Vài
năm trước đây, có lần tôi đã làm công việc viết ký-sự
viếng thăm các phòng tranh dưới một bút danh khác, cho một
tạp chí nhỏ chuyên về mỹ thuật. Nói là viếng thăm phòng
tranh chứ thật ra, về hội hoạ thì tôi hoàn toàn là người
ngoại cuộc, do đó chẳng phải là viết những ký-sự có
tính cách chuyên môn, mà chỉ là loại thao-tác như kiểu tóm
lược một cách nhẹ nhàng về phong thái của phòng tranh, hay
ấn tượng từ hoạ sĩ chủ nhân. Chẳng phải là loại công
việc mà tôi nhiệt thành muốn làm, chỉ do tình cờ mà bắt
đầu làm đó thôi, thế nhưng kết cuộc lại trở thành một
công việc rất hứng thú. Lúc ấy cũng nhằm vào thời bản
thân tôi mới viết tiểu thuyết chưa được bao lâu, nên tôi
đã nghĩ là được gặp đủ loại người để nghe chuyện
của họ rồi ghi lại thành ký-sự thì cũng là chuyện học
hỏi rất tốt cho việc viết văn. Tôi đặc biệt chú ý kỹ
lưỡng việc người ta suy nghĩ những gì và biểu đạt những
suy nghĩ bằng lời nói như thế nào, từ đó xây dựng lại
thành văn chương của mình.
Những ký-sự ấy
đã được đăng liên tục suốt một năm. Tạp chí ấy ra
hai tháng một lần, vị chi đã đăng được sáu lần. Ban biên
tập, thật ra chỉ có mỗi một biên tập viên, giới thiệu
cho tôi vài phòng tranh có vẻ thú vị, tôi tự mình đi rảo
xem một vòng rồi chọn một phòng tranh mà viết vào ký-sự.
Mỗi bài chỉ khoảng 15 trang, mỗi trang 400 chữ Nhật, thế
mà tôi thì vụng về và vốn có tính nhút nhát, khó nói chuyện
với người lạ nên lúc đầu rất chật vật. Hoàn toàn chẳng
biết hỏi người ta chuyện gì và dàn xếp viết lại như
thế nào. Dù vậy, làm vài lần, lặp lại sai hỏng và sửa
chữa, dần dần tôi phát hiện được chút gì như là bí quyết
cho việc ấy. Tôi thấy rằng người phỏng vấn phải cố
gắng lục tìm trong người được phỏng vấn đặc điểm
gì đấy đặc sắc hơn người thường, hoặc cao thượng hơn,
mẫn tuệ hơn, hoặc nhân hậu hơn. Cho dù đặc điểm đó
có nhỏ nhặt đến đâu mặc lòng. Trong mỗi một người đời,
thế nào cũng phải có một đặc điểm trung tâm tạo nên
nhân cách của người đó. Nếu thành công trong việc lục
tìm ra điểm trung tâm ấy, thì các câu hỏi thích ứng nhất
sẽ tự nhiên mà nghĩ ra được, và nhờ đó mà viết nên
được ký-sự sống động về người ấy. Và nói ra nghe có
vẻ cổ hủ, nhưng quả thật điểm trọng yếu nhất vẫn
là tình yêu thương và sự cảm thông của con người.
Từ dạo ấy, tôi
đã làm rất nhiều cuộc phỏng vấn, nhưng hoàn toàn không
cảm thấy chút tình cảm nào đối với đối tượng phỏng
vấn thì chỉ có mỗi một lần. Đó là lần tôi đến một
đại học tư danh tiếng nọ để kiếm tài liệu viết ký-sự
thăm viếng các đại học, cho một tuần san. Tôi đã rảo
bước khắp đại học suốt gần một tuần, chỉ ngửi thấy
quyền uy, hủ bại và dối trá. Đã phỏng vấn Hiệu trưởng,
các Khoa trưởng, tổng cộng gần mười viên chức giáo dục,
mà chỉ có được một người nói chuyện nghiêm túc mà thôi.
Mà người phó giáo sư ấy vừa đệ đơn xin từ chức mới
hai hôm trước đó.
Tuy nhiên chuyện
đó thì đã qua mất rồi. Hãy trở lại chuyện phòng tranh
có vẻ ôn hoà hơn. Những phòng tranh tôi đã đi vòng vòng
để thu thập tài liệu phần nhiều nằm trong những khu phố
nhỏ không dính dáng gì đến quyền uy cả. Tôi cùng với một
nhiếp-ảnh-viên cao và lớn hơn tôi 3, 4 tuổi, làm thành một
tổ công tác, đến các phòng tranh, trong lúc tôi hỏi chuyện
chủ nhân, thì anh ấy chụp ảnh.
Lúc việc thu thập
tài liệu sắp xong cả rồi, bao giờ tôi cũng hỏi chủ nhân
phòng tranh một câu hỏi thường lệ. Rằng cho đến nay, bức
tranh nào đã làm cho ông bị kích động nhất. Câu hỏi này
không thuộc loại cao cấp bao nhiêu trong chuyện phỏng vấn.
