Nói
về văn hoá Tết Nguyên Đán vào ầu tháng Giêng Âm lịch mỗi
khi sang mùa xuân mới, thì Tết có nhiều yêu tố truyền thống
như phong tục, tập quán hay tâm linh dịp đầu năm. Trong bài
viết này, tôi xin đề cập vê những đặc điểm truyền thống
khi quê hương đón Tết hay mừng Xuân mới. Đó là Đọc Báo
Xuân và Chưng Câu Đối Tết là gì và chưng Câu Đối Tết
ra sao ?
Hằng năm báo xuân hay giai phẩm
xuân thường phát hành vào những ngày cận tết, trong khoảng
từ 20 đến 28 tháng chạp, không như báo xuân thời đại Google
hay internet in ấn, phát hành mau lẹ cần cho ra rất sớm, trước
tết một tháng. Như các báo ở vùng Nam Cali nơi tôi ở. Báo
xuân là một món quà đầu Xuân dược ưa thích của nhiều
gia đình, Có người đọc giai phẩm xuân la coi phần lá số
tử vi nói về ta ra sao, xem tin tức về dịp Tết nhất. Bài
vở như: Sớ Táo Quân; Cúng ông Thổ Công; Đưa ông Táo, Gói
bánh tét, bánh chưng; Chơi hoa dịp Tết, Mâm ngũ quả, Lau dọn
nhà cửa, Cúng ông bà, gia tiên; Đón giao thừa, Hái lộc hên
cho nắm mới, Du xuân chợ phiên, Xông đất đầu năm, Chúc
tết và mừng tuổi lì xì, Khai bút tân niên, Mua/xin câu đói
hay thư hoạ,,….
Dịp Xuân đón Tết là thời
gia vui của mọi người, ở nhiều nơi, nên báo Xuân có những
câu chuyện hài hước, mang tính hấp dẫn bạn dộc vui hỉ
hả ba ngay Tết, Các chuyện vui trong xã hội cũng không thể
thiếu, chúng khiến không khí của một tờ báo Xuân lúc nào
cũng tủm tỉm một nụ cười ý nhị hóm hĩnh. Trong cái không
gian Têt rộn ràng chung vui đó còn có những điểm riêng tư,
như những hồi ức bên bếp lửa tối giao thừa cùng mẹ hay
xóm giềng hay cùng các ông cụ tỉa củ hoa thuỷ tiên mừng.
Ai trong chúng ta lại không có những thời khắc thiêng liêng
mà đã có ở bên nhà, hay vẫn duy trì tập tục quê xưa nơi
quê người nhỉ?
Đọc lại trên internet những
trang báo Xuân của mấy mươi năm về trước, trong dòng chảy
thời gian so với báo Xuân ngày nay, kỹ thuật in ấn mới đẹp
hơn, nếp sống xứ người khác lạ hơn, tôi cùng bạn bé
viết bài cho báo chuẩn bị ra mắt vào dịp Tết đến, Xuân
về. Hân hoan lắm. Theo nhà văn Từ Kế Tường cho biết kỷ
niệm làm báo Xuân xưa như sau. thuở khi... "trước năm 1975
ở Sài Gòn có khoảng 30 tờ báo, hầu hết đều là nhật
báo khổ lớn, kế đến là tuần báo, bán nguyệt san, tạp
chí... chỉ đếm trên đầu ngón tay và đều là báo văn nghệ.
Tại sao báo xuân hồi ấy không in ấn, phát hành sớm trước
tết cả tháng như bây giờ? Rất đơn giản, vì nó không mang
tính cạnh tranh khốc liệt, và độc giả nếu mua đọc báo
ngày thường xuyên tất nhiên sẽ ưu tiên mua báo xuân của
tờ đó. Còn nếu mua thêm tờ báo xuân thứ hai thì sẽ chọn
tờ cốt để "hài lòng bà xã", nghiêng về đề tài phụ nữ,
ví dụ Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai...Báo xuân trước
năm 1975 hầu như không đặt nặng vấn đề quảng cáo, nội
dung bài vở cũng rất phong phú, nhiều chuyện đông tây kim
cổ. Người đọc sẽ không bỏ qua các bài tư liệu, ghi chép
xoay quanh chuyện con giáp của năm đó, ví như "Năm Ngọ nói
về con ngựa" và ôi thôi, có đủ chuyện về con ngựa, từ
nghĩa đen đến nghĩa bóng như "Xuất thân của con ngựa trường
đua Phú Thọ" đến chuyện "Con ngựa bà". Phụ nữ vốn mê
tín, thiên về tâm linh, thích bói toán, tử vi ngày xuân nên
sẽ có những chuyên gia cỡ Huỳnh Liên, Khánh Sơn "bốc quẻ"
bàn về những người tuổi Ngọ, sau đó là tình, tiền, tài,
lộc, một thứ "tử vi đẩu số" cho mọi người.
