Ngoài
trời gió nhè nhẹ thổi, những chiếc lá mùa thu đang lãng
đãng rơi rơi. Cái lành lạnh của gió heo may bên ngoài như
đang hòa nhịp thở với những điệu nhạc "tiền chiến" mà
tôi đang thưởng thức trong phòng đọc sách, một căn phòng
đầy ấm cúng thương yêu. Cành trà hoa nữ ngoài cửa sổ,
với bông hoa trắng ngần, theo gió cọ vào cửa kính như chú
mèo con đang dụi đầu tìm sự yêu thương của chủ.
Bốn bề tĩnh lặng, chỉ còn
tiếng nhạc như đang dìu đưa tôi vào thế giới của riêng
mình, mà ở nơi đó, những âm thanh được pha trộn hài hòa
của những tha thiết, lãng mạn, trữ tình cùng với những
chia lìa, xa cách. Và cũng từ thế giới ấy, âm thanh đang
đưa tôi đi xa mãi, đi mãi để trở về với những kỷ niệm
của một thời ấu thơ, hay những hình ảnh của những cuộc
tình ngây ngô tuổi học trò, hay của những biệt ly lẫn đoàn
tụ ... của hạnh phúc lẫn đau thương.
Đĩa nhạc "tiền chiến" vẫn
cứ quay, âm thanh và hình ảnh có lúc bay bổng, bay vút lên
cao rồi hạ thấp, chập chờn trong không trung, ẩn hiện trong
làn mưa bụi của bầu trời ngả mầu trắng đục. Các bạn
có thường thưởng thức những bản nhạc tiền chiến như
tôi đang thưởng thức không? Trong lứa tuổi chúng ta, hẳn
không ai đã không một lần hoặc nhiều lần thưởng thức.
Tôi đoan chắc như thế.
Vậy nhạc tiền chiến là nhạc
gì nhỉ? Cứ hiểu theo nghĩa thông thường của nó thì nhạc
tiền chiến hẳn là loại nhạc được viết từ trước chiến
tranh. Nhưng trước cuộc chiến tranh nào? Thế chiến 1939-1945
hay cuộc chiến 1945-1954 hay 1954-1975? Tôi cứ tạm chia như thế.
Tôi có câu hỏi như thế vì
có nhiều bản nhạc viết sau này, người ta vẫn xếp nó vào
loại nhạc tiền chiến, vì nó có cái "air" tiền chiến như
nhạc sĩ Tô Vũ nói về bản nhạc "Em Đến Thăm Anh Một
Chiều Mưa" của ông. Ông nói, bản nhạc này có cái "air"
của nhạc tiền chiến thôi, vì thực sự, khi ông viết nó,
chiến tranh đã xẩy ra rồi. Đấy là ông Tô Vũ nói về cái
mốc thời gian của cuộc chiến 1945-1954. Nếu ta lấy mốc
ở cuộc chiến 1954-1975 thì bản nhạc đó quả thực là nhạc
tiền chiến ở cái mốc thời gian này. Thôi thì ta cứ lấy
mốc thời gian nào đó cho hợp với bản nhạc thì lấy, cho
rộng đường nói chuyện và cho vui vẻ cả làng.
Như vậy, khi nói đến nhạc
tiền chiến là ta muốn nói đến cái âm hưởng của loại
nhạc này hơn là chỉ chuẩn định trên cái mốc thời gian
của nó thì phải? Cái "air" của nó có lẽ dựa trên tính
chất nhẹ nhàng, lãng mạn, trữ tình, hay bi ai, và đặc biệt
là nó thiên về loại nhạc thính phòng và mang nhiều chất
thơ. Tôi nói như thế vì có nhiều bản nhạc được viết
trước chiến tranh (1939-1945 hay 1945-1954) mà không được liệt
kê vào loại nhạc tiền chiến như những bản "Trên sông
Bạch Đằng" của Hoàng Quý, "Việt Nam bất diệt"
của Hoàng Gia Linh, "Hè về" của Hùng Lân, "Khỏe vì
nước" hay những bản nhạc thuộc loại quân ca chẳng hạn
.