Không khác gì câu hỏi đối với các nhà văn rằng trong tất
cả các tiểu thuyết đã đọc từ trước đến nay, ông thích
tác phẩm nào nhất; hỏi như thế thì tiêu điểm của câu
hỏi có phần bao quát, mơ hồ quá. Dễ đưa đến câu trả
lời: nhiều tác phẩm quá, không chọn ra được đặc biệt
một tác phẩm nào; hoặc một câu trả lời rất ước-lệ,
đã được nhiều người dùng đến sáo mòn rồi. Mặc dù
vậy, tôi đã lặp đi lặp lại câu hỏi ấy với mọi người
tôi phỏng vấn. Một lý do là vì tôi nghĩ đối với những
người làm công việc về mỹ thuật thì hỏi họ như thế
là hợp luận lý nhất. Lý do thứ hai là vì tôi cảm thấy
hỏi như thế có khi chạm đúng mạch để họ kể cho nghe
chuyện gì đấy thật hứng thú.
Người đã kể
cho tôi nghe chuyện bức tranh có nhan đề "Người đàn ông
đi xe taxi" là một nữ chủ nhân phòng tranh, khoảng tuổi
trên dưới 40. Không gọi được là mỹ nhân nhưng có khuôn
mặt thuỳ mị, lộ phẩm cách cao quý, làm dịu lòng người
đối diện. Cô mặc áo màu trắng đính một dải băng to bản,
cùng một chiếc váy màu xám bằng vải tuýt, mang đôi
giày gót cao màu đen thanh nhã. Chân có dị tật bẩm sinh, bước
đi trên sàn lót gỗ tạo nên những tiếng chân không đều
nhau, vang vọng trong căn phòng vắng khách.
Cô kinh doanh một
phòng tranh đặt trọng tâm vào tranh mộc bản, ở tầng trệt
của một bin-đinh ở Aoyama. Lúc bấy giờ, các tranh mộc bản
treo trên tường thì trong mắt nhìn của một tay mơ như tôi
cũng khó mà cho là loại tranh vẽ giỏi, thế nhưng tôi cảm
nhận được trong nhân cách của người chủ ấy có thứ gì
như là sức thu hút kỳ diệu khiến cho mọi sự vật chung
quanh cô có vẻ tươi đẹp hơn thực tế.
Khi mọi việc phỏng
vấn xong xuôi cả rồi, cô dọn dẹp các tách cà phê, lấy
từ trong tủ ra chai rượu vang trắng và ly thuỷ tinh, rót rượu
vào ly mời tôi và người chụp ảnh, rồi rót cho cả cô nữa.
Những ngón tay cô thon dài trông thật trẻ trung. Trong góc phòng
thấy có tấm áo choàng có vẻ là của cô, treo trên móc áo
cùng với khăn choàng bằng len ca-sơ-mia. Trên bàn làm việc
có cái chận giấy thuỷ tinh hình con vịt và một cái kéo
nhỏ màu bạc. Lúc ấy là khoảng đầu tháng 12, từ bộ loa
nhỏ gắn trên trần văng vẳng tiếng nhạc Giáng Sinh.
Cô đứng lên, đi
ngang qua phòng tranh, mang lại một hộp đựng thuốc lá. Rồi
đánh lửa từ chiếc bật lửa mỏng dài màu bạc, châm lửa
điếu thuốc, đôi môi hé ra làn khói mỏng mảnh. Nếu không
nghe tiếng giày, thì không sao nhận thấy có chút gì không
được tự nhiên trong cử động của cô.
-"Nếu cô cho phép
thì tôi xin được hỏi câu cuối cùng." Tôi nói.
-"Vâng, được chứ."
Cô đáp. Và mỉm cười.-"Nhưng mà anh nói có vẻ giống như
trong phim hình-sự trên ti-vi ấy."
Tôi cười. Người
chụp ảnh cũng cười theo.
-"Thế trong tất
cả các bức tranh cô được thấy từ trước đến nay, bức
tranh như thế nào đã tạo kích động cho cô nhất?" Tôi hỏi.
Cô im lặng, suy
nghĩ lung lắm một hồi. Rồi dụi tắt điếu thuốc vào trong
chiếc gạt tàn, và nhìn tôi: -"Tôi nghĩ là câu trả lời cho
câu hỏi ấy tuỳ thuộc vào ý nghĩa của chữ kích động.
Kích động là gì? Có phải là cảm kích về nghệ thuật,
hay chỉ là kinh ngạc, sửng sốt theo nghĩa thông thường."
-"Tôi nghĩ không
cứ phải là cảm kích về nghệ thuật mà thôi." Tôi nói:
-"Điều tôi muốn biết là cú sốc vật lý, cảm nhận thực
tế trên da thịt ấy."
-"Không có cảm
nhận thực tế trên da thịt thì nghề của chúng tôi không
thành được." Cô cười nói. -"Cảm nhận kiểu ấy thì đầy
dẫy, ở đâu cũng có. Chỉ thiếu những cảm kích về nghệ
thuật đó thôi."
