ĐÔI HÀNG BỘC BẠCH
U Minh Lục 幽 明 錄
Lưu Nguyến Nhập Thiên Thai
trong " U Minh Lục 幽 明 錄 " cũng còn viêt là " U Minh
Lục
幽 冥 錄 ", hay là U Minh Ký 幽 冥 記, là truyện thuộc
loại văn ngôn đoản biên Thần Kỳ Chí Quái tiểu thuyết,
do Lưu Nghĩa Khánh, tông thất nhà Tống, thời Nam triều, cùng
môn khách soạn, gồm 30 quyển, nguyên thư đã bị thất tán
mai một.
Trong sách " Cổ Tiểu Thuyết
Câu Trầm ", Lỗ Tấn đã thu thập được 265 truyện.Sách ghi
chép những truyện ma quỷ, thần linh, quái dị, biến ảo vô
thường, nên mới có tên là U Minh Lục.Trong U Linh Lục cũng
có một số truyện tương đồng với các truyện sách Liệt
Dị Truyện列 異 傳 và Sưu Thần Hậu Ký 搜 神 後
記 ,càng làm cho truyện Lưu Nguyễn nhập Thiên Thai được
lưu truyền rộng rãi thêm.
Cùng như tác phẩm " Thế
Thuyết Tân Ngữ " , Lưu Nghĩa Khánh đã dựa vào những cố
sự có trước mà soạn thành, chứ không phải cá nhân ông
một mình sáng tác.
Sách " U Linh Lục " được
phổ biến rộng rãi về mọi mặt trên diễn đàn văn học
Trung Quốc, như thơ, văn, hý , hoạ, kịch.
Việt Nam, chịu ảnh hưổng
nặng nề của Tầu , nên núi Thiên Thai , truyện Lưu Nguyễn
Nhập Thiên Thai, và nhiều đoản biên truyện ký khác cũng
được nhiều nhà văn, nhà thơ,nhạc sĩ, dịch thuật, phóng
tác.
Như Tản Đà từng có bài
Tống Biệt, một bài thơ tuyệt vời, bất hủ, mô tả cảnh
Tiên Phàm Tiễn Biệt, lờ mờ nửa hư, nửa thực lãng đãng
mơ hồ :
Tống biệt
Lá đào rơi rắc lối Thiên
Thai,
Suối tiễn oanh đưa luống
ngậm ngùi!
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai,
Ước cũ duyên thừa có thế
thôi!
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách
mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng
chơi
Tản Đà
Về âm nhạc, đã có nhiều
bản nhạc nhắc đến truyện Lưu Nguyễn, nhưng người ta không
thể không nhắc đến hai nhạc phẩm lãng mạng trữ tình ưu
tú nhất nói về Thiên Thai, nói về mùa thu, của hai nhạc
sĩ tài ba là Văn Cao, Phạm Duy,đã được phổ biến một cách
rất rộng rãi trong quần chúng.
Ngoài ra, trong kho truyện
cổ của nước ta, chúng ta có truyện Truyền Kỳ Mạn Lục,
của Nguyến Dữ, viết bằng chữ nho, khắc năm 1763, trong đó
có truyện Từ Thức Tiên Hôn 徐 式 奾 昏, kể
" truyện tiên lấy phàm ", cũng mang một sắc thái ly kỳ diễm
ảo , xẩy ra ở huyện Nga Sơn tỉnh Thanh Hoá, nơi có " Động
Bích Đào ", gọi nôm na là " Hang Từ Thức
徐式 ", rất nổi tiếng, phản ánh
phong tục, đời sống văn hoá xã hộiViệt Nam thời bấy giờ.