Tôi cũng chẳng biết danh từ
nhạc tiền chiến có tự bao giờ? Tôi chỉ xin mở dấu ngoặc
ở đây bằng một trích đoạn: "Ảnh hưởng văn hóa Pháp
đã trở nên rõ rệt vào thập niên 1930 và theo nhạc sĩ Phạm
Duy coi năm 1938 là năm quan trọng cho nền nhạc mới vì là
năm khai sinh ra nhạc cải cách. Và cũng chính năm 1938, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Tuyên, tác giả bản "Kiếp hoa" đã từng đi
du thuyết cổ võ cho nền nhạc mới được các báo chí như
tờ Ngày Nay đăng tải, ông gọi loại nhạc mới này là nhạc
cải cách" (dựa theo lời ông Bùi Bảo Trúc trong một chương
trình nhạc thính phòng tổ chức ở San Jose).
Những bản nhạc tiền chiến
đã đi sâu vào lòng người Việt Nam từ nhiều thế hệ, vẫn
còn tồn tại đến bây giờ và cả mai sau, do đó nhạc tiền
chiến tự nó có chỗ đứng rất quan trọng trong nền âm nhạc
Việt Nam. Nói như thế, những nhà nghiên cứu âm nhạc tìm
hiểu về nhạc tiền chiến cũng là tìm hiểu một phần khá
lớn của "âm nhạc mới" nước ta.
Âm nhạc cũng là một bộ môn,
ta có thể dựa vào đó để biết tiến trình sinh hoạt của
một xã hội vào những thời điểm khác nhau. Từ những năm
đầu của thế kỷ 20 đến nay, đất nước ta có nhiều thay
đổi, nhất là chịu ảnh hưởng nền văn hoá Tây phương,
ắt hẳn những đổi thay ấy phải ảnh hưởng đến nền
âm nhạc của ta. Và ngược lại, sự tìm hiểu về âm nhạc
Việt Nam trong thời kỳ "tiền chiến" cũng là một phần trong
sự tìm hiểu tiến trình thay đổi của xã hội ta trong thời
kỳ ấy.
Trong khuôn khổ như những lời
tâm sự cùng các bạn bè trong phạm vi bằng hữu, tôi chỉ
muốn xin được chia sẻ với các bạn về những cảm xúc
mà tôi có được khi nghe vài bản nhạc tiền chiến chứ không
nói về sự phân loại, phẩm chất, cấu trúc, lịch sử hình
thành của những bản nhạc ấy cũng như không nói về âm
nhạc Việt Nam vì đấy không phải là lãnh vực mà tôi am
hiểu. Chúng ta hãy cùng nghe một vài bản nhạc tượng trưng
có tính cách phổ thông, dễ nghe, dễ hiểu, và cũng dễ nhận
ra những nét đặc thù của nó biến thiên theo cảm xúc của
mình.
Trước hết, ta hãy nghe bản
"Đêm đông" của nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương để chúng
ta cùng rung cảm với nỗi lòng cô đơn của ông. Trong một
băng nhạc, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương đã tâm sự là ông
viết bản nhạc này khi ông đi dọc theo phố Khâm thiên, Hà
nội, vào chiều tối 30 Tết. Phố Khâm thiên là con phố có
nhiều cô đầu còn gọi là ả đào hay ca nhi. Các cụ ta xưa
thường đến đây để nghe hát ả đào (hay ca trù). Ông chợt
bắt gặp, qua bóng dáng cô đơn của người ca nhi đứng đợi
khách ngoài ngưỡng cửa rồi quay vào soi bóng mình trong gương,
nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương liền liên tưởng tới hòan cảnh
của ông lúc đó, nhà ở Huế, ra Hà nội học, một mình đi
lang thang giữa lòng thành phố. Ông nhớ nhà ghê lắm. Ông
mượn hình bóng lẻ loi của người ca nhi đó để nói lên
tâm sự cô đơn của mình, ông viết :
Đêm đông, ca nhi
đối gương, riêng sầu ôm bóng.
Hình bóng ca nhi ấy, thoáng hiện
ra, nhưng biến đi rất nhanh để nhường chỗ cho hình bóng
của một chinh phụ chờ chồng như chính ông đang hướng trông
về người thân ở chốn xa xôi.
Đêm đông, xa trông
cố hương buồn lòng chinh phu,
Đêm đông, bên sông ngẩn
ngơ, kìa ai mong chồng.
Ông đi, đi lững thững dưới
đêm đông mưa phùn gió bấc với tiếng chuông buông từ xa
vọng lại. Âm thanh buồn bã xa thẳm ấy như quyện lấy hình
ảnh của những con chim đang bay về một phương trời vô định
cùng với những đám mây xám hạ ngang lưng trời. Những tiếng
gió rít ào ạt cuốn hút trong cơn lốc xoáy là chất liệu
tạo nên những âm thanh dồn dập của dòng nhạc như đang
vang vọng lên những lời nấc nghẹn:
Gió nghiêng chiều
say, gió lay ngàn cây, gió nâng thuyền mây,
Gió reo sầu tư, gió đau
niềm riêng, gió than triền miên.