Cô cầm ly rượu
lên, uống một ngụm nhỏ.
-"Vấn đề là..."
Cô nói tiếp. -"Không ai thực tâm truy cầu những cảm kích
ấy cả. Anh có nghĩ thế không? Anh viết văn, anh không cảm
thấy thế sao?"
-"Có lẽ đúng như
cô nói." Tôi đáp.
-"Điểm bất tiện
của những cảm kích về nghệ thuật ấy là ở chỗ không
thể biểu đạt cho rõ ràng bằng lời nói được. Hoặc cho
dù có biểu hiện được đi nữa, cũng trở thành những khuôn
mẫu sáo rỗng. Quy-ước, ước-lệ, cổ hủ như loài khủng
long vậy. Vì thế mà mọi người tìm kiếm những gì đơn
giản, giản tiện hơn. Những gì còn có chỗ cho họ thêm vào
biểu hiện riêng của mình, hoặc có thể thay đổi dễ dàng
nhanh chóng như dùng hộp bấm từ xa mà đổi được các kênh
ti-vi vậy. Cú sốc trên da thịt, hay cảm nhận cụ thể,...
gọi là gì cũng được cả." Cô rót rượu vào ba ly không,
và châm lửa điếu thuốc mới. -"Câu chuyện có vẻ lòng vòng
dài dòng quá nhỉ."
-"Thú vị lắm chứ."
Tôi nói.
Tiếng động nhẹ
của máy điều hoà không khí, tiếng thổi hơi của máy tăng
độ ẩm, và tiếng nhạc Giáng Sinh trộn lẫn vào nhau thành
một hoà âm đơn điệu kỳ dị.
-"Nếu không cần
phải là cảm kích về nghệ thuật hay cú sốc trên da thịt
gì cả cũng được, thì tôi có thể kể được chuyện một
bức tranh còn vương lại trong lòng tôi. Có thể phải gọi
là chuyện vướng vít quanh một bức tranh thì đúng hơn, nhưng
chuyện như thế có được không anh?"
-"Đương nhiên là
được chứ", tôi nói.
*
-"Chuyện xảy ra
vào năm 1968." Cô ấy kể. -"Nguyên là tôi định trở thành
hoạ sĩ nên đã lưu-học ở một đại học về mỹ thuật
miền Đông nước Mỹ. Nhưng sau khi tốt nghiệp, vì sinh kế
phải lưu lại New York, hay có thể nói là vì đã bỏ cuộc
khi xét lại tài năng của mình, tôi bắt đầu công việc của
người mua bán tranh. Cụ thể là đi vòng vòng các xưởng vẽ
của những hoạ sĩ trẻ hay chưa nổi tiếng ở New York, lục
tìm những bức tranh nào ngó bộ có triển vọng thì mua rồi
gởi qua các nhà buôn tranh ở Nhật. Lúc đầu thì tôi chụp
ảnh màu gửi về cho nhà buôn tranh ở Tokyo lựa chọn, rồi
tôi mua tại chỗ. Sau đó, họ tin tưởng nên giao hoàn toàn
cho tôi tự ý thẩm định và mua trực tiếp. Thêm vào đó,
dần dần tôi tạo được một mạng lưới thông tin và người
quen biết trong thế giới hội hoạ ở Greenwich Village, xóm
hoạ sĩ ở New York. Nhờ thế, tôi biết được tất cả các
thông tin, như người nào đang có hoạt động gì có triển
vọng, hay người nào đang túng thiếu tiền bạc. Greenwich Village
thời 1968 thì đáng kể lắm. Anh có biết về thời kỳ ấy
không?"
-"Lúc ấy thì tôi
còn là sinh viên." Tôi đáp.
-"Thế thì anh biết
rồi chứ gì." Cô nói, gật đầu. -"Ở đấy, thứ gì cũng
có. Quả thật là thứ gì cũng có đấy. Thượng vàng hạ
cám, có cả. Từ đồ thật trăm phần trăm cho đến đồ giả
mạo trăm phần trăm. Đối với những người trong nghề như
tôi thì Greenwich Village thời ấy quả thật là núi vàng. Chỉ
cần có được mắt nhìn chính xác là gặp được những hoạ
sĩ tài giỏi xuất chúng hay những tác phẩm tân kỳ không
thể có được ở nơi nào khác, vào thời kỳ nào khác. Thực
tế, những tác phẩm tôi đã gửi qua Tokyo thời ấy, phần
lớn bây giờ đều có giá rất cao. Giá mà hồi đó, tôi giữ
lại một số những tác phẩm ấy cho riêng mình, thì ngày
nay có thể đã giàu rồi, tiếc là thời ấy thì mình thật
là thiếu thốn tiền bạc... Đáng tiếc!"