Khi lên trung học, tôi đã có
cái thú "đọc cọp" báo xuân ở vài sạp báo quen đầu phố.
Lúc đó tôi đã tập tành làm thơ, viết truyện gửi đăng
báo xuân, nên đọc để dò xem báo họ có đăng bài mình không.
Nếu có thì móc hầu bao mua tờ báo xuân có đăng bài để
"tự sướng", sướng lắm, sướng một cách khó tả khi lật
trang báo xuân có đăng bài thơ, đoản văn hay cái truyện ngắn
của mình. Không có sự sung sướng nào bằng khi mua tờ báo
xuân (không cần báo biếu, nhuận bút) có đăng bài mình. Không
chỉ mua một tờ, mà có nhiều tiền sẽ mua năm bảy tờ về
khoe, tặng bạn bè. "
Tính về lịch sử nếu ta lấy
mốc thời gian kể từ báo Nam Phong Tết Mậu Ngọ (1918) là
tờ báo Xuân đầu tiên ra đời thì đến nay phong thái làm
giai phẩm Xuân hay nối tiếp truyền thống làm báo Xuân đã
có hơn 100 năm. Theo như vậy thì Tết năm 1918 xa xưa, Nam Phong
Tạp Chí cho ra một tuyển tập thơ văn như một thứ "giai
phẩm" Xuân. Đọc cụ Vương Hồng Sển cho rằng: có thể xem
đó là "thủy tổ" của các số báo Xuân, báo Tân niên, báo
đặc biệt" của làng báo Việt Nam. Tiếp tục theo nét văn
hóa đặc sắc này, những năm tiếp theo, làng báo Việt Nam
lần lượt cho ra đời những "giai phẩm" Xuân đặc sắc từ
những ấn hành báo Xuân của: Thần Chung, Công Luận, Phụ
Nữ Tân Văn, Nhật Tân, Sài Gòn mới, Đuốc Nhà Nam… Nhưng
nổi tiếng nhất phải kể đến hai tờ báo của nhóm Tự
Lực Văn Đoàn là Phong Hóa tuần báo và Ngày Nay. Từ đó trở
đi, việc các tờ báo ra số Xuân trở nên phổ biến và trở
thành phong trào của làng báo Việt. Lật xem những trang báo
Xuân cũ đã nhuốm màu thời gian thì thấy hầu hết báo Xuân
trước đây đều tập trung nhiều nhất vào chủ đề phong
tục tập quán của ngày Tết, giới thiệu văn hóa, thành tựu
về các phạm vi của nước nhà. Nhưng hiếm thấy trang bìa
báo Xuân trước đây dùng ảnh, mà phần nhiều là sử dụng
tranh hội họa.
Trong những khuôn báo Xuân xưa
luôn có những bài vở mang tính hoài niệm, hồi tưởng những
cái Tết đã qua ở mọi hoàn cảnh, từ Tết trong vùng kháng
chiến, Tết ở đảo xa cho đến Tết trên miền thượng du...
Hay như dạng phản ánh cái Tết của mọi tầng lớp trong xã
hội, điển hình là giới làm báo, giới nghệ sĩ, giới chính
khách…
Tết đến hãy tặng nhau món
quà tinh thần quý giá là một số Báo Xuân hay Giai Phẩm Xuân
dể lưu giữ phong hoá quê hương, bạn nhé.
Bây giờ ta sang phần của bài
viết về: Câu đối Tết - nét đẹp văn hóa Việt.
Ý nghĩa câu đối ngày Tết
là gì ? Câu đối đỏ từ lâu đã không đơn giản chỉ là
một vật trang trí nhà cửa, mà nó đã trở thành một nét
đẹp truyền thống ngàn năm, thành cái hồn của dân tộc
mỗi dịp Tết đến Xuân về. Thấy câu đối đỏ, ta lại
thấy phảng phất hương vị Tết cổ truyền của dân tộc,
dẫu ở bất cứ nơi đâu trên thế giới này, thấy câu đối
đỏ của Việt Nam, ta như thấy quê hương, thấy gia đình
thân thuộc.