Cái buồn da diết của kẻ xa
nhà như ông, trong mỗi câu, ông đều réo gọi quê hương,
réo gọi mái ấm gia đình ở phương trời xa:
Đêm đông, ôi ta
nhớ nhung đường về xa xăm
Đêm đông, ta mơ giấc mơ
gia đình yêu đương
Đêm đông, ta lê bước
chân phong trần tha phương,
Có ai, thấu tình cố lữ,
đêm đông không nhà.
Ta thấy ông cứ nhắc đi nhắc
lại mãi tiếng "đêm đông", ắt hẳn trong ông, đêm đông
chính là hình ảnh làm ông xúc động và thổn thức. Âm thanh
đêm đông được ông diễn tả như có lúc nó lên thật cao,
có lúc nó trầm xuống, có lúc lại kéo dài ra lê thê, mệt
mỏi, như nghẹn ngào, nức nở làm chùng lòng những người
xa gia đình, xa quê hương như ông.
Trong bản nhạc Đêm đông,
cái mà mọi người yêu thích, chính là bên cạnh cái hay của
âm điệu, của lời ca, nó còn mang tâm trạng của chính chúng
ta, ít nhất một lần trong đời, đã rơi vào hoàn cảnh như
ông. Và trong hoàn cảnh ấy, bản nhạc không còn là của Nguyễn
Văn Đông nữa, mà chính là tiếng kêu não lòng của chính
chúng ta để thương mình và cũng để thương người. Bản
Đêm đông là bản nhạc tiêu biểu mượn những hình
ảnh thiên nhiên, như cảnh mưa gió trong đêm đông, để gửi
gấm tâm sự cô đơn của mình.
Hãy nghe thêm tâm sự của một
nhạc sĩ khác nữa đã mượn cảnh mưa rơi để gửi gấm
tâm sự lẻ loi của mình qua bản "Tiếng thời gian" của
nhạc sĩ Lâm Tuyền. Âm điệu của bản nhạc này rất nhẹ
nhàng, thánh thót, lõng thõng, nhỏ giọt như tiếng mưa rơi
rả rích, như tiếng chuông buồn điểm trong đêm đông vắng
lạnh, như tiếng lá cây rơi rụng trong sương mờ, như tiếng
gõ đủng đỉnh của chiếc đồng hồ quả lắc mà đó chính
là những tiếng của thời gian êm ả trôi đi buồn bã.
Mưa rơi hiu hắt ai
sầu mùa đông
Không gian u ám, sương mờ
mờ buông
Xa trong đêm vắng, chuông
buồn nhẹ ngân
Kìa đường xưa rét mướt,
bên sông ngừng chân
Chờ ai trong tê tái lắng
nghe chuông than
Thời gian trôi tan tác, mang
theo ngày xuân
Mưa đêm nay khóc thầm,
cuộc đời đầm ấm đã theo thời gian.
Không phải chỉ có hình ảnh
của mưa gió mới gợi lên được cái cô đơn mà thôi, người
nhạc sĩ còn dùng những hình ảnh khác nữa như nhạc sĩ Đặng
Thế Phong đã mượn giọt mưa mùa thu với hình ảnh con chim
non trong bản nhạc "Giọt mưa thu", hình ảnh con thuyền trong
"Con thuyền không bến", hay như nhạc sĩ Văn Cao dùng nhân vật
dân gian trong bản nhạc "Trương Chi" để bầy tỏ nỗi lòng
cô đơn của mình.
Trong nhạc tiền chiến, tính
chất bi ai thương cảm của chia lìa cũng được khai thác mà
bản "Biệt ly" của nhạc sĩ Doãn Mẫn là một tiêu biểu.
Nhạc sĩ Doãn Mẫn viết bản nhạc "Biệt ly" này khi ông nhìn
thấy một cảnh biệt ly của đôi trai gái bên bến sông. Ông
viết bản nhạc này khi ông 20 tuổi, vào năm 1938 hay1939 thì
phải. Thật là day dứt khi nghe ông diễn tả :
Ôi còi tầu như xé
đôi lòng.
Và mây trôi, nước trôi,
ngày tháng trôi, cùng lướt trôi.
