay, các tập tục cổ truyền rạn
nứt, các lễ hội truyền thống có thể dần dà mai một...
thì cũng đồng nghĩa với việc Không gian văn hóa của cồng
chiêng sẽ dần dà mất đi. Một số lễ hội truyền thống
may mắn được "phục chế", tái hiện với mục đích bảo
tồn + phục vụ du lịch thì những trình thức của lễ hội
đều do các người già điều khiển qua sự tái tạo lại
bằng trí nhớ; những bài bản và hình thức diễn tấu ở
mỗi giai đoạn lễ, cũng do nghệ nhân già nhớ và hướng
dẫn; cồng chiêng cũng do người già chế tác, chỉnh âm...
Giới trẻ, hầu như vắng mặt trong đời sống tinh thần của
quá khứ, và như thế, những sinh hoạt mang tính phong tục,
tập quán đặc trưng của tộc người khó mà lưu giữ được
vào ký ức văn hóa của họ... Điều này, đang đúng với
thực trạng văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung
và cả khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên nói riêng.
* Sự phong phú, độc đáo,
đặc trưng của cồng chiêng Tây Nguyên.
Sự khác biệt của cồng chiêng
Tây Nguyên Việt Nam, so đối với cồng chiêng của các nước
trong khu vực, là sự gắn kết với không gian văn hóa, là
sự phong phú trong cơ cấu của các dàn chiêng và nhất là
sự khác biệt trong cách thức diễn tấu, biên chế đa dạng,
không cố định, hình thành nhiều loại dàn chiêng khác nhau
để phục vụ cho những sinh hoạt, lễ thức khác nhau. Có
loại dàn chỉ gồm 2 chiếc (như dàn chiêng Tha) cho đến loại
từ 9,11,16 cồng và chiêng. Nhạc công các dàn cồng chiêng
các nước Đông Nam Á lục địa một mình với 2 tay đánh
bằng dùi gõ cả dàn cồng đến 17, 19 chiếc, còn nhạc công
dàn cồng chiêng Tây Nguyên thì mỗi người chỉ đánh một
cồng. Mỗi nhạc công giữ một vị trí cao độ và tiết tấu,
âm sắc khác nhau, đòi hỏi phải nhớ, phải tập trung tâm
trí nắm chắc thời gian, nhịp điệu để gõ đúng phần của
mình, vừa phải lắng nghe người khác trong dàn nhạc để
tạo nên sự hòa hợp, đồng cảm chung. Vì vậy, để tham
gia diễn tấu được một bài chiêng, thì yếu tố "nhạc cảm",
năng khiếu bẩm sinh là vấn đề quan trọng, không phải là
ai cũng có thể làm ngay được. Đặc biệt là sự quy định
chức năng từng loại cồng trong dàn nhạc: "Chiếc cồng phát
ra âm thanh thấp – vốn là âm cơ bản – mang tên "mẹ". Trong
những dàn có 9 cồng chiêng trở lên thì có thêm cồng "cha",
... tiếp theo là các cồng con, cồng cháu... hình thành hệ
thống gia đình mang dấu vết chế độ mẫu hệ của người
Tây Nguyên. Theo Gs. Trần Văn Khê, khi diễn tấu, cồng mẹ
và cồng cha được phân công phần trầm làm nền, cồng con
và các cồng khác đánh so le trước – sau, nhanh – chậm để
tạo ra giai điệu" .
- So với dàn chiêng các nước
Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanma... thì nhạc công dàn chiêng Tây
Nguyên không ngồi yên tại chỗ để gõ cồng, mà luôn di động,
(thường là di động xoay quanh một đối tượng được tôn
vinh ở vị trí trung tâm như cây nêu... theo chiều ngược kim
đồng hồ như chiều bay của cánh chim Lạc trên mặt trống
đồng) và đa dạng về động tác (tùy theo sự cảm hứng
diễn đạt trong quá trình diễn tấu như khom người, nghiêng
mình, cúi mặt...). Cách gõ cồng của Tây Nguyên có hai cách:
đánh bằng dùi và đánh bằng cườm tay. Đánh bằng dùi, nếu
là dùi mềm cho âm thanh tròn trĩnh, dịu dàng, trầm lắng,
nếu là dùi cứng cho âm thanh độ mãnh liệt, sắc nhọn. Đánh
bằng cườm tay cho âm thanh cảm giác mờ ảo, xa xăm, huyền
bí, hoang sơ. Bàn tay trái phía sau cồng không chỉ để giữ
cồng mà cũng tham gia diễn tấu, lúc bịt lúc mở mặt chiêng
để tạo tiếng ngắt, tiếng ngân theo từng sắc thái của
bài chiêng.
* Một số vấn đề về
truyền dạy, bảo tồn.
Trải qua hằng trăm năm, những
thăng trầm lịch sử không tách cồng chiêng ra khỏi đời
sống cộng đồng. Ðặc điểm này của cồng chiêng Tây Nguyên
vừa là thuận lợi, đồng thời cũng vừa là khó khăn trong
việc bảo tồn và phát huy giá trị của Không gian văn hóa
công chiêng Tây Nguyên. Vì thế, vấn đề nâng cao lòng tự
hào và ý thức giữ gìn của cộng đồng dân cư có ý nghĩa
vô cùng quan trọng.
Các Nhạc viện, các trường
VHNT tại các địa phương có di sản Cồng chiêng, ngoài việc
tuyến sinh và đào tạo được như các loại hình âm nhạc
truyền thống khác... nên tổ chức, đào tạo theo Dự án bảo
tồn, là đào tạo tại chổ trong thời gian rảnh rang mùa vụ.