Theo truyền thống thì những
câu thơ đối vần, đối nghĩa được viết trên giấy màu
hồng đào hoặc màu đỏ. Theo quan niệm của người Việt
xưa màu đỏ là màu rực rỡ, biểu tượng của sức sống
mãnh liệt, tượng trưng cho sự may mắn, cát tường, xua đuổi
những điều xấu xa, mang đến sự tốt lành. Từng câu chữ
được các ông đồ già viết bằng mực tàu lên giấy đều
là những lời chúc, lời cầu mong ý nghĩa nhất mà người
xin câu đối muốn có được để dành tặng cho ông bà, cha
mẹ và những người thân yêu quý. Những thú vui rất đặc
trưng như thưởng hoa, nhâm nhi rượu cùng nhau đối chữ hay
chơi câu đối,...là một nét đẹp truyền thống của ông
cha ta. Đến nay những vầng chữ của câu đối vẫn vẹn nguyên
những ý nghĩa sâu sắc, càng ý nghĩa hơn vào mỗi dịp Tết
đến xuân về bạn dùng các câu đối đỏ mang lời hay ý
đẹp dành tặng cho bậc cao niên như ông bà, cha mẹ hay những
người thân yêu hoặc sử dụng cho việc trang trí nhà ngày
Tết tạo nên hương vị Tết cổ truyền đã có từ xa xưa..
Mỗi năm cứ mỗi độ Tết
đến xuân về người người nhà nhà đều háo hức chuẩn
bị đón Tết, sắm sửa đủ thứ với hy vọng đón một cái
Tết đầy đủ nhất, sung túc nhất. Trước đây, để trang
hoàng nhà cửa đón Tết, mỗi gia đình treo câu đối đỏ
trong nhà để mang ý nghĩa cầu may mắn, bình an và thành công
trong năm mới. Trong văn hóa truyền thống của người Việt
xưa, tục treo câu đối trong nhà ngày xuân còn là một thú
vui tao nhã thể hiện trí tuệ và nghệ thuật chơi chữ của
người sử dụng câu đối. Đây được đánh giá như tinh
hoa của nguồn cội, là món ăn tinh thần ngày Tết. Tục treo
câu đối trong nhà ngày xuân là một thú vui tao nhã thể hiện
trí tuệ và nghệ thuật chơi chữ của người sử dụng câu
đối.
Nghệ thuật của câu đối rất
quan trọng. Hãy xét luật tạo câu đối chuẩn xác như sau.
Vế câu đối - câu đối có
hai câu, mỗi câu gọi là một vế.
Khi tự mình làm lấy cả hai
câu, muốn phân biệt câu nọ với câu kia, thì gọi một vế
là vế trên, một vế là vế dưới – Khi người ta làm một
vế để cho mình làm vế kia, thì vế người ta làm gọi là
vế ra, vế mình là vế đối.
Luật bằng trắc – Cứ kể,
thì đáng lẽ chữ vế trên này trắc thì chữ vế bên kia
phải bằng, hay chữ vế bên này bằng, thì chữ vế bên kia
phải trắc.
Những câu đối phú hoặc đoạn
trên, hoặc đoạn dưới bảy chữ, thì đoạn bảy chữ ấy
theo bằng, trắc như câu thơ thất ngôn. Thí dụ :
Cung kiếm ra tay, thiên hạ
đổ dồn hai mắt lại
Rồng mây gặp hội, anh
hùng chỉ có một ngươi thôi
Xét về những nguyên tắc trong
câu đối.
Để viết câu đối được
gọi là chỉnh đối hay đối cân vế đối, khi viết câu đối
cần chọn được câu chữ tuân theo các nguyên tắc sau:
- Đối ý và đối chữ
Đối ý: Hai ý đối phải cân
nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.
Đối chữ: xét về hai phương
diện thanh và loại:
Về thanh: thanh bằng đối với
thanh trắc (và ngược lại)
Về loại: Thực tự (hay chữ
nặng có thực như: Trời, đất, cây cỏ..) phải đối với
thực tự; Hư tự (chữ nhẹ như: thì, mà, vậy, ru..) phải
đối với hư tự; Danh từ phải đối với Danh từ; Động
Từ phải đối với Động Từ; Nếu vế đối này đặt bằng
chữ nho thì vế kia cũng phải đặt bằng chữ nho...