Biệt ly sao mà buồn vậy! Cái
gì cũng trôi đi mất cả, mất cả mây, mất cả gió, mất
cả thời gian lẫn không gian. Tất cả như trôi đi và trôi
đi thật xa. Cũng như Trịnh Công Sơn sau này cũng viết một
đoạn trong bản nhạc "Có một dòng sông đã qua đời". Trong
bài này, khi mất người yêu, TCS cũng thấy mất hết, mất
ngay cả dòng sông đang chảy trước mặt mình, dòng sông như
đã qua đời.
Ta hãy nghe nhạc sĩ Doãn Mẫn
làm chúng ta buồn da diết khi ông viết :
Mấy phút bên nhau
rồi thôi. Đến nay bóng em mờ khuất,
Người về u buồn khắp
trời. Người ra đi với ngàn nhớ thương.
Người về mà thấy u buồn khắp
trời thì thật buồn đến khủng khiếp. Người nghe có cứng
rắn đến đâu cũng phải xúc động. Biệt ly, bản chất của
nó đã buồn, nghe bản nhạc Biệt ly của Doãn Mẫn thì
cái buồn ấy lại tăng lên gấp bội. Nghe bản nhạc này,
tôi xúc động đến tưởng như không thể tiếp tục viết
được nữa.
Bên cạnh cái biệt ly xa cách
chia lìa của lứa đôi, ta cũng kể đến biệt ly xa cách mang
tính chất lịch sử hay truyện cổ tích như "Hòn vọng phu"
của Lê Thương, "Trầu cau" của Phan Huỳnh Điểu hay "Thiên
thai", "Trương Chi" của Văn Cao được viết dưới dạng trường
ca.
Và cũng để thay đổi không
khí, tôi xin tạm mở một dấu ngoặc ở đây để ta bước
vào thế giới của thơ.
Bên cạnh sự nở rộ của
nhạc, thơ "tiền chiến" cũng vùng lên không kém. Thơ thời
đó, nó hòa nhịp với nhạc và cũng có cái "air" tiền chiến,
nghĩa là cũng khóc thương thân phận, cũng lãng mạn, cũng
chia lìa xa cách … Có những lúc ta có cảm tưởng như thơ
và nhạc do một người viết vì chúng quyện vào nhau như đôi
trai gái yêu nhau chia nhau cùng hơi thở vậy. Với cảnh biệt
ly trong thơ, tôi xin được nhắc đến nhà thơ Tế Hanh. Thi
sĩ Tế Hanh viết bài thơ này khi ông đứng ở sân ga:
Bánh nghiến lăn lăn
quá nặng nề;
Khói phì như nghẹn nỗi
đau tê;
Lâu lâu còi rúc nghe rền
rỉ,
Lòng của người đi réo
kẻ về.
Kẻ về không nói bước
vương vương;
Thương nhớ lăn xa mấy
dặm trường;
Lẽo đẽo tôi về theo bước
họ,
Tâm hồn ngơ ngẩn nhớ
muôn phương.
Sao hai tác giả này, một nhạc
sĩ và một thi sĩ, lại có cảm xúc trước sự biệt ly giống
nhau đến thế nhỉ? Chỉ khác là cái thương nhớ của Tế
Hanh chỉ lan ra có mấy dặm trường, còn của Doãn Mẫn thì
lan đi khắp trời. Âu có lẽ Tế Hanh chỉ buồn "vu vơ" như
tên bài thơ của ông.
Để tiếp nối những hình
ảnh biệt ly, tôi không thể không giới thiệu những hình
ảnh mà nhà thơ Nguyễn Bính đã ghi nhận được ở đây qua
bài thơ "Những bóng người trên sân ga" (1937).
Những cuộc chia lìa
khởi tự đây
Cây đàn sum họp đứt từng
dây
Những đời phiêu bạt thân
đơn chiếc
Lần lượt theo nhau suốt
tối ngày.
Có lần tôi thấy hai cô
bé
Sát má vào nhau khóc sụt
sùi
Hai bóng chung lưng thành
một bóng
"Đường về nhà chị chắc
xa xôi?"
Có lần tôi thấy một người
yêu
Tiễn một người yêu một
buổi chiều
Ở một ga nào xa vắng lắm
Họ cầm tay họ bóng xiêu
xiêu.
Hai người bạn cũ tiễn
chân nhau
Kẻ ở trên toa kẻ dưới
tàu
Họ dục nhau về ba bốn
bận
Bóng nhòa trong bóng tối
từ lâu.
