Tái
chín nạm giò vè, tiêu ớt rau thơm giá trụng
Sách gầu
gân mỡ sụn, tương chanh nước béo hành trần
Bác giáo lõ mắt dòm tôi ra ý
muốn hỏi câu mào đầu phở bò miền Nam ở trên của ai.
Dạ, xin thưa hai câu đối ấy của Thầy khóa Tư Trần Lam
Giang, cũng là hương sư như bác đấy. Chuyện là hồi nhỏ
thủ vai trà đồng, thầy khóa hóng chuyện các cụ. Nghe được
thân phụ là quan đốc học Hải Dương cám cảnh tuổi già
hình thù kỳ cổ như thế này đây: trên
thì móm mém nhai không vỡ, dưới lại chun choăn nhét chẳng
vào.
Răng lợi bây giờ của bác
và tôi cái mất cái còn, chỉ có phở
không người lái, có dăm sợi bánh chun choăn là xong
tuốt. Ăn ngay nói thật với bác: Tôi là người sơi phở từ
thuở còn mặc quần thủng đít, lại được ăn phở Hói ở
phố Bà Triệu. Mà đến tiệm phở ông Hói đừng hòng hỏi
đến "nước béo hành chần". Nghe sao tôi hầu chuyện với
bác vậy vì từ tấm bé, theo chân bố tôi ăn phở chứ biết
khỉ gì...nước béo hành chần.
Bỗng bác rọ mồm nói: "trần"
chứ chả phải là "chần". Xin lỗi bác nhá. Ừ như bác dậy
phở có tái trần, hành trần. Nghe xong, bác gãi...gãi cái
trán nhẵn bóng và ngẫn ngẫn: "Ông Hói là ai?". Thôi thì tôi
đành nhờ vả môt mảng "văn phở" của cụ Nguyễn trong
Tùy
bút Phở như tên hàng phở có nề nếp của nó là
tên người bán phở, trông mặt đặt tên một chữ...nhất
tự thiên kim như phở Lắp, phở Sứt, phở Hói.
Từ phở không người lái
của cụ Nguyễn Tuân, vắt qua bát phở có thịt hao tốn chữ
nghĩa của thiên hạ không phải là ít. Như nhắc đến hai
chữ Khâm Thiên, tôi quay quả về thập niên 40 với truyện
Anh
hàng phở lấy vợ cô đầu. Chuyện cô ả đào về già
than thân trách phận: "Đời hồi này như một bát phở bánh
chương lềnh bềnh, mỡ nguội đóng váng". Bác và tôi đang
vật vã với cái tuổi lềnh bềnh, nào có khác gì nàng kỹ
nữ về già.
Thế nên trộm nghĩ vụng món
phở một mai cũng nguội ngắt, chương phình theo năm tháng.
Vì vậy tôi rị mọ với bài tạp văn Phở biên niên cổ
sự này, bởi trong chốn làng văn xóm chữ có quá nhiều
người ..."mở tiệm phở" rồi, thưa bác giáo. Vì vậy giữa
phố thị, tôi cất tiếng rao: "Phơ...ơ..." thế
thôi.
Xin thưa với bác, viết tạp
văn về phở tôi phải nhập hồn nhập vía vào văn phở qua
những nhà văn tiền chiến một thời...toả khói trong văn
chương cùng cái thú ăn phở. Họ đã tiêu pha hết chữ như
Thạch Lam, cụ Nguyễn. Nhưng tôi..."mặn" với Vũ Bằng phở
có tình tự trai gái. Chả là sau xa Hà Nội vài năm, thèm phở,
bèn ghé tiệm phở quen mà hai vợ chồng bạn làm chủ. Thấy
vợ bạn đeo khăn tang, hỏi ra mới biết bạn mình đã một
thước hai thước. Bởi có máu lãng đãng trong người cùng
"gái đọan tang, gà mái ghẹ" nên ông đã...thở khẽ ra một
câu đối phở rất tình và cũng rất...phở:
Nạc mà chi,
mỡ mà chi
Sao cứ ỡm
ờ không tái giá
Câu đối trên đeo tàu há mồm
vào Nam sinh con ra câu đối khác giữa một bà hàng phở
(phở
79?) cũng là gái góa và một ông khách tóc muối nhiều
hơn tiêu...
Nạc mỡ
nữa làm gì, em nghĩ "chín" rồi, đừng nói với em câu "tái"
giá
Muối tiêu
không đáng ngại, lão còn "gân" chán, thử nếm cùng lão miếng
"gầu" dai.