Cô ngửa hai bàn
tay đang đặt trên đùi lên, rồi mỉm cười:
-"Duy chỉ có một
bức tranh thời ấy, chỉ có một bức thôi, tôi đã đặc
biệt mua riêng cho chính mình. Đó là bức có nhan đề "người
đàn ông đi xe taxi". Thế nhưng đáng tiếc là bức tranh
ấy chẳng phải xuất chúng về mặt nghệ thuật, hay trong
phong cách hội hoạ, mà cũng chẳng phải là tác phẩm trông
thô sơ nhưng phát tiết được mầm mống tinh hoa gì cả. Tác
giả của nó là một hoạ sĩ lưu vong vô danh người Tiệp
Khắc, chưa nổi tiếng đã tiêu tán đi đâu mất. Do thế,
tất nhiên là chẳng mong gì chuyện bán được giá cao... Thế
anh có cho là oái-oăm không? Biết chọn cho người khác toàn
là tranh có giá trị cao, thế mà cho riêng mình một bức duy
nhất thì lại chọn bức tranh hoàn toàn chẳng có giá trị
gì cả!... Nhưng hẳn là chuyện đời nó trớ trêu thế đấy."
Tôi gật gù đệm
nhịp theo để chờ nghe kể tiếp.
-"Tôi đến nhà
trọ của hoạ sĩ ấy vào một buổi chiều tháng Chín năm
1968. Vừa dứt cơn mưa, toàn thành phố New York hừng nóng như
trong nồi luộc. Tôi không còn nhớ tên người hoạ sĩ ấy.
Như anh biết, tên họ những người hệ Đông Âu, nếu không
chuyển theo lối Mỹ thì rất là khó nhớ. Giới thiệu người
ấy cho tôi, là một sinh viên hội hoạ người Đức trọ cùng
chỗ với tôi. Anh ta gõ cửa phòng tôi và bảo: -"Nầy Toshiko,
có người hoạ sĩ tôi quen đang túng tiền lắm. Nếu được
thì ngày mai ghé đến xem giúp tranh của anh ấy, được không?"
Tôi đáp: -"OK. Nhưng anh ấy có tài đấy chứ?". Anh ta trả
lời: -"Có lẽ không tài giỏi gì mấy. Nhưng là người tốt."
Thế là chúng tôi đã đến phòng trọ của người hoạ sĩ
kia. Greenwich Village thời bấy giờ có chỗ như thế đấy.
Nói thế nào nhỉ... Cùng ghé vai vào đỡ đần cho nhau một
tí đấy mà."
*
Trong căn phòng trọ
bẩn thỉu kinh khiếp của người Tiệp Khắc ấy, cô đã được
cho xem chừng 20 bức tranh. Người Tiệp Khắc ấy 27 tuổi,
vượt biên lưu vong đâu ba năm trước, và vừa mới đến
Mỹ. Đã sống ở Vienna một năm trước khi đến New York. Để
lại vợ và con còn thơ ấu ở Prague. Anh ta ban ngày vẽ tranh
trong phòng trọ, tối đến thì ra quán ăn Thổ Nhĩ Kỳ mà
làm việc. Anh ta nói: -"Ở Tiệp Khắc không có tự do biểu
hiện", nhưng cô nghĩ có một thứ còn cần thiết cho anh ta
hơn cả tự do biểu hiện nữa. Như anh sinh viên hội hoạ
người Đức đã nói, anh ta thiếu thứ gọi là tài năng.
"Đáng lẽ anh
ta nên ở lại Prague". Cô nói thầm trong lòng.
Tranh của người
Tiệp Khắc ấy, về kỹ thuật thì có đôi chỗ đáng xem.
Nhất là cách phối sắc có chỗ tạo được sự chú ý. Đôi
nét kỹ xảo. Nhưng chỉ có thế thôi. Từ mắt nhìn của người
chuyên nghiệp thì tranh anh ta đến đấy là hết. Không có
được sự trải rộng của ý thức. Chấm dứt ở đường
cụt chứ không có được cả vòng cung để vòng ra nữa. Ngõ
cụt bít kín đầu. Chỉ có thế.
Cô liếc mắt sang
người bạn Đức. Vẻ mặt anh ta cho cô biết kết luận không
cần nói ra của anh ta cũng giống của cô thôi. Chỉ có thế.
Trong lúc người Tiệp Khắc ấy thẫn thờ đưa đôi mắt bất
an dõi theo từng cử chỉ, động tác của cô.
Định nói lời
cảm ơn để rút lui khỏi phòng trọ của người Tiệp Khắc
ấy, bất chợt mắt cô bị cuốn hút vào một bức tranh đặt
bên cửa phòng. Bức tranh khung chữ nhật cỡ một màn hình
ti-vi 48cm. Khác với mọi bức kia, bức tranh này có hơi thở
đời sống. Không rầm rộ lắm, chỉ là chút sống động
nhỏ nhoi, nhìn chăm chú một hồi thì có vẻ thoi thóp như
sắp tiêu tán đi mất. Nhưng có nhỏ nhoi đến thế đi nữa,
cũng vẫn là hơi thở sống thực trong bức tranh ấy. Cô nhờ
người Tiệp Khắc ấy dồn tất cả các tranh khác vào góc,
chừa lại một khoảng trắng trống trên tường, treo bức
tranh kia lên mà ngắm chăm chú.