Có lần tôi thấy vợ chồng
ai
Thèn thẹn đưa nhau bóng
chạy dài
Chị mở khăn giầu, anh
thắt lại:
"Mình về nuôi lấy mẹ,
mình ơi!"
Có lần tôi thấy một bà
già
Đưa tiễn con đi trấn ải
xa
Tầu chạy lâu rồi bà vẫn
đứng
Lưng còng đổ bóng xuống
sân ga.
Có lần tôi thấy một người
đi
Chẳng biết về đâu nghĩ
ngợi gì
Chân bước hững hờ theo
bóng lẻ
Một mình làm cả cuộc
phân ly.
Những chiếc khăn màu thổn
thức bay
Những bàn tay vẫy những
bàn tay
Những đôi mắt ướt tìm
đôi mắt
Buồn ở đâu hơn ở chốn
này?
Cảnh biệt ly ở sân ga thì được
diễn tả như thế. Nhưng biệt ly không phải chỉ xẩy ra ở
sân ga mà còn ở những bến đò nữa chứ.
Hãy nghe bài thơ "Cô lái
đò" của nhà thơ Nguyễn Bính, được nhạc sĩ Nguyễn
Đình Phúc phổ nhạc, cũng diễn tả một cuộc chia tay của
hai người đã hẹn thề nguyện ước cùng nhau trên bến đò
xưa. Vì chẳng chờ được nhau, ba xuân qua đi, nàng phải đi
lấy chồng, khách tình nhân khi trở lại thì người yêu không
còn đó nữa. Hãy nghe một đoạn:
Xuân đã đem mong
nhớ trở về,
Lòng cô gái ở bến sông
kia.
Cô hồi tưởng lại ba xuân
trước,
Trên bến cùng ai đã hẹn
thề.
Nhưng rồi người khách
tình xuân ấy,
Đi biệt không về với
bến sông.
Đã mấy lần xuân trôi
chảy mãi,
Mấy lần cô gái mỏi mòn
trông.
Xuân này đến nữa đã
ba xuân,
Đốm lửa tình duyên tắt
nguội dần.
Chẳng lẽ ôm lòng chờ
đợi mãi,
Cô đành lỗi ước với
tình quân.
Bỏ thuyền, bỏ lái, bỏ
dòng sông,
Cô lái đò kia đi lấy chồng.
Vắng bóng cô em từ dạo
ấy,
Để buồn cho những khách
sang sông.
Bài thơ "Cô lái đò" được
Nguyễn Đình Phúc phổ nhạc cũng mang thêm tính chất lỡ làng
trong tình yêu mà tiêu biểu rõ nét là bài "Cô láng giềng"
của nhạc sĩ Hoàng Quý. Cũng có cái lạ là thanh niên thời
đó "lang bang" ghê quá, gặp đâu yêu đấy, nào là yêu Cô
lái đò, Cô hàng nước, Cô hàng cà phê, Cô hàng chè xanh,
Cô hái mơ, rồi Cô sơn nữ, Cô hái hoa, Cô hàng hoa … Thật
đủ loại cô!
Đấy là nỗi lòng của nhà
thơ Nguyễn Bính, thế còn nhà thơ Thế Lữ thì sao? Hãy nghe
Thế Lữ trải lòng mình trong "Bên sông đưa khách":
Trời nặng mây mù,
mấy khóm cây,
Đứng kia không biết tỉnh
hay say.
Đỗ bờ sông trắng, con
thuyền bé,
Cạnh lớp lau già, gió vẫn
lay.
Tôi tiễn đưa anh tới tận
thuyền,
Để dài thêm hạn cuộc
tình duyên;
Thuyền đi, tôi sẽ rời
chân lại.
Tôi nhớ tình ta, anh vội
quên
Thuyền khách đi rồi, tôi
vẫn cho,
Lòng tôi theo lái tới phương
mô?
Bâng khuâng trong cõi sầu
vô hạn.
Không khóc vì chưng mắt
đã khô.
Rồi hãy nghe nhà thơ Huy Cận
qua bài "Trường giang" trong tập "Lửa thiêng". Ông
không viết rõ về một cuộc chia ly nào, nhưng khi đọc, ta
vẫn thấy một nỗi buồn man mác, như một cuộc chia ly nào
đó vừa xẩy ra, với hình ảnh của một cành củi khô lạc
mấy dòng, bèo giạt về đâu hàng nối hàng, với thuyền về
nước lại sầu trăm ngả … vân vân. Ta hãy lắng lòng để
hưởng cái giây phút êm đềm, man mác buồn trong thơ Huy Cận:
Sóng gợn tràng giang
buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước
song song.