Bác hành ngôn hành tỏi ông
khách này khó thật: Đã...hết gân còn đòi người ta...tái
giá. Dạ thưa bác: Ông khách đây là cụ Bùi Văn Bảo,
là tác giả vế đối gân với gầu dai.
Nghe thủng rồi, bác tiếp ngòai
gân với gầu còn phở nào ngon sơi nữa chăng? Dạ, thì thế
này đây:
"...Một hôm
chúng tôi ngồi nhâm nhi cà phê trong căn phòng mịt mù khói
thuốc của cà phê Nhân ở phố Cầu Gỗ vào mười hai giờ
khuya, Nguyễn Tuân bỗng nhớ về những
dị bản phở ông từng biết thời
kháng chiến: phở vịt
Bảo Hà, phở chó
Cốc Lếu... ".
Gọi nó là
phở thế chó nào được!". Ông lầu bầu.
Tôi (Vũ
Thư Hiên) gật đầu: "Bác ăn phở
cá chưa". Ông sôi nổi hẳn lên:
"Phở cá hử?". Ông nhìn tôi, mắt nheo lại. Tôi
nói với Nguyễn Tuân bằng giọng đoan chắc rằng tôi không
hề bịa. Vào những năm tôi còn là bé tí ở làng Mọc bên
quê ngoại tôi, tôi đã biết một thứ phở như thế. Đêm
đêm, trên những con đường làng tĩnh mịch thỉnh thoảng
lại vẳng đến tiếng tắc tắc đều đều của gánh phở
rong. Không rao ..."phơ...ơ..." như phở đêm Hà Nội. Gánh phở
cá lầm lũi đi trong bóng tối mịt mùng, vừa đi vừa phát
ra tiếng gõ đều đều vào một mảnh tre đực già, với một
chai đèn dầu lạc chập chờn như ma trơi. Gọi là gánh phở
nhưng nó không giống gánh phở rong Hà Nội. Thay vào thùng
nước phở gò bằng tôn là cái
nồi đất lớn đã dùng qua vài
đời người, đen xì và bóng nhẫy,
không còn dấu vết đất nung, đặt trên một cái giá bốn
chân. Bên kia là một cái giá khác chứa một cái tủ nhỏ
đựng bát đũa, bánh phở, gia vị, một cái thớt tí xíu,
và dưới cùng là một cái chậu sành đựng nước rửa.
Tôi nghe chữ
phở từ đó. Có người nói nó có xuất xứ từ chữ pot-au-feu,
một món súp của Pháp. Nhưng cái
tên phở cá tôi được nghe ờ mộtvùng quê
bùn lầy nước đọng, nơi mùi pot-au-feu khó
bay tới. Cái vị phở nhà quê của
tôi, nó đã luồn sâu vào nỗi nhớ một vùng quê đất thịt
của tôi để rồi nằm lại đó cho tới tận bây giờ. Đêm
đêm, trên những con đường làng Mọc tối mù thỉnh thoảng
lại vẳng đến tiếng gõ của một gánh phở. Bà
cô tôi nghe tiếng tắc tắc ban
đêm, lại nhỏm dậy: "Có phải phở
không đấy, cháu..."
Nghe vào tai chui ra lỗ miệng,
bác giáo lơ mơ lỗ mỗ chả Tây, Tàu gì sất. Vì từ thuở
cha sinh mẹ đẻ đến giờ, bác chả thấy ông Tàu nào đêm
đêm gánh hàng về làng quê mình làm ăn để mà...ăn cám.
Chuyện vơ năm gắp mười về
gốc gác của phở với phở đêm, cụ Tản Đà trong bài
Đánh
bạc viết năm 1915 có đọan:
"...Đêm
còn dài, thời đồng tiền trong tay, nhiều cũng chưa hẳn có,
hết cũng chưa chắc không. Tất cả lúc đứng dậy ra về,
còn gì mới là được. Có nhẽ đánh bạc không mong được,
mà chỉ thức ăn nhục pho...". Trước đó với
phở biên niên, trong tác phẩm Nhớ và ghi về Hà Nội,
nhà văn Nguyễn Công Hoan viết: "...năm
1913
trọ
số 8 phố Hàng Hài, thỉnh thoảng, tối được ăn phở (hàng
phở rong). Mỗi bát 2 xu, có bát 3 xu,
5 xu...". Như vậy, tôi vội cho là phở ra đời vào đầu
thế kỷ XX.