![](pxhn_LuuNguyenNhapThienThai/Image45.jpg)
|
Lưu Nguyễn
Nhập Thiên Thai
劉阮入天台 |
Tiếng ai hát
chiều nay vang lừng trên sóng
Nhớ Lưu Nguyễn lạc tới
Đào Nguyên
Văn Cao
Nguyên tác : U Minh Lục
Tác giả : Lưu Nghĩa Khánh
Bản dịch của : Phạm
Xuân Hy
Theo
sách"Thái Bình Quảng Ký 太平廣記 " quyển 41, trích dẫn sách"U
Minh Lục" của Lưu Nghĩa Khánh, người triều Tống, thời Nam
triều thì :
Vào năm Vĩnh Bình ngũ niên,
tức năm 62 CN, đời vua Hán Minh Đế, ở Diễm huyện, có
hai người là Lưu Thần và Nguyễn Triệu rủ nhau vào núi Thiên
Thai để hái thuốc, bị lạc ở trong núi mười ngày, hết
lương thực, đói sắp chết, thì thấy
ở đằng xa trên núi có
cây đào, đầy những trái, nhưng vách cao đèo sâu, không
có đường lên, bèn víu vào những dây leo mà lên, rồi
hái mỗi người ăn mấy trái cho khỏi đói, Trong người
trở nên khỏe khoắn.
Sau đó hai người xuống
núi, lấy bát múc nước uống, định rửa tay, thì thấy
một chiếc lá rơi lạc lõng , còn xanh tươi, nõn nà,
từ trong lòng núi trôi ra, sau lại thấy có một cái
bát trôi ra theo, trong chén còn sót lại những hạt vừng.
Hai người mới bảo nhau:
-Nơi đây ắt là có người
ở không xa.
Bèn cùng nhau lội xuống
suối, đi ngược trở lại chừng hai ba dặm, đến một chân
núi, gặp được một con suối lớn, có hai người con
gái đứng bên kia bờ, trông dáng dấp yêu kiều diễm
lệ vô cùng.
Hai người con gái thấy
Lưu Thần và Nguyễn Triệu cầm bát múc nước, mới
cười, bảo :
-Lưu, Nguyễn nhị lang, xin
hãy trao lại cái chén cho thiếp !
Lưu Thần và Nguyễn Triệu
vốn chưa từng biêt hai nàng, nay hai nàng lại gọi tên
một cách thân mật, tựa hồ như người quen biết cũ,
hân hoan vui vẻ, và hỏi hai chàng vì sao đến trễ.
Rồi mời Lưu Thần, Nguyễn
Triệu về nhà.
Ngôi nhà mái lợp bằng loại
tre lớn. Các vách phía nam và phía đông, mỗi phía đều
có kê một chiếc giường rộng lớn, trên phủ gấm tía
lụa hồng, ở mỗi góc giường đều có treo khánh ngọc,
chuông vàng, và đầu giường có chừng mười đứa thị
nữ đứng hầu.
Hai nàng mới bảo với
Lưu Thần, Nguyễn Triệu :
-Nhị vị lang quân, sơn xuyên
vất vả, hẳn là mệt nhọc, mau ăn đi thôi.
Rồi đem cơm vừng đen,
thịt bò rừng, đãi hai chàng.Rất là ngon miệng. Ăn xong
thì uống rượu.
Sau đó có một đám tì
nữ, mỗi người trên tay cầm bốn năm trái đào, chúm
chím tươi cười chúc tụng :
-Kính chúc nhị vị cô nương
kén được rể mới.
Lưu, Nguyễn rượu say túy
lúy, vừa mừng vừa sợ, rồi cùng hai nàng vui vẻ mãi cho
đến thật khuya, thì hai nàng mới mời hai chàng lên giường,
mỗi người một giường, rồi lên sau.
Nghe giọng nói và thanh âm
của hai nàng ngọt ngào, êm ái, khiến hai chàng hết hẳn lo
âu phiền muộn.
Sống ở đấy được mười
ngày, hai chàng bỗng chạnh niềm cố quốc, bèn ngỏ ý muốn
trở về quê .
Thì hai nàng nói :
-Nhị lang, đến đây, là
duyên từ kiếp trước đưa lại, sao nay lại muốn trở về
?
Vì thế, Lưu Nguyễn mới
ở lại với hai nàng thêm nửa năm nữa.
Một hôm, vào tiết xuân
sang, cỏ xanh mơn mởn, hoa lá rộn ràng, cây cối xum xuê.Oanh
hát, yến ca, đua nhau hót líu lo, khiến hai chàng càng nặng
thêm niềm tư hương cố thổ, lại khẩn khoản xin với hai
nàng cho trở về nhà.
Hai nàng nói :
- Duyên kiếp ràng buộc.
Chị em thiếp biết làm gì bây giờ.
Nhưng rồi, cũng gọi mấy
chục đứa tỳ nữ đem nhạc cụ đàn sáo, chiêng phách, đến
diễn tấu, để tiễn biệt hai chàng về quê.