-"Đây là bức tranh
đầu tiên tôi vẽ khi đến New York." Người Tiệp Khắc bồn
chồn nói vội vã: -"Đêm đầu tiên khi đến New York, tôi đứng
ở góc đường Times Square, ngắm đường phố hàng giờ. Rồi
về phòng, vẽ xong trong một đêm."
*
Đó là bức vẽ
một người trai trẻ ngồi ghế sau trong xe Taxi. Nói theo góc
nhìn máy chụp ảnh thì ống kính đặt ngay giữa ghế trước,
mở toang góc rộng nhất để thu hình chàng trai ấy. Mặt chàng
nhìn nghiêng, mắt trông ra ngoài cửa sổ. Đẹp trai. Trang phục
dạ hội, áo sơ mi trắng đúng kiểu nghi lễ, cà-vạt bướm
màu đen, khăn choàng trắng, đỏm dáng như điếm đực nhưng
thực ra không phải. Chàng thiếu chút gì đấy để là điếm
đực. Nói ngắn gọn là chàng thiếu vẻ đói khát cô đọng
của loài điếm.
Tất nhiên ở chàng
ta không phải là không có vẻ khao khát. Bởi ở đâu mà có
được một chàng trai trẻ không khao khát gì đấy? Có điều
trong chàng trai này, nỗi khao khát ấy có vẻ mơ hồ quá, người
chung quanh nhìn vào, hay chính từ mắt chàng nhìn đến, lại
thấy giống như một loại quan-điểm đang còn phát triển
chưa định hình. Như ráng chiều màu xanh. Hiểu là có đấy
nhưng không nắm bắt được. Và cũng như ráng chiều màu xanh,
bóng đêm bao phủ chiếc taxi. Từ cửa sổ bằng kính phía
sau xe taxi, nhìn thấy màn đêm. Chỉ màn đêm thôi. Màu đen
và màu tím chảy loang vào màu xanh đêm. Màu thật trang nhã.
Trang nhã mà nồng hậu, như dòng nhạc của ban hoà tấu Duke
Ellington. Nồng hậu đến nỗi chỉ chạm nhẹ tay vào, năm
ngón tay liền bị hút trọn vào bên trong.
Chàng trai mặt nhìn
nghiêng. Nhưng thật ra chẳng ngắm gì cả. Cho dù có gì phía
bên kia cửa sổ bằng kính đi nữa, phong cảnh ấy cũng không
để vết cào xé gì trong lòng chàng. Chiếc xe không ngừng
di động.
<Chàng trai
ấy đang đi đâu? Chàng trai ấy đang về đâu?>
Bức tranh chẳng
cho biết chút gì cả. Chàng trai bị bao bọc trong dạng hạn
chế của xe taxi. Xe taxi nằm trong nguyên tắc cố hữu là sự
di động. Nên phải di động. Đi đâu hay về đâu cũng chẳng
sao cả. Đâu lại chẳng được. Chỉ là lỗ hổng tối đen
hở ra trên bức tường to rộng. Đó là cửa vào, mà cũng
là cửa ra. Và chàng trai đang nhìn vào bóng tối đen ấy. Môi
chàng khô, như đang thèm khát vô cùng một điếu thuốc. Nhưng
vì lý do gì đấy, điếu thuốc lại ở nơi xa tắp, tay chàng
không với tới. Xương gò má nhô lên, cằm lõm xuống, nét
lõm của bạo lực. Ở đó có bóng đen như một vết thương.
Bóng đen dấu vết của cuộc chiến đấu âm thầm trong một
thế giới vô hình. Chiếc khăn choàng trắng đang phủ lên
che đầu mút vết thương.
*
-"Kết cuộc, tôi
đã trả 120 Mỹ kim để mua bức tranh ấy cho riêng mình. 120
Mỹ kim cho một bức tranh cũng chẳng phải là một khoản tiền
lớn lắm, thế nhưng lúc bấy giờ đối với tôi vẫn là
một món chi phí khá đau. Dạo ấy, tôi lại đang mang thai,
mà chồng tôi lại không có việc làm. Anh ấy là kịch sĩ
chưa nổi tiếng, có việc làm thì cũng không thu nhập được
bao nhiêu. Phần lớn sinh hoạt phí là do tôi làm ra cả."
Cô ngừng kể, lại
nhắp một ngụm rượu vang như để nhớ lại ngày xưa.
-"Thế cô thích
bức tranh ấy lắm à?" Tôi ướm hỏi.
-"Bức tranh thì
tôi không thích gì mấy." Cô đáp. -"Bức tranh tự nó thì như
tôi đã nói, chỉ là trò tay mơ, có thêm được chút râu ria
mà thôi. Tệ thì không tệ nhưng giỏi thì cũng chẳng giỏi
gì. Tôi chỉ thích nhân vật trong tranh là chàng trai trẻ ấy
thôi. Tôi mua bức tranh chỉ để ngắm chàng trai ấy. Có thế
thôi. Người Tiệp Khắc ấy rất mừng vì bức tranh của anh
ta được đánh giá tốt, còn người sinh viên Đức thì có
phần kinh ngạc. Nhưng cả hai sẽ chẳng bao giờ hiểu được
ý tôi, vì lý do gì mà tôi lại mua bức tranh ấy."