Nhè tôi láo ngáo niên kỷ với
niên đại, bác vấn nạn..."văn học sử" về phở. Lại bác
nữa, từ chuyên Tây đánh thành
Hà Nội, tôi bắt qua chuyện phở từ pot-au-feu của...Tây
cứ như...thật ấy, thưa bác....
"...Từ feu
của tiếng Pháp, nhà văn trẻ Ngô Tự Lập ở Hà Nội dịch
từ truyện ngắn của Alain Guillemin. Theo Guillemin món phở Việt
Nam là kết quả đầy sáng tạo của "thị Ba", tình nhân của
François Pierre Vidcoq, ông ngoại
của Guillemin, một hạ sĩ quan hải quân thời trẻ từng sống
ở Sài Gòn trong khoảng 1910-1914,
khi cô phải chế biến món pot-au-feu của Pháp là món thịt
bò hầm cà rốt cho ông ngoại anh ta ăn. Ông ngoại của Alain
Guillemin sau đó trở về Normandie, để lại cho thị Ba khoản
phụ cấp giải ngũ ít ỏi của mình. Với số tiền này, thị
Ba trở về Hà Nội mở một cửa hàng ăn...bán phở".
Hơ! Khi không bác cắp nắp
theo Dictionnaire Annamite-Chinois-Français của Gustave Hue (1937)
với định nghĩa: "pot-au-feu là cháo
phở " (trang 745).chứ chả phải là...phở. Vì pot-au-feu
là
món thịt bò hầm với khoai tây nhão như...cháo vậy.
Dào, bác dậy sao tôi cứ ăn
chắc mặc bền trong chuyện chữ nghĩa ta có thói trích dẫn,
dựa dẫm vào Tàu hay Tây. Bởi thế thêm thuyết khác cho rằng
món ăn này từ phương Bắc. Thảng như ông Nguyễn Dư tình
cờ xem được bộ tranh Oger của Tây vẽ ông Tàu gánh phở
nên ông thích quá đến nổi da gà
(sic) nên viết bài về phở:

"...Theo tôi,
tranh vẽ thùng nước dùng có tên "hàng nhục phấn" có từ
năm 1943, trong văn học, tên phở được mọi người dùng.
Tấm khác vẽ một hàng quà. Ai đã ở Hà Nội trước 1954,
chắc đều nhận ra dễ dàng đây là hàng phở gánh.
Tranh vẽ
một bên là thùng nước dùng lúc nào cũng sôi sùng sục, bên
kia xếp những đồ cần thiết như
con dao thái thịt to bản, lọ nước
mắm hình dáng đặc biệt, cái
xóc bánh phở bằng tre đan treo bên thành, cái liễn đựng
hành, mùi. Tầng dưới là chỗ rửa bát, bên cạnh có cái
giỏ đựng đũa. Con dao to bản và cái xóc bánh cho ta biết
đây là một gánh phở, có thể nói
rõ hơn là phở chín...".
Từ gánh ngưu nhục phấn
để một sớm hai sương hóa kiếp thành gánh phở, qua đỏan
văn của cố nhà báo Lê Thiệp, một "chuyên gia" về phở
(phở
75 ở D.C.). Ông cho hay: Ngưu tiếng Tàu vừa có nghĩa
là trâu, là bò nên không hiểu là...bò (hòang
ngưu) hay... trâu. Nhưng "có khả năng" ngưu nhục phấn
là "canh thịt trâu" với bánh bột gạo ở Vân Nam. Ông luận
thêm: Một đằng là bánh bột Vân Nam, một đằng là bột
cán mỏng sắt thành sợi, khác nhau xa. Nhà báo hỏi một đầu
bếp người Việt gốc Hoa chuyện...khó nhai ấy. Ông hỏa đầu
quân này ngẩn ra và gãi đầu rằng: bên Tàu trâu bò cần
thiết cho việc đồng áng, trâu bò chỉ
được hạ thịt khi...về quê, tức về với đất.
Về với đất quê, bác dón
chuyện món quê mùa "canh thịt trâu" là món "xáo trâu". Quê
bác làm món này gồm: thịt trâu thái mỏng, hành lá, hành
ta (tím), tỏi, mỡ, rau răm cắt dài một đốt ngón tay, khế
chua cắt ngang. Sau đó họ xáo (xào)
thịt trong chảo rồi đổ ra bát riêng, bỏ khế, đảo đều
rồi cho thịt, rau răm và hành, đảo cho tới lúc tỏa mùi
thơm. Rồi họ chế nước vào, để lửa liu riu. Khi ăn, người
quê bác lấy bún cho vào bát,
gắp vài miếng thịt trâu bày trên mặt bún rồi chan
nước xáo thịt vào.