Ngoài kinh phí đặc biệt cho giáo viên (là các nghệ nhân),
lại phải có chính sách trả kinh phí học cho học viên, vì
đầu ra của họ không phải là về các đoàn Nghệ thuật,
các cơ quan nhà nước... mà về lại với không gian của cồng
chiêng. Chương trình học ngoài các dàn chiêng, bài chiêng là
những kiến thức về các hội lễ truyền thống của chính
họ, của từng tộc người ở Tây Nguyên...
Việc nghệ nhân Y Thim Bya, buôn
Ea Bông, xã Chư Ê Bur Ban Mê Thuột - một nhà sưu tập có khá
nhiều bộ cồng chiêng quý Êđê, Gia rai, M’nông, chiêng tre
và các loại nhạc khí khác của Tây Nguyên – khoảng năm
2008, đã tổ chức một lớp học tại gia gồm nhiều học
viên nam, nữ, ở nhiều độ tuổi khác nhau, nhưng đa số đều
trẻ, từ các buôn khác nhau đến học... có thể gọi là cách
bảo
tồn động. Bỏ qua sự thẩm định về vốn liếng di sản
cổ truyền của nghệ nhân, chương trình, bài bản... và dù
chỉ do sở thích cá nhân hoặc mục đích khác, nhưng với
số lượng học viên đông đảo, được truyền nghề trực
tiếp, đáp ứng được nhu cầu học hỏi của tuổi trẻ trong
địa phương... thì thiết nghĩ, đây là mô hình truyền nghề
rất có hiệu quả trong việc bảo tồn đối với di sản âm
nhạc này. Những học viên – nghệ nhân tương lai sẽ được
trả về đúng với không gian văn hóa của nó, không vướng
bận bởi một lý do, một điều kiện nào, mà tự nhiên như
lúc họ đến xin học. Đó là việc cần tiếp tục phát huy,
và đây sẽ là một giải pháp tích cực nếu có sự tham gia
của các cơ quan văn hóa....
Theo đó, ngoài việc chặn đứng
nạn "chảy máu" cồng chiêng, cần có chương trình Sưu tầm
và nghiên cứu; bảo tồn và phục hồi; truyền
dạy và quảng bá, với phương cách bảo tồn tĩnh lẫn
bảo tồn động đối với di sản văn hoá này, cũng như tiến
hành đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu là người dân
tộc ít người tại địa phương:
- Tiếp tục nghiên cứu khoa
học về cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng trong tổng thể
di sản âm nhạc cổ truyền Tây Nguyên một cách hệ thống
và toàn diện.
- Phục hồi và giữ gìn các
sinh hoạt văn hóa, các lễ hội gắn với vòng đời người
và vòng đời cây trồng ở các cộng đồng dân tộc thiểu
số tại các tỉnh Tây Nguyên để tạo môi trường diễn xướng
đặc hữu của cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng.
- Xây dựng một chiến lược
dài hạn cho việc phục hồi, bảo tồn và phát huy di sản
cồng chiêng và văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Ðẩy mạnh
công tác đào tạo theo dự án hoặc trong các trường nghệ
thuật về cồng chiêng và Không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên. Bản chất của cồng chiêng Tây Nguyên là sáng tạo
của cộng đồng và cũng chính cộng đồng bảo tồn, lưu
giữ, trao truyền nó. Vì vậy, phát huy vai trò của cộng đồng
phải là yêu cầu có tính nguyên tắc trong hệ thống các công
việc trên.
- Hai phạm trù "bảo tồn và
phát huy" phải được giải quyết thỏa đáng đối với hàng
loạt vấn đề đặt ra của đời sống hàng ngày trong Không
gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên. Muốn bảo tồn cồng chiêng
và văn hoá cồng chiêng, phải giữ gìn, khôi phục các sinh
hoạt văn hoá - tín ngưỡng liên quan đến cồng chiêng, trong
đó không nhất thiết phải sân khấu hoá việc trình diễn
cồng chiêng. Vì đã là một sáng tạo mang tầm kiệt tác của
nhân loại, Không gian văn hoá cồng chiêng Tây Nguyên có khả
năng hấp dẫn, thu hút khách du lịch. Đây cũng là cơ hội
tốt để tuyên truyền, quảng bá về giá trị của di sản:
Tạo ra các tour du lịch, đưa khách du lịch đến xem, nghe trình
diễn cồng chiêng tại cộng đồng, nơi được phục dựng,
ít nhất, gần với không gian văn hóa của cồng chiêng... để
khai thác tiềm năng kinh tế của di sản, phục vụ sự phát
triển kinh tế - xã hội...sẽ không phá vỡ hay làm tăng thêm
nguy cơ mai một của Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Sau cùng là nhân rộng các mô hình bảo tồn cồng chiêng từ
trong cộng đồng, phải làm cho bản thân những chủ nhân của
không gian văn hóa cồng chiêng hiểu và trân trọng những giá
trị của cồng chiêng.
Để bảo tồn không gian văn
hóa cồng chiêng, cần phải khôi phục lại môi trường xã
hội cho cồng chiêng, thông qua những lễ hội gắn với cộng
đồng, gắn với những mốc quan trọng trong vòng đời của
mỗi con người.
Được UNESCO công nhận là
Kiệt tác di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của
nhân loại, Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là niềm
tự hào của cả nước. Nhưng đồng thời, vấn đề gìn giữ,
bảo tồn, phát huy giá trị của nó theo cam kết cũng lại
là một vấn đề không kém phần quan trọng. Đây là trách
nhiệm của tất cả mọi người chúng ta để làm tốt công
việc giữa gìn di sản không chỉ có ý nghĩa đối với hiện
tại mà cả với tương lai./. |