Băng nhạc Giáng
Sinh đến đấy là hết, nghe một tiếng "cạch" rồi
chìm vào im lặng sâu thẳm. Cô ấy đan ngón tay vào nhau trên
chiếc váy vải tuýt.
-"Lúc ấy tôi 29
tuổi. Nói có vẻ ước-lệ thì tuổi thanh xuân sắp sửa chấm
dứt. Tôi sang Mỹ để mong thành hoạ sĩ, mà kết cuộc không
thành được. Tay tôi không giỏi được đến mức mắt tôi
mong thấy. Tôi đã không sáng tạo được gì từ hai bàn tay
mình. Mà chàng trai trong bức tranh ấy... không hiểu sao tôi
cảm thấy là một phần đã mất đi trong cuộc đời của
tôi. Tôi mang bức tranh về treo lên tường phòng trọ, mỗi
ngày nhìn thấy nó mà sống. Mỗi lần nhìn chàng trai trong
tranh, tôi lại thấm thía nỗi mất mát to lớn của mình. Mà
có lúc lại cảm thấy nỗi mất mát ấy nhỏ nhoi như thế
nào.
Chồng tôi hay chế
giễu tôi rằng hẳn là em đã mê anh chàng kia rồi. Anh ấy
nghĩ thế vì thấy tôi cứ im lặng, ngắm đăm đăm bức tranh
ấy. Nhưng anh ấy hiểu sai rồi. Đối với chàng trai kia, tôi
chỉ có chút tình cảm gọi là lòng thương xót mà thôi. Không
phải là đồng tình, đồng cảm, mà chỉ là chia sẻ một
nỗi buồn giữa hai con người. Anh hiểu thế chứ nhỉ?"
Tôi im lặng gật
đầu.
-"Cứ ngắm mãi
chàng trai đi xe taxi ấy trong một thời gian dài như thế, đến
lúc nào đó chàng trai ấy đã trở thành một thứ phân-thân
đối với tôi. Chàng hiểu được tâm tình tôi. Tôi hiểu
được tâm tình chàng. Tôi lý giải được nỗi bi ai của
chàng. Chàng bị giam kín trong chiếc xe taxi gọi là sự phàm
tục ấy. Không sao thoát ra được. Vĩnh viễn không thoát được.
Sự phàm tục chôn sống chàng trong đó, chôn chàng chặt trong
quan tài phàm tục ấy. Anh có nghĩ là chuyện buồn thảm lắm
không?"
Cô ngậm chặt môi,
im lặng một hồi. Rồi nói tiếp:
-"Chuyện là như
thế. Chẳng có cảm kích về nghệ thuật hay kích động gì
cả. Cũng chẳng có sốc cảm tính hay trên da thịt gì cả.
Nhưng nếu anh hỏi là bức tranh nào để lại dấu vết rõ
nhất trong lòng tôi, thì chỉ có mỗi một bức nầy thôi.
Chuyện như thế có đủ cho anh không?"
-"Cho tôi hỏi một
câu." Tôi nói. -"Thế cô còn giữ bức tranh ấy không?"
-"Tôi không giữ
nó lại." Cô trả lời ngay. -"Mà đã đốt bỏ đi rồi."
-"Lúc nào thế?"
-"Năm 1971 đấy.
Tháng 5 năm 1971. Cảm thấy như chỉ mới đây thôi, nhưng thật
ra là đã gần 10 năm trước rồi đấy. Bao nhiêu là chuyện
đã chồng chất lên nhau, vợ chồng tôi ly dị, tôi trở về
Nhật. Bỏ cả con lại. Chi tiết thì xin giản lược, vì tôi
không muốn nhắc đến. Lúc bấy giờ, tôi đã muốn vất bỏ
tất cả. Toàn bộ. Tất cả những gì trên mảnh đất ấy,
đã thu hút tôi, như mơ mộng, hy vọng, tình yêu, kể cả những
hình ảnh còn sót lại của chúng nữa. Tôi đã mượn xe tải
của người bạn, chất lên tất cả mọi thứ trong phòng trọ,
mang ra bãi trống mà tưới dầu hoả vào đốt sạch. Bức
tranh "người đàn ông đi xe taxi" cũng nằm trong số đó.
Tình cảnh ấy có vẻ hợp với loại nhạc thương cảm đấy
nhỉ?"
Cô cười tươi,
khiến tôi cũng mỉm cười theo.
-"Tranh đốt đi
thì tôi cũng chẳng tiếc. Nghĩ là để giải phóng chính mình
mà cũng vừa giải phóng cho chàng trai ấy nữa. Chàng cháy
lên mà được giải phóng khỏi quan tài phàm tục ấy. Tôi
đốt cháy chàng, và đốt cháy một phần của chính mình.