Khi không bác nói dín "trâu
bò húc nhau ruồi muỗi chết" còn gì nữa?
Hơ! Bác quê kệch thật, bác
nghĩ sao một ông Tàu già gánh mớ thịt
trâu...chết qua ải Nam Quan. Rồi quăng vào nồi nấu
cho người An Nam ta...xơi. Với món xáo trâu nhà quê bác dậy,
vì ngâm với bánh bột nổi lùng bùng, chưa ăn đã ứ lên
đến tận cổ. Chém chết chả ai rỗi hơi với chuyện ruồi
bu xáo trâu hóa kiếp thành phở
này kia, kia nọ.
Bác lóng ngóng như ngóng đợi
ai đấy? Ắt bác nhắc khéo tôi so bát so đũa với ông Võ
Phiến chăng? Ừ, nói cho có chuyện thì ông nặng về...thâm
cứu cùng dân tộc tính nên đã mà rằng:
"Ta có thể
chịu hưởng của Tàu về văn hóa, tập tục. Nhưng món ăn
thì tuyệt đối không, mỏi mắt tìm không ra một món ăn nào
của Ta mà có gốc Tàu".
Ông kết luận chắc như đinh
đóng cột:
"Tàu ăn xì
dầu. Ta ăn nước mắm".
***
Cũng đã đến ngọ rồi, để
tôi đưa bác tới hàng phở xe bên hè phố gặp hồn ma bóng
quế hai cụ ...thần phở qua "văn phở" của ai đấy ...
"...Ông hàng
phở Nam Định nhận ra người muôn năm cũ, mang ra bàn một
đĩa ơt mỏng, vài miếng chanh cốm xanh non. Đáp lại cái nhìn
mời hàng, cụ Vũ gọi một bát tái, ít bánh, nước trong và
chẳng thể thiếu đĩa hành giấm. Còn cụ Nguyễn, chẳng cần
phải hỏi, bao giờ cụ cũng kỳ cổ với phở chín. Như một
nghệ nhân với nghệ thuật vị nhân sinh, ông hàng phở thoăn
thoắt lật đi lật lại tảng thịt chín trên cái thớt gỗ
đã đóng mủn và nhanh tay thái từng
miếng dầy bản. Ấy là cụ Nguyễn
nhân sinh quý thích chí vậy.
Riêng với
cụ Vũ, ông hàng phở lấy dao phay
miết mảng thịt sống trên mặt thớt cho nó mỏng.
Tiếp, ông dùng sống lưng dao bằm nhiều lần trên mảng thịt
đó mà phở hôm nay gọi là phở
thịt bằm. Sau khi ông nhúng bánh
phở vào thùng nước sôi nghi ngút khói, dùng cái vợt hứng
rũ những sợi bánh phở cho ráo nước. Ông bốc thịt vào
bát, thuận tay ông nhúm bó hành
củ, đọt trắng tươi treo lủng
lẳng ở thanh song bắc ngang thành xe. Ông hàng phở rút ra hai
củ hành đập dập
trải trên bát phở. Bát phở được bưng ra, hai cụ chỉ thấy
hành hoa thái nhỏ và hai củ hành
nổi trên mặt nước. Không nhìn
thấy thịt và bánh đâu cả. Xong hai bát phở như hoàn tất
một tác phẩm nghệ thuật...phở. Ông hàng phở lừng khừng
quơ hai đôi đũa trong cái giỏ tre treo ở cái cột xe, trong
ấy lỏng chỏng những cái thìa nhôm nhếch nhác, đã lên nước
như...một món đồ cổ.