Khi Lưu Lang và Nguyễn Triệu
về đến quê, thấy họ hàng làng xóm, đều tinh tán không
còn ai.Xóm cũ năm xưa, nay hoàn thoàn xa lạ, không còn nhận
ra được nữa.
Cũng may có đứa trẻ , cháu
bẩy đời, thuật lại là ông cố cố tổ ngày trước vào
núi hái thuốc, lạc đường không thấy về nữa.
Đến năm Thái Nguyên bát
niên nhà Đông Tấn, tức năm 383 CN đời
Tấn Hiếu Võ Đế Tư Mã Huy (362-396), người ta bỗng lại
thấy Lưu, Nguyễn bỏ ra đi. Nhưng không ai biết là đi đâu.
****
Hậu thế, có người bâng
khuâng nghe lời ca thiên cổ, cao vút, mơ hồ từ xa vọng lại
:
" Thiên Thai !Tiếng
ai hát chiều nay vang lừng trên sóng, nhớ Lưu Nguyễn ngày
xưa lạc tới đào nguyên "
Làm bản dịch này.
Rồi âm thầm đưa tay lau
nước mắt.
GHI CHÚ CỦA PHẠM XUÂN
HY
Thái Bình Quảng Ký
太平廣 記
Thái Bình Quảng Ký là một
tổng tập tiểu thuyết, trong " tứ đại loài thư " do Lý Phường
và Ấp Mông phụng chỉ soạn, gồm 500 quyển, và mục lục
có 10 quyển.
Tháng 3 năm 977, tức năm thái
Bình hưng quốc nhị niên Lý Phưởng vâng chiều chỉ soạn,
năm sau hoàn thành.
Vì sách soan vào năm Thái Bình
Hưng Quốc đời vua Tống Thái Tổ, nên có tên gọi như vậy
.
Thái bình Thiên Quốc tuyển
chọn từ cả các sách của Đạo tạng, và Đạo Phật, cùng
với các sách Bút Ký, Ti sử, Tiểu thuyết có đến 475 chủng,
và phân thành 94 loại và 150 tiểu loại như :
Thần Tiên, Nữ Tiên, Đạo
Sĩ, Phương Thuật, Đồng Bộc,Nô Tì, Ảo Thuật, Thần, Quỷ,
Yêu Vọng, Súc Thú, Thảo Mộc...
Thái Bình Quảng Ký, vì chuyện
gì cũng có, nên được coi là nguồn gốc cho nhiều tiểu thuyết
gia, bảo tồn được một số lớn các truyện cổ liên quan
đến các vấn đề xã hội, king tế, điển cuông, phong tục...
Lưu Nghĩa Khánh
劉 義 慶
Lưu Nghiã Khánh (403-444), tự
là Qúy Bá, là văn học gia triều nhà Tống thời Nam Triều,
theo sách Tống Thư, có truyện về ông, cho biết Lưu Nghĩa
Khánh là người giản dị, chất phác,không ham muốn nhiều,
mê say văn học nghệ thuật, đón mời bốn phương các văn
học gia tụ tập trong nhà mình.
Lưu Nghĩa Khánh là người thuộc
tông thấy của nhà Lưu Tống, tức nhà Tống (năm 420-479) thời
Nam Triều do Lưu Dụ kiến lập, và được tập tước (chứ
tước vị của cha ông) là Lâm Xuyên Vương, và từng đảm
nhậm chức Thứ Sử Kinh Châu trong tám năm, tạo được nhiều
chính tích .
Sau lại đảm nhậm chức Giang
Châu Thứ Sử, nhưng được một năm, nhân vì đồng ý trong
việc biếm chức Vương Nghĩa Khang nên bị Tống Văn Đế tức
giận, trách cứ, bị triệu hồi về kinh, và bổ nhậm làm
Nam Kinh Thứ Sử, Đô Đốc Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ty.
Đuợc ít lâu bị bệnh, xin
về hưu, năm 444 CN, đời Tống Văn Đế, Lưu Nghĩa Khánh qua
đời ở Kiến Khang (tức Nam Kinh ngày nay) .
Từ nhỏ, Lưu Nghĩa Khánh đã
nổi tiếng là người tài hoa xuất chúng , yêu thích văn học.