Vào một buổi chiều đẹp trời, tâm hồn thư thái, tháng
5 năm 1971. Sau đó, tôi trở về Nhật. Và từ đó..." Cô nói,
vừa giương tay chỉ một vòng quanh phòng. -"Như anh thấy đây,
tôi kinh doanh phòng tranh này. Công việc song suốt. Tôi thì,
nói thế nào nhỉ, có lẽ có tài buôn bán. Hiện nay thì chỉ
có một mình, nhưng cũng chẳng hề gì. Vẫn vui sống theo cách
của tôi. Thế nhưng, câu chuyện
người đàn ông đi xe taxi
ấy chẳng phải chấm dứt trên bãi đất trống ở New York
vào buổi chiều tháng 5 năm 1971 ấy đâu nhé. Còn hồi sau
nữa đấy."
Cô lấy điếu thuốc
trong hộp Players ra, châm lửa. Người chụp ảnh đằng hắng.
Tôi sửa người trên ghế. Khói thuốc thong thả bay lên, loãng
ra rồi tan đi theo hơi gió từ máy điều hoà không khí.
-"Mùa hè năm ngoái,
tôi đã gặp chàng trên đường phố ở Athene. Chàng trai ấy
đấy. Chàng trai trẻ trong bức tranh "người đàn ông đi
xe taxi" ấy. Không sai lầm vào đâu được. Quả đúng là
chàng rồi. Tôi đã tình cờ mà ngồi chung vói chàng trên ghế
sau xe taxi ở Athene đấy.
*
Chuyện hoàn toàn
tình cờ. Cô đang đi du lịch, khoảng 6 giờ chiều, trên xe
taxi trước quảng-trường Egypt ở Athene hướng đến đại
lộ Vassilissis Sofias, lúc đi ngang quảng trường Omonia thì có
một người đàn ông trẻ tuổi lên xe ngồi vào ghế bên cạnh
cô. Ở Athene, chỉ cần hướng đi giống nhau thì taxi tha hồ
lấy thêm khách đi xe chung.
Chàng trai dong dỏng
cao và rất là đẹp trai. Mặc dù đang là mùa hè ở Athene,
chàng vẫn mặc một bộ đồ dạ hội, thắt cà-vạt bướm.
Có vẻ đang trên đường đến một dạ tiệc lớn. Từ đầu
đến chân trông giống y hệt chàng trai trong bức tranh cô đã
mua ở New York, không sai tí nào. Cô bàng hoàng một lúc như
mình đã nhìn lầm một cách ngốc nghếch. Như đã nhảy vào
một nơi không đúng chỗ, không đúng lúc. Cảm thấy toàn
thân như đang nổi lơ lửng đến mười cen-ti-mét cách mặt
đất. Trong đầu trắng bệch, phải mất lâu lắm cô mới
quay trở lại được tình trạng bình thường.
-"Chào cô." Chàng
trai vừa mỉm cười vừa chào hỏi cô.
-"Chào anh." Cô đáp,
như phản xạ.
-"Cô là người
Nhật Bản phải không nào?" Chàng trai nói tiếng Anh thật lưu
loát. Cô im lặng gật đầu.
-"Tôi đã đến
Nhật Bản một lần." Chàng nói. Những ngón tay vươn thẳng
trong không như đang đo lường chiều dài của khoảng im lặng.
-"Đi trình diễn đấy."
-"Trình diễn gì
thế?" Cô thốt lên, trong cảm giác còn hoang mang.
-"Tôi là một tài
tử của Đoàn Kịch Quốc Gia Hy Lạp. Chắc cô biết về kịch
cổ điển Hy Lạp chứ nhỉ? Euripides, Aeschylus, Sophocles, vân
vân..."
Cô gật đầu.
-"Nghĩa là Hy Lạp
đấy. Những gì cổ điển thì hơn người." Chàng nói, mỉm
cười, rồi ngưng câu chuyện một lúc, quay ngang chiếc cổ
thon thả, ngắm phong cảnh bên ngoài cửa sổ. Nghe chàng bảo
thế thì trông chàng chẳng còn gì khác hơn là một tài tử.
Chàng đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ, im lìm, chẳng động
đậy gì như thế một hồi lâu. Đường Stadiou đông nghẹt
những xe đi làm về. Xe taxi chỉ có thể nhích tới từng khoảng
chậm rãi, nhưng chàng trai vẫn điềm nhiên ngắm những cửa
sổ bày hàng của tiệm buôn, hay bảng quảng cáo của rạp
chiếu phim.
Cô gắng hết sức
chỉnh lý đầu óc mình. Gắng xếp hiện thực vào hẳn trong
khuôn khổ hiện thực, còn tưởng tượng thì vào hẳn trong
khuôn khổ tưởng tượng. Thế nhưng tình thế vẫn không thay
đổi chút nào. Cô đang ngồi ngay bên cạnh chàng trai trong
bức tranh ấy, trong chiếc xe taxi ở Athene, tháng Bảy. Không
còn gì lầm lẫn được cả.