Phở cho hai
cụ bày ra bát chiết yêu, miệng trên loe rộng, nhưng phần
dưới thắt lại. Nên nhớ, bánh phở phải cách miệng bát
ít nhất là hai phân. Người Hà Nội xưa cũ vốn thanh cảnh,
không ai muốn một tô phở đầy phè đến miệng bát. Với
bát phở như vậy, tặc một cái là xong, ba lùa đến bốn
lùa là nhẵn thín. Bát phở bốc khói nghi ngút, hít, nhìn,
ghi nhớ và ăn, ăn mà tưởng như chưa ăn, như ăn một giấc
mơ hoa. Mà như hoa thật, cụ Vũ tẩn mẩn ngắm bát phở ra
dáng như ngắm một bức tranh thủy mạc, bên trong vành sứ
lấp ló một tí trắng nõn của bánh, xanh đậm của hành ta,
trắng ngần của hai củ hành đập dập, vài cọng rau mùi,
húng làng Láng vênh lên như những nét vẽ màu đậm nét quệt
hơi quá tay, điểm một tí đỏ của ớt xắt mỏng như những
nét chấm phá. Cụ nhẩn nha từng miếng thịt tái ngọt lịm,
từng lát gầu mầu trắng đục, những vân vàng nhạt chạy
vòng vèo trông đẹp ra phết. Mà gầu luộc đúng mức thì
mỡ tiết ra gần hết, trong suốt dẻo quẹo. Khách nhai một
miếng như dính vào hết kẽ răng, cái ngầy ngậy giòn giòn
của miếng gầu, nhưng cái vị béo thơm còn nguyên của một
con bò đang sung sức.
Cụ Nguyễn
khẽ cúi đầu xuống hít nhẹ, cái hơi khói lởn vởn nhẹ
nhàng chui vào lục phủ ngũ tạng. Khó mà tả nổi cái hương
thơm lạ lùng của phở, phảng phất như hoa chanh, hoa bưởi,
không có gì nổi bật lên mà trộn lẫn hài hòa giữa rau mùi,
gừng, hành. Như người điểm nhãn, ông mầy mò rắc chút
muối tiêu, lấy cái thìa nhôm, từ từ trang trọng gạn chút
nước dùng trong veo và nếm...Tiếp, cụ dùng đũa lắc nhẹ
những cọng bánh phở lơi ra với những thứ khác, bánh phở
trong cái bát chiêt yêu bé con con ấy. Bánh phở được thái
bằng tay, dẻo mà không dai, thoang thỏang mùi thơm của hương
gạo. Nó làm bật lên cái thơm tho đậm đà quyến rũ của
những lát thịt chín thái dầy to bản. Màu nâu sẫm của lát
thịt chín, khác với bát phở của cụ Vũ, nổi bật lên trong
bánh phở. Cái nõn nà của củ hành trần, hành hoa, át hẳn
những lát ớt đang dấu mặt ẩn nấp. Cụ cúi đầu xuống
bát phở, kính cẩn và trang nghiêm như người hành lễ, như
một thiền sư đi tìm chân như trong đạo giáo vô thường
của...đạo phở.
Trong khi cụ
Nguyễn, cụ Vũ đang đắm chìm trong hương khói nhang đèn của
bát phở, hai cụ không để ý đến một người khách xuất
hiện. Thọat nhìn, có thể biết ngay là người ăn xin. Người
này dừng lại bên hàng phở xe và giữ một khỏang cách không
quá xa, nhưng cũng không quá gần để làm phiền lòng hai cụ.
Khi nhận ra khách lạ, đang lúc cao hứng, cụ Nguyễn vui vẻ
gọi ông hàng phở: "Hỏi ông ta ăn gì, bác làm cho ông ta một
bát". Ông hàng phở chưa kịp gọ gạy, người ăn xin đã chắp
tay: "Dạ thưa cám ơn cụ. Thưa con đủ rồi ạ". Nhòm bát
phở, người ăn xin tiếp: "Đứng ngược gió mà ngửi thấy
mùi phở, ấy là phở trứ danh đấy thưa cụ". Vừa nghe giọng
nói, cụ Nguyễn giật nẩy mình xúyt đánh rơi đôi đũa. Cụ
nhận ra giọng nói quen quen, như thể ông ăn mày khi xưa nghiện
trà và nghèo vì nghiện trà.
Cụ Vũ thật thà hỏi: "Đã ăn lúc nào mà đủ, mà đứng
ngược gió ngửi được mùi thơm thì ông quả là...". Người
ăn xin đáp: "Dạ thưa cụ nói hơi quá.." và tiếp: "Dạ thưa
con nói khí không phải, xin cụ xá tội cho. Như xưa kia cụ
là thần phở, nhưng...". Cụ Nguyễn xong bữa, cầm đũa quẹt
ngang miệng để chùi miệng và gắt nho nhỏ: "Cái nhà anh này
hay chửa, cứ nói đi, có chết thằng Tây đen nào đâu".
