Thành
Bạch Đế do Công Tôn Thuật xây vào khoảng năm 25, đầu đời
Đông Hán. Năm 221, đầu thời Tam Quốc, Lưu Bị đem quân đánh
Ngô để báo thù cho Quan Công, đại bại, không trở về kinh
đô Thục là Thành Đô, mà ở lại đây, ít lâu sau qua đời.
Thành nay nằm trong thành phố Trùng Khánh (vốn thuộc tỉnh
Tứ Xuyên, từ năm 1997 trực thuộc trung ương), trên bờ bắc
sông Dương Tử. Sau khi đập Tam Hiệp xây xong, thành Bạch
Đế hóa đảo, có cầu nối vào bờ, là một trọng điểm
du lịch trong khu vực.
Đỗ Phủ (712-770) làm đến
tám bài "Thu hứng", đều trong thời kỳ Phiêu bạc tây nam
(760-770). Bài đầu và bài thứ tư được chú ý nhiều hơn
cả, các tuyển thơ Đường thường "bát thủ tuyển nhị",
chọn in hai bài này. Rồi trong hai, thì Một lại lấn hẳn
Bốn. Rút cuộc, nhắc "Thu hứng", đa số bây giờ gần như
chỉ nhớ có "đệ nhất thủ" sau đây.
Đọc tiểu sử Đỗ Phủ, ta
có thể đoán ông đã viết "Thu hứng" trong khoảng hai năm
765-766. Năm 765, ông cùng gia đình lên thuyền trở lại Lạc
Dương. Mới tới thành Bạch Đế thì do sức khỏe ông kém,
thuyền phải đỗ lại ở vùng này gần hai năm. Đây là giai
đoạn sáng tác nhiều cuối cùng trong đời Đỗ Phủ: 437 bài
thơ, đa số là thơ luật.
"Cô chu nhất hệ...". Tại sao
thuyền nhắc nhớ vườn cũ? Hẳn bởi vì đã xuất phát từ
nơi có một ngôi vườn thân thương nào đó. Thuyền đi có
chở theo một bụi cúc. Cúc đã nở hoa tới lần thứ hai,
vậy bài thơ này viết trong mùa thu năm 1766.
Đỗ Phủ chết trên một con
thuyền "rách nát". Không biết có phải là thuyền này chăng.
Dù sao, mười mấy thế kỷ đã trôi qua, nhưng vẫn còn nguyên
vẹn đây cái tâm sự chiều thu của một hồn thơ có cuộc
đời thật lênh đênh...
*
Tuy đọc đi đọc lại suốt từ
trẻ đến già, các cụ ta xưa gần như không dịch thơ Đường.
Họa hoằn, có cụ dịch một đôi bài. Như thế chắc đại
khái là do Hán văn quá phổ thông, lúc nào các cụ thích sáng
tác bằng tiếng mẹ đẻ thì sáng tác, còn hễ sờ đến thơ
chữ Hán thì cứ thế đọc chứ không nghĩ đến dịch. Phải
đợi đến cuối thời nho học, khi Hán văn trở nên lu mờ,
thì mới có Tú Xương rồi Tản Đà ra công diễn nôm thật
nhiều thơ Đường.(1)
Trong Truyện Kiều, ở
một đôi chỗ, Nguyễn Du (1766-1820) có dịch đôi câu từ một
bài thơ Đường. Chẳng hạn, "Trước sau nào thấy bóng người
/ Hoa đào năm ngoái còn cười gió đông" là dịch "Nhân diện
bất tri hà xứ khứ / Đào hoa y cựu tiếu đông phong" trong
bài "Đề tích sở kiến xứ" của Thôi Hộ. Không biết Nguyễn
Công Trứ (1778-1858) dịch "Thu hứng" có phải là lần đầu
tiên một nhà nho ta diễn nôm trọn một bài thơ Đường hay
không...
*
Nguyên văn
Ngọc lộ điêu thương phong
thụ lâm / Vu Sơn Vu Giáp khí tiêu sâm / Giang gian ba lãng kiêm
thiên dũng / Tái thượng phong vân tiếp địa âm / Tùng cúc
lưỡng khai tha nhật lệ / Cô chu nhất hệ cố viên tâm / Hàn
y xứ xứ thôi đao xích / Bạch Ðế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa
Sương móc trắng khiến rừng
phong tiêu điều / Núi Vu, khe Vu hơi thu hiu hắt / Trong lòng
sông sóng nhảy tận lưng trời / Trên cửa ải mây giăng sát
mặt đất / Từ độ ấy đã hai lần bụi cúc nở hoa làm
rơi nước mắt / Lòng nhớ quê chỉ biết buộc vào chiếc
thuyền lẻ / Ở đây ai nấy đều đang lo cắt may áo rét (2)
/ Từ phía thành Bạch Đế cao, nghe hối hả tiếng chày giặt
muộn.(3)
Dịch thơ
Rừng phong quạnh quẽ sương
rơi
Non xa dáng cũng buốt hơi
thu rồi
Lòng sông sóng nhảy lưng
trời
Ải xa mặt đất bời bời
mây giăng
Vàng hoa thôi lại ướt
khăn
Thuyền côi nhớ bến bâng
khuâng vô vàn
Rét lên kéo thước rộn
ràng
Thành cao chầy nện âm vang
bóng chiều.
Bản dịch thơ khác
Lác đác rừng phong hạt
móc sa
Ngàn non hiu hắt, khí thu
lòa
Lưng trời sóng rợn lòng
sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa
ải xa
Khóm cúc tuôn thêm dòng
lệ cũ
Con thuyền buộc chặt mối
tình nhà
Lạnh lùng giục kẻ tay
đao thước
Thành Bạch, chầy vang bóng
ác tà. (Nguyễn Công Trứ)
Vàng úa rừng phong, hạt
móc bay
Non Vu hiu hắt phủ hơi may
Dòng sông cuồn cuộn, trời
tung sóng
Ngọn ải mờ mờ, đất
rợp mây
Lệ tủi: sợ coi chòm cúc
nở
Lòng quê: mong buộc chiếc
thuyền đầy
Giục ai kéo thước lo đồ
lạnh
Đập vải trời hôm rộn
tiếng chày. (Ngô Tất Tố)
_______
(1) Tú Xương dịch 83 bài,
Tản Đà dịch 89 hay 90 bài.
(2) "Ðao xích" là kéo và
thước may. Đao đây là "tiễn đao", tức cái kéo.
(3) Người Tàu xưa giặt
áo bằng cách đặt lên một tảng đá rồi dùng chày mà nện. |