Thế rồi xe cũng
qua hết đường Stadiou, xuyên qua bên cạnh quảng trường Syntagma,
chạy vào đại lộ Sofias. Chỉ còn độ 2, 3 phút nữa là đến
khách sạn của cô. Chàng trai vẫn còn im lặng ngắm quang cảnh
bên ngoài cửa kính. Làn gió nhẹ thư thái của hoàng hôn lay
động gợn tóc mềm của chàng.
-"Xin anh tha lỗi."
Cô gợi chuyện. -"Anh sắp đi dạ tiệc đấy phải không?"
-"Vâng, đúng thế."
Chàng quay lại phía cô và
nói. -"Dạ tiệc lớn lắm. Đủ
loại khách, và rượu thì tràn đầy ra đấy. Hẳn là vui đùa
cho đến sáng. Nhưng tôi sẽ bỏ về nửa chừng."
Taxi ngừng trước
khách sạn, người phục vụ đến mở cửa xe.
-"Chúc cô du lịch
vui vẻ." Chàng trai nói bằng tiếng Hy Lạp.
-"Cảm ơn anh." Cô
đáp lễ.
*
Cô đứng nhìn theo
chiếc taxi biến dạng vào dòng xe lũ lượt buổi chiều tối,
xong quay bước vào khách sạn. Bóng đêm nhạt nhoà như bị
làn gió thổi trôi lang thang trên thành phố. Cô vào quán rượu
trong khách sạn, ngồi uống ba ly Vodka Tonic. Trong quán vắng
lặng không có bóng người khách nào khác, chừng như bóng
u ám của hoàng hôn chưa vào đến bên trong. Cô cảm thấy
như một phần của mình đã bị bỏ quên mất trong xe taxi
ấy rồi. Một phần của chính cô vẫn còn ngồi ghế sau của
xe taxi, đang cùng người tài tử trai trẻ ấy hướng đến
một chỗ dạ tiệc nào đấy. Cảm giác còn sót lại chênh
vênh như cô vừa bước ra khỏi chiếc thuyền chồng chềnh,
và vừa mới đứng được trên mặt đất kiên cố. Thân xác
dao động, thế giới ngừng lại.
Một lúc rõ lâu
đến không nhớ ra được là bao lâu, cơn dao động ấy qua
đi, trong cô đã có chút gì đấy tiêu tan vĩnh viễn. Cô cảm
nhận được rõ ràng như thế. Chút gì đấy đã chấm dứt.
-"Chàng ta đã hướng
về tôi, nói một lời cuối cùng cho đến bây giờ vẫn còn
hằn rõ trong tai tôi.
Chúc cô du lịch vui vẻ." Cô nói,
vừa đặt hai tay lên đùi. -"Anh có nghĩ là lời chúc ấy tuyệt
vời không? Mỗi lúc nhớ đến lời ấy, tôi lại nghĩ như
thế này. Đời tôi đã mất đi nhiều phần rồi, có mất
thêm chút ấy nữa cũng chỉ là một phần nữa thôi, nhưng
bù lại, từ đây về sau, chắc chắn tôi vẫn còn gặp được
những gì đấy lưu lại lâu dài cho đời mình."
Cô thở ra, môi
nhếch một nụ cười mỉm. -"Và câu chuyện người đàn
ông đi xe taxi đến đây là chấm dứt. Chỉ có thế thôi.
Chuyện dài dòng quá, xin anh tha lỗi."
-"Không đâu. Chuyện
thú vị lắm chứ." Tôi và người chụp ảnh cùng đáp thế.
-"Câu chuyện nầy
cho tôi một bài học." Cuối cùng, cô ấy nói. -"Một bài học
quý giá chỉ có thể tự mình thể nghiệm mới có được
mà thôi. Đó là: Con người không thể tự mình xoá mất đi
điều gì cả. Mà phải kiên nhẫn chờ đợi cho điều ấy
tiêu tán đi thôi. Bài học như thế đấy."
Câu chuyện của
cô chấm dứt ở đấy.
Tôi và người chụp
ảnh uống cạn ly rượu vang, cảm ơn cô rồi rời khỏi phòng
tranh. Tôi đã gắng ghi lại chuyện cô kể vào bản thảo,
nhưng lúc bấy giờ vì thiếu chỗ trên trang báo nên đã không
thành ký-sự trong tạp chí ấy được. Vì thế, đến bây
giờ có thể đăng lên với hình thức như thế này, tôi an
tâm là đã làm xong một chuyện canh cánh bên lòng.
Truyện ngắn "Người Ðàn
Ông Ði Xe Taxi" là truyện thứ 8 trong tập truyện "Người Ti-Vi"
từ Nhà xuất bản Ðà Nẵng, tháng 3 năm 2007, dịch từ nguyên
tác "Takushi ni notta otoko" đã đăng trong Tuyển tập "Kaiten Mokuba
no Deddo Hi-to - Carousel's Dead Heat - Chạy Ðua Sát Nút Trên Vòng
Quay Ngựa Gỗ" tháng 10 năm 1985. |