Người ăn
xin chậm rãi: "Như con đã thưa với cụ vừa rồi, trên đời
không ai hiểu phở thấu đáo bằng cụ. Nhưng có ăn mới biết
ngon hay dở. Đó là cái mùi gây bò, cái mùi nồng nồng và
gây gây một chút như điểm sương của xá xùng. Thưa cụ,
phở mà không có xá xùng, không thảo quả thì có khác gì
canh thịt trâu của ngưoi Tàu. Dạ, có phải thế không ạ.
Có anh hàng phở dối khách dùng mực nướng thay cho xá xùng,
chỉ lừa được kẻ thực bất tri kỳ vị. Lại có anh dùng
su su để tăng thêm độ ngọt, thưa cũng chỉ qua mặt được
người trần mắt thịt ăn cốt lấy no". Người ăn xin bòn
mót: "Đến chuyện chữ phở, cụ cho biết có người nói chữ
ấy từ ngưu nhục phấn mà ra. Hóa ra phở có nguồn gốc Tàu
hay sao? Hòan tòan không phải thế, thưa cụ! Tỉ như cái củ
gừng nướng kia, vì chả phải là can khương sinh khương. Nên
xin thưa, nó khẳng định phở dứt khóat là của Ta đấy ạ".
Người ăn xin ngập ngừng: "Ấy thưa hai cụ, nước dùng của
hai cụ bữa nay, kém một tí xá xùng, lại thêm cái củ gừng
nướng hơi bị non".
Chắp tay
xá môt cái, người ăn xin khua gậy đi về phía cuối phố.
Dậu đổ bìm leo, khi không
bác mọc ra chuyện cứ nhìn bó hành củ, đọt trắng tươi
treo lủ khủ trước mặt ông hàng phở là biết ngay phở Hà
Nội, gốc Nam Định. Rồi bác hỏi kỳ nhân về phở như người
ăn xin có nhiều không. Theo tôi bậc sư về phở là những
nhà văn vì những bài văn phở cứ ối ra cả đấy.. Phở
núp bóng nhà văn đã khật khưỡng đi vào văn học sử. Trong
đó có Vũ Bằng ví von nhìn bát phở như một người tình
và ví phở gà như một
nàng con gái thanh tân.. Bởi
thế trên con đường tình ta đi, phở cũng đã len lút đi vào
ngõ ngách văn học dân gian trong chuyện đời thường : ấy
là ra đường thấy vợ nhà người, về
nhà thấy cái nợ đời nhà ta. Từ đó nẩy sinh ra
tạng người "chán cơm nguội thì ăn...phở" với
sáng
đèo cơm đi ăn phở, trưa hăm hở rước phở đi ăn cơm, chiều
cơm về nhà cơm, phở về nhà phở, tối nằm với cơm, nghe
thơm mùi phở. .
Chán bác thật! Bác đúng là
"cơm nhà quà vợ" vì cái đáng hỏi thì không hỏi. Thảng
như "Phở liệt truyện" với nhân vật, với cổ sự phở Nam
Địn có từ năm nào?
Theo cụ Cổ Cừ, năm 1928 ở
Phố Mới chỉ có một hàng phở thành Nam. Bây giờ Hà thành
tràn ngập phở gia truyền Nam Định ở mọi ngõ ngách, Hàng
Thiếc có Cổ Cừ, Hàng Đồng có Cổ Chát, Lương Ngọc Quyến
có Cổ Bình, Trương Định có Cổ Trình, Khâm Thiên có Cổ
Chiêu, ngõ Tạm Thương có Cổ Hùng. Vì cách đây cả trăm
năm, khi nhà máy dệt Cotonkin Nam Định được dựng lên năm
1890, những gánh phở rong vỉa hè
biến thái từ gánh canh bánh đa cua
(xem tr 7). Gánh canh bánh đa sau thành bánh cuốn
qua cụ Tú Mỡ: Này bánh cuốn, này thịt
bò, này nước dùng sao nhánh mỡ từ làng Vân Cù
phục vụ cho công nhân dệt thời đó. Từ bánh cuốn thịt
bò hoá thân thành phở bò với cụ Tú: Cánh
thuyền thợ làm ăn vất vả - Phở sơi no cũng đỡ nhọc nhằn.