Thuyền về nước lại,
sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc
mấy dòng.
Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu
hiu,
Đâu tiếng làng xa vắng
chợ chiều.
Nắng xuống trời lên sầu
chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến
cô liêu.
Bèo giạt về đâu, hàng
nối hàng,
Mênh mông không một chuyến
đò ngang.
Không cầu gợi chút niềm
thân mật,
Lăng lẽ bờ xanh tiếp bãi
vàng.
Thôi ta trở lại với nhạc tiền
chiến, lần này cũng cảnh chia tay đấy nhưng với âm điệu
thanh thoát vui tươi hơn, không quá sầu thảm nữa. Và bên
cạnh đó ta phải tìm cho mình một chút mộng mơ nơi tiên
cảnh chứ. Các nhạc sĩ, thi sĩ của chúng ta cũng vậy,
mộng ước trần gian không thành đành mơ về Tiên cảnh. Tôi
muốn nói về bản nhạc "Thiên thai" của nhạc sĩ Văn
Cao.
Như tôi đã nói ở trên, nhạc
và thơ trong cái "văn hóa tiền chiến" ấy, nó cứ như quyện
vào nhau. Trước khi nghe bản nhạc "Thiên thai", hãy đọc
thơ của cụ Tản Đà qua bài "Tống biệt" (nhạc sĩ
Võ Đức Thu đã phổ nhạc bài thơ này):
Lá đào rơi rắc
lối Thiên thai,
Suối tiễn, oanh đưa, luống
ngậm ngùi.
Nửa năm tiên cảnh,
Một bước trần ai.
Ước cũ, duyên thề có
thế thôi.
Đá mòn, rêu nhạt,
Nước chảy, huê trôi,
Cái hạc bay lên vút tận
trời!
Trời đất từ nay xa cách
mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Nghìn năm thơ thẩn bóng
trăng chơi.
Thấy không, tiếng thơ của cụ
Tản Đà nhẹ nhàng thoát tục, như bay bổng vào cõi tiên.
Sự chia tay có lá đào rơi rắc, có suối tiễn, có oanh đưa.
Ôi sao cuộc tiễn đưa lại ngọt ngào, thi vị đến thế.
So bài thơ "Tống biệt" của
cụ Tản Đà thì bản nhạc "Thiên thai" của nhạc sĩ Văn Cao,
nó "thực" hơn, có nhiều chất "người phàm trần" hơn. Cõi
Thiên thai của nhạc sĩ Văn Cao như được mở rộng ra để
đưa ta đi sâu và xa hơn cụ Tản Đà. Cụ Tản Đà chỉ đưa
ta đến cửa động rồi ngừng ở đấy, cụ không đả động
tới những gì xẩy ra ở bên trong cái động Thiên thai ấy
cả, còn Văn Cao đưa ta nhập Thiên thai thật sự. Qua sự phối
hợp với ngũ cung trong âm nhạc dân tộc Việt Nam cùng với
những âm điệu trang trọng, trong sáng, tha thiết, sinh động,
Văn Cao giới thiệu cho chúng ta cái thế giới trinh nguyên và
rực rỡ:
Thiên thai chốn đây
hoa xuân chưa gặp bước trần ai.
Có một mùa đào, năm ngày
tháng chưa tàn phai một lần.
Văn Cao còn giới thiệu thế giới
thần tiên ấy, ngoài hoa thơm cỏ lạ, cây trái ngọt ngào,
còn có ca, có nhạc đầy quyến rũ với những nàng tiên đa
tình đang ca múa những vũ khúc nghê thường làm ngơ ngẩn
loài người.
Thiên thai, chúng em
xin dâng hai chàng trái đào thơm, khúc nghê thường nay đều
cùng múa vui bầy tiên theo đàn. Đàn soi, trăng êm, nhạc lắng
tiếng quyên, đây đó nỗi lòng mong nhớ. Này khúc bồng lai
là cả một thiên thu trong tiếng đàn chơi vơi.
Văn Cao không chịu ngừng ở đây
đâu, cụ còn đưa ta tiến sâu vào thêm, để cả chủ và
khách cùng đắm chìm trong hoan lạc, để chủ lạc lối, khách
quên đường về.