Ngày Tết, người Việt xưa
thường có thói quen mua và xin câu đối đỏ để treo trong
nhà, đó là những câu thơ đối vần, đối nghĩa được viết
trên giấy màu hồng đào hoặc màu đỏ. Theo quan niệm của
người Việt xưa màu đỏ là màu rực rỡ, tượng trưng cho
sự may mắn, cát tường, cho những điều tốt lành. Từng
câu chữ được viết trên giấy đều là những lời chúc,
lời cầu mong ý nghĩa nhất mà người mua và người xin câu
đối mong muốn đạt được. Theo phong tục truyền thống xưa,
người cho chữ thường là các ông đồ, trúc nho, còn người
xin chữ là những người mang trong mình niềm tin, cầu mong
những tin mừng, những sĩ tử cầu mong may mắn trong thi cử,
những người mang chức quan thì cầu mong năm mới thăng quan
phát tài, có những người nông dân, lao động thì cầu mong
một năm mới bình an, hạnh phúc. Những câu đối treo trong
ngày Tết thường mang ý nghĩa tốt đẹp và đôi khi nhắc
nhở con người ta về những điều tốt đẹp, về đạo đức,
về lối sống, về cách hành xử hàng ngày, về ước mơ,
mong ước một năm mới vui vẻ, hạnh phúc, làm ăn phát đạt,
thành công.
Những câu đối Tết thường
được viết trên giấy đỏ, bởi màu đỏ vốn là màu rực
rỡ nhất và theo quan niệm dân gian là biểu tượng của sự
may mắn. Nó vừa nổi trội, vừa hài hòa với màu xanh của
bánh chưng, màu vàng của hoa mai sẽ làm tươi sáng thêm không
khí Tết. Ngày Tết, bên chung trà, chén rượu cùng ngẫm nghĩ
về những câu đối Tết của người xưa, khiến ta một lần
nữa thêm lòng tự hào về trí thông minh, tài sáng tạo, nét
tài hoa của tổ tiên đã tạo ra một loại sản phẩm văn
chương đặc biệt, nó vừa công phu tỉ mỉ, lại vừa cô
đúc ngắn gọn. Trong một tác phẩm "mini" ấy thể hiện đủ
cả cái đẹp cân đối nhịp nhàng của hình thức và cái
uyên thâm của chiều sâu triết lý phương Đông. Hãy xét qua
những câu đối điển hình tiêu biểu như sau.
Xuân sang hạnh phúc bình
an đến
Tết tới vinh hoa phú quý
về
Tân niên tân phúc tân phú
quý
Tấn tài tấn lộc tấn
bình an
Ngoài ngõ mừng xuân nghênh
phúc lộc
Trong nhà vui Tết đón bình
an
Trai gái cười vui mừng đón
Tết
Trẻ già hoan hỉ đón xuân
sang
Tết đến gia đình vui sum
họp
Xuân về con cháu hưởng
bình an

Đấy là những câu đối Tết
đơn cử.. Dù là ngày nay có nhiều phong tục trong ngày tết
có nhiều thay đổi, nhưng câu đối trong dịp Tết vẫn ít
thấy xuất hiện trên các trang báo Tết. Chỉ có điều, câu
đối vốn là một nghệ thuật chơi chữ tao nhã, nhưng khung
cảnh xứ người nếp thưởng ngoạn câu đối của những
Tết năm xưa dần dân mai một.Nét văn hoá thư hoạ câu đối
khá ít xuất hiện trên báo Xuân hiện nay tại hải ngoại.
Phải chăng nghe thuật câu dối đi theo số phần hẫm hiu của
Cụ Đồ Già của nhà thơ Vũ Đình Liên chăng ?.
Sự lưu luyến với nghệ thuật
câu đối vơi đi như văn hóa nho có những cụ đồ ngồi ngồi
bên mực tàu giấy đỏ của ngày xưa thì nay rất ít phổ
thông, nhiều thế hệ trẻ về sau này không còn dịp biết
đích xác câu đối dii5p Tết mà cụ đồ ngày xưa khom mình
trên giấy đỏ viết ra như thế nào. Nay khi tìm về kho tàng
văn chương ngôn ngữ Việt, bài thơ "Ông Đồ" của Vũ Đình
Liên sáng tác mô tả một thời đại đã qua và rồi ngày
nay, mỗi lần Tết đến người ta luyến tiếc một thời đã
qua...
Ông đồ vẫn ngồi đấy,
Qua đường không ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy.
Ngoài trời mưa bụi bay.
Năm nay đào lại nở,
Không thấy ông đồ xưa.
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Và kỷ niệm cụ đồ nhạt
phai không còn nữa khi Tết về, câu đối đã nhạt phai không
còn nữa, nhất là tại hải ngoại này.
Thuỵ
Lan