Về sáng tác, ngoài tác phẩm
nổi danh là " Thế Thuyết Tân Ngữ " , còn sáng tác " U Linh
Lục ", thuộc loại Chí Quán Tiểu Thuyết, trong đó có truyện
" Lưu Nguyễn Nhập Thiên Thai. ",kể truyện người gặp tiên.
Thiên Thai Sơn
天 台 山
Tức núi Thiên Thai .
-Vì chữ đải (台) có hai âm
là" thai" và "đài", nên núi Thiên Đài Sơn cũng còn gọi là
núi Thiên Thai Sơn.
Núi này nổi tiếng là nơi
danh lam thắng cảnh của Trung Quốc, là nơi bắt nguồn của
phái Phật giáo Thiên Thai Tông Trung Quốc.Núi nằm ở phía
bắc huyện Thiên Thai, tỉnh Chiết Giang.Ngọn núi chính là
Hoa Đỉnh Phong , so với mặt biển cao 1138 mét.
Ở trong dẫy núi có rất nhiều
cảnh trí tú lệ xinh đẹp như thác treo như giải lụa bạch,
nham động, chùa cổ, thanh u, suối reo, cầu đá.
Từ các triều đại Ngụy,
Tấn, Nam Bắc Triều, Thiên Thai Sơn đă được Đạo Giáo coi
là "Đất phúc động trời".Các đạo sĩ nổi tiêng như Cát
Huyền đời Tam Quốc, Đào Hoằng Cảnh thời Nam Bắc Triều,
Tư Mã Thừa Trinh, từng đến đây hái thuốc hoặc tu luyện.
-Đến đời Tùy xây Quốc Thanh
Tự, và Trí Di pháp sư đến đây sáng lập ra phái Thiên Đài
Tông.Đến năm Trinh Nguyên nhị thập niên nhà Đường , tức
năm 804 CN, có nhà sư Nhật Bản tên Tối Trừng đến Thiên
Đài học tập, và khi trở về Nhật lập ra phái Thiên Đài
Tông Nhật Bản, đồng thời mang theo hạt trà , và từ đấy
người Nhật biết uống "trà tầu".
Các bậc thi nhân danh tiếng,
các nhà danh họa, từng đến đây du lãm, và lưu lại đây
nhiều bài thơ, nhiều bức họa.
Một giải thích khác về núi
Thiên Thai, như sau :
Thiên Thai Sơn, theo nghĩa hẹp,
hiện nay chỉ dẫy núi ở huyện Thiên Thai tỉnh Chiết Giang,
thật ra, danh xưng Huyện Thiên Thai đã được Tống Thái Tổ
nhà Bắc Tống , tức Triệu Khuông Dẫn đặt tên, vào niên
hiệu Kiến Long nguyên niên, tức là năm 960.
Thiên Thai Tông
天 台 宗
Thiên Thai Tông (thai còn đọc
là đài) là một chi phái của Phật Gíao Trung Quốc,nhân vì
người sáng lập ra Thiên Đài Tông là Trí Ỷ, lấy Thiên Thai
Sơn làm cơ sở truyền giáo, đồng thời lấy Pháp Hoa Kinh
làm y cứ chủ yếu để truyền giáo.Cũng vì thế nên gọi
là Thiên Thai Tông.
Đến thế kỷ thứ 9, Thiên
Thai Tông truyền sang Nhật Bản.
Đến thế kỷ thứ 11 thì truyền
sang Triều Tiên .
Hán Minh Đế
漢 明 帝
Năm Vinh Bình Ngũ niên tức
năm 62 CN, là niên hiệu của vua nhà Hán, nà năm Lưu Nguyễn
đi hái thuốc và bị lạc vào Thiên Thai.
Hán Minh Đế (28CN-75) tên là
Lưu Trang, con thứ tư của Hán Quang Võ , làm vua từ năm 58
CN đến năm 75, làm vua được 18 năm,có một niên hiệu là
Vĩnh Bình.
Đến năm 383 CN , tức niên
hiệu Thái Nguyên thứ tám, đời vua Tấn Hiếu Võ Đế Tư
Mã Huy , Lưu, Nguyền lại đi, nhưng không biết đi đâu. (hư
cấu)
PARIS ngày 25-7-2020. Những tháng
ngày buồn cô liêu và bị cấm túc.
|