Theo thiển ý tôi ấy là sử
phở có thể khả tín được. Tuy nhiênnăm 1918 xuất hiện
phở Trưởng Ca số 24 phố Hàng Bạc. Tập biên niên sử "Hà
Nội nửa đầu thế kỷ XX" cho biết đền thôn Dũng Thọ còn
gọi là đền Trưởng Ca, tên
một người vừa làm ông từ coi đền
vừa làm nghề bán phở. Thế đấy, thưa bác
Nhưng tôi đồ là phở có khỏang
năm
1890 là năm có nhà máy dệt Nam Định.
Vì theo cụ Cổ Cừ làng Vân
Cù bán phở từ năm 12 tuổi, dòng họ cụ bán phở gánh,...gánh
lên Hà Nội mở hiệu phở cũng cả bốn, năm đời. Cụ kể
lể làng Vân Cù ở huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định là chính
gốc của họ Cù, nhưng vì kỵ húy với ông thành hòang nên
phải đổi từ Cù qua Cồ. Cụ vun chuyện từ ông Cổ Hữu
Vặng, vì làng đất chật người đông, nên cụ Vặng là người
tiên phong mang theo cái nghề dao thớt bỏ làng nước mà thế
thiên hành đạo và kẽo kẹt gánh "tiệm phở" lên Hà Thành
năm
1910.
"Tiệm phở" được xếp gọn
ở hai đầu gánh là hai thùng bằng gỗ ken, mỗi đầu là một
cái chạn cao gần đến thắt lưng. Bên này là nồi nước
dùng luôn sôi sục, bên kia đựng bát, đũa, thìa, thịt thà
xé sẵn, bánh phở, cùng hành chẻ, rau thơm. Theo Thạch Lam
khác với phở hiệu với thực đơn, phở gánh không có thịt
tái, nạm mà chỉ có thịt bò chín, mỡ gầu. Các gánh phở
có tiếng ở Hà Nội xưa trụ trì ở một góc phố đều được
nhớ kèm tên phố: phở phố Ga, phố Hàng Cót, phố Cửa Bắc,
phố Cửa Nam...
Trở lại phở Vân Cù...từ
phở gánh sang phở xe lâu năm một thời âm thầm trở thành
những tiệm phở khang trang. Có thể nói tiệm
phở Nam Định đầu tiên ở Hà Nội nằm tại phố Hàng Quạt,
ngồi trên phản gỗ trải chiếu rồi qua phố Hàng Đồng mới
có bàn, có ghế. Sau lan qua phố Cầu Gỗ, Cầu Giấy, như cụ
Cổ Chiêm, ngòai 80 tuổi, người từng bán phở ở phố Hàng
Trống từ năm 1942, cụ Cổ Viên từ năm 1954, nay 72 tuổi.
Qua cách nói chuyện của cụ
Cổ Cừ, một là cụ không màng đến cái tên "phở Nam Định".
Cái tên có mặt ở Hà thành rồi lẳng lặng biến mất, thực
khách ngồi ăn phở cứ ngỡ ăn..."phở Hà Nội". Ngay như cụ
Cổ Cừ chẳng hề hay biết phở Dậu nằm trong ngõ đường
Công Lý xuất xứ từ Nam Định. Bà Dậu cho biết Nam
Định là nơi có nhiều người làm nghề nấu phở sớm nhất
ở miền Bắc. Bà là người Nam Định di cư vào Sài Gòn, năm
1958. Bà cũng là người phát sinh ra..."phở cơm nguội". (Nguyễn
Thụy Long)
Hai là...là người mấy đời
uống nước máy Hà Nội, cởi mở nhưng chừng mực, cụ..."cù
không cười"...cười mà rằng:
"Bây giờ
ai chẳng biết qua cầu Đò Quan, rẽ phải 14 cây số là đến
làng Giao Cù, Tây Lạc, sát với làng Nghĩa Hưng, Ninh Cơ cùng
họ Cồ, họ Vũ. Tất cả bốn làng,
hai họ chuyên làm bánh phở, có
thể nói nơi đây là cái nôi của nghề làm bánh phở".
Cụ phân bua, không có lửa
sao có khói, phở có từ đời tám kiếp nào rồi!. Chả ai
chịu tìm tòi gì sất. Hỏi về "ngưu nhục phấn", cụ cho
hay:
"Theo các
cụ ta kể, phở không phải xuất sứ từ người Tàu. Nó từ
các gánh quà bán bánh đa cua, thịt lợn, dần dần là thịt
bò để thành phở nào ai biết".