Đàn non tiên, đàn
khao khát cuộc tình duyên. Thiên thai ánh trăng xanh mơ tan tành
khói trần gian. Ái ân thiên tiên, em ngờ phút mê
cuồng có một lần.
Chẳng biết cụ Văn Cao nhà ta
thấy cái "ái ân thiên tiên" nó ra làm sao, nó khác cái "ái
ân trần gian" như thế nào mà đến độ ánh trăng xanh mơ
cũng phải tan thành khói trần gian và chỉ dám có mê cuồng
say một lần và chỉ một lần mà thôi. Lưu Nguyễn thì lại
còn tệ hại hơn nữa, đến nỗi phải than lên câu ai oán:
Nhớ quê, chiều nào
ra khơi, chắc không đường về tiên nữ ơi.
Chữ "ơi" phải xuống giọng xề
thành "ời" thì đủ biết nó mệt mỏi cỡ nào bởi cái "ái
ân thiên tiên" kia. Đấy cụ Văn Cao thấy không, họ quên đường
về là tại cụ đấy, tại cái "ái ân thiên tiên" của cụ
đấy. Đùa cụ tí thôi, tán nhảm với cụ một tí cho vui.
Ta hãy tạm ngừng nghe nhạc
ở đây để theo chân những chàng thi sĩ thả hồn về Tiên
cảnh. Chẳng tìm được gì ở trần gian, họ kéo nhau về
Tiên cảnh để được thỏa lòng mơ cùng mộng như đã nói
ở trên.
Mấy ai trong chúng ta lại có
cái may mắn như cụ Văn Cao nhà ta. Ấy thế mà trong đám văn
nhân thi sĩ có những người cũng chẳng thua nhạc sĩ Văn Cao
là mấy. Ta hãy nghe nhà thơ Thế Lữ tả về những buổi gặp
gỡ tiên nữ ở Vườn Tiên:
Hôm qua đi hái mấy
vần thơ,
Ở mãi vườn tiên gần
Lạc Hồ:
Cảnh tĩnh, trong hoa chim
mách lẻo;
- Gió đào mơn trớn liễu
buông tơ.
Nước mát hơi thu thắm
sắc trời,
Trời xanh xanh ngắt đượm
hồng phai.
Ái ân, bờ cỏ chen chân
trúc,
Sau trúc, ô kìa xiêm áo
ai?
Rẽ lá, thi nhân bước lại
bên,
Mấy vòng sóng gợn mặt
hồ yên,
Nhởn nhơ vùng vẫy ba cô
tắm,
Dưới khóm hoa quỳnh lá
biếc xen.
Hồ trong như ngọc tẩm
thân ngà,
Lồ lộ da tiên phô sắc
hoa,
Mỉm miệng, anh đào tan
tác rụng,
Tóc buông vờn mặt nước
say sưa.
Say sưa, người khách lạ
Bồng lai,
Giận lũ chim kia khúc khích
hoài,
Van khẽ gió đừng vi vút
nữa
- Nhưng mà chim, gió có nghe
ai?
Lời oanh trên liễu, yến
bên hồng,
Hạc ở trong không, phụng
dưới tùng,
Bỗng chốc cùng nhau cao
tiếng họa,
Đờn tiên rộn rã khắp
tiên cung.
Hoa lá cùng bay, bướm lượn
qua,
Người tiên biến mất -
khách trông ra:
Mặt hồ nước phẳng nghiêm
như giận,
- Một áng hương tan, khói
tỏa mờ.
Chúng ta không cần vất vả lắm
cũng tưởng tượng ra được cái cảnh lén lén lút lút của
chàng thi sĩ Thế Lữ nhìn trộm tiên nữ tắm. Tim chàng hồi
hộp vì sợ bị bắt gặp, tiên nữ sẽ bay đi. Chàng van gió
đừng thổi mạnh, chim đừng khúc khích cười. Chàng càng
mong im lặng bao nhiêu thì chàng lại thấy không gian càng xôn
xao bấy nhiêu với những tiếng yến tiếng oanh, đờn tiên
rộn rã khắp tiên cung, hòa cùng với tiếng hạc trên không,
tiếng phụng ở dưới tùng. Chẳng biết chàng đã làm gì
mà để tiên phải biến mất và làm ngay cả đến mặt nước
hồ cũng nghiêm mặt giận chàng. Thôi ta hãy mỉm nụ cười
thông cảm với chàng Thế Lữ mà thôi.