Như để khẳng định điều
đó, cụ bày hàng thêm:
"Các ông
có thấy Hà Nội từ xưa đến nay, có hàng phở nào của người
Trung Quốc không? Nói thật tình cũng có đấy, có duy nhất
một tiệm của người Trung Quốc tên Nghi Xuân ở phố Mã
Vũ nhưng là...phở áp chảo".
Phở là do ta chế ra, hay du nhập từ Trung Quốc? Câu trả lời
đã rõ ràng: Phở là món ăn hoàn toàn Việt Nam. Vì nếu từ
Trung Quốc thì tại sao giờ này họ không có món phở?"
Ấy là cụ nói thế, thế nhưng
sau.này phở qua ải Nam Quan lưu lạc sang Tàu.
Số là một nữ nhân Hà Nội
theo học văn học Pháp dấm dẳn: "Một thời kỳ ngớ ngẩn
theo Tàu vẫn chưa đủ sao?". Bà ở Paris, nên quại người
Hà Nội dịch phở là...Soupe chinoise, là...mất gốc.
Bởi mấy ông biên khảo với tâm thức 100 năm đô hộ giặc
Tây, 1000 năm đô giặc Tàu nên vọng ngoại thâm căn cố đế...Nhưng
họ không hay báo Trung Văn viết về phở Ta tựa
đề "Việt Nam phấn" cho thấy họ công nhận "phở" là món
ăn Việt Nam. Họ chú thích hình ảnh bát phở là..."Việt Nam
ngưu nhục phấn" .
Nhẽ này trong Chuyện cũ
Hà Nội II, ông Tô Hòai đã đụng bát đụng đũa:
"Năm 2014 tôi đến thành phố
Quảng Châu, vào hàng gọi ăn bát phở, thấy nó là
bát canh bánh chứ không phải
phở.". Vô tình ông Dế mèn phiêu lưu ký ngược
dòng...sử phở với...canh bánh, chỉ khác một chút với cụ
Cổ Cừ là...canh bánh đa cua.
Bác gà gưỡng còn phở Sài
Gòn thi sao. Dạ thưa đây:.
Qua câu vè cao
su đi dễ khó về, khi đi trai tráng khi về bủng beo
mà tôi góp nhóp được: Năm 1930 có ông Bắc kỳ không rõ
gốc gác vào Nam làm phu cạo mủ cao su đồn điền Phú Riềng.
Vì gốc ruộng đồng nên ông nấu phở cóc nhái cho phu phen
ngồi xổm như cóc nhảy xơi. Năm 1933, phu cạo mủ cao su đình
công. Thế là ông chất đồ nghề lên xe ba gác cọc cạch
về chợ Lái Thiêu bán phở. Lái Thiêu thuở xa xưa ấy bé
bằng lỗ mũi, hẳn là không khá nên ông đẩy xe phở lóc
cóc theo hương lộ về Sài Gòn làm ăn.
Ngay như nhà văn "Nam bộ dân
tộc học" Sơn Nam cũng thừa nhận trong Địa chí sông Bé:
"Nghề nấu phở bò phát sinh từ Lái Thiêu".
Để lấy ngắn nuôi dài, tôi
vồ thêm ông Berges viết về đường phố Sài Gòn 90 năm trước.
Ông chỉ đảo thóang qua cái phở xe nằm khuất nẻo trong ngõ
(nay
cạnh ciné Casino Sài Gòn) ở đường Pellerin (Pasteur)
thời ấy lát gạch đỏ nâu sậm. Nhẽ này bén rễ với một
người khảo về phở sử: "Ngay bên hông rạp Casino có một
hẻm nhỏ, đi vào hẻm đó là một dãy nhà, đa số là nhà
dân Bắc Kỳ di cư sớm, từ
những năm 1920".
***
Lúc này, bác búi bấn với
cây có gốc, người có cội thì...tên phở ở đâu mà có...
Nói cho ngay, tôi cũng bí ngô
bí khoai qua cái tên tự trên giời rớt xuống như."cây cơm
nguội" hay..."phở cơm". Nghĩ cho cùng, các cụ ta xưa
vì rối chữ nên gọi một chữ..."phở" cho đỡ rối rắm
ấy thôi...Thôi thì là kẻ hậu bối, bác và tôi liệu cơm
gắp mắm, cứ tương Bắc tương bần với tên phở các cụ
đặt sao mình gọi vậy cho êm ả.
Tôn ý bác sao, thưa bác.
Thạch
trúc gia trang
Đinh Hợi
2007
Ngộ Không
Phí Ngọc Hùng
(thêm bớt
2012, 2018, 2020)
|