Ấy ấy, đừng tưởng chỉ
có Thế Lữ được nhìn tiên nữ tắm đâu nhé (tắm thật
sự đấy vì xiêm y đã treo ở rặng trúc hết rồi). Nhà thơ
Xuân Tâm của chúng ta còn may hơn Thế Lữ nữa vì chàng chẳng
nhìn có ba cô tiên nữ tắm như Thế Lữ mà chàng Xuân Tâm
được nhìn cả một đoàn tiên nữ tắm. Ta hãy nghe Xuân Tâm
kể:
Đây dòng suối reo
cười, đùa lội tắm,
Đoàn tiên nga để lộ tấm
thân ngà;
Nước hôn chân, sương thoa
phấn mầu da,
Hoa cỏ mởn tranh nhau cài
mái tóc.
Cặp ngỗng trắng xinh như
bạch ngọc,
Ngẩng cổ nhìn, say đắm
đẹp thần tiên.
Chẳng biết ngỗng ngẩng cổ
cao hay chàng thi sĩ Xuân Tâm đang ngẩng cổ cao hơn nhỉ ?
Trong những người có may mắn
gặp tiên nữ này như chàng Thế Lữ, Xuân Tâm, đến ngay cả
cụ Tản Đà, cũng chỉ lởn vởn phía "bên ngoài". Riêng cụ
Văn Cao được hưởng cả phía "bên trong" với cái "ái ân
thiên tiên" đến quên cả đường về, cũng như có cô em gái
đến thăm chàng nhạc sĩ Tô Vũ vào một chiều thêu nắng
để "Em đến chơi quên niềm cay đắng. Và quên đường
về", thật tuyệt.
Nói đi thì phải nói lại,
không phải ai gặp tiên cũng được "thoả thuê" đâu nhé.
Ta hãy nghe nhà thơ Đỗ Huy Nhiệm than vãn:
Người ở tiên cung
vốn lạnh lùng,
Có bao giờ bận với yêu
mong.
Mà tôi yêu lắm, tôi mong
lắm,
Nàng có bao giờ biết thế
không?
Chiều nay nàng đến trong
ly rượu,
Tôi uống vơi vơi hết cả
nàng.
Tôi uống dè dè từng hớp
một,
Sợ mai nàng bận chẳng
buồn sang.
Chàng thi sĩ của chúng ta phạm
hai lỗi lầm nên chàng đau khổ. Thứ nhất chàng mong được
Tiên yêu dù chàng biết Tiên chẳng bận với yêu mong mà các
nàng chỉ bận đi "tắm" cho các nhà thi sĩ làm thơ. Thứ hai
là chàng say, chàng nhâm nhi hết cả nàng thì nàng làm sao tới
được. Đến khi chàng say thì:
Trăng đã lên cao,
rượu cạn rồi,
Cả nàng đã đẫm cả hồn
tôi.
Ngày mai rượu hết nghiêng
hồ rỗng
Vét chút hương còn ép sát
môi.
Nghe câu cuối sao nó nhờn nhợn,
nhồn nhột thế nào ấy. Tới đây ta hãy dành cho Xuân Diệu
một "khoảng trời thơ" để chàng tâm sự.
Và nàng Lộng Ngọc
lấy Tiêu lang,
Cưỡi hạc một đêm bay
lên trời
…
Linh hồn lưu giữa bể du
dương.
Tôi thấy xiêm nghê nổi
gió lùa;
Những nàng cung nữ ước
mơ vua,
Không biết bao giờ nguôi
nhớ thương.
Với Hàn Mạc Tử, nàng Hằng
nga tiên nữ của chàng còn quyến rũ hơn :
Trong khóm vi lau rào
rạt mãi.
Tiếng lòng ai nói sao im
đi?
Ô kìa, bóng nguyệt trần
truồng tắm,
Lộ cái khuôn vàng dưới
đáy khe.
Không hiểu vì lý do gì, các chàng
thi sĩ của chúng ta mỗi khi nói đến Tiên nữ và ngay cả
đến Hằng nga, các chàng đều bắt các nàng phải đi tắm,
và chỉ đi tắm mà thôi. Cũng như khi các chàng nhạc sĩ nói
về người con gái đi lấy chồng thì phải là "con sáo sang
sông" hay là "con sáo sổ lồng bay xa", nhất định phải là
con chim sáo chứ không thể là con chim khác được dù là chim
oanh, chim yến hay chim phượng hoàng.
Nhân dịp nghe bản "Thiên
thai" ta lại lạm bàn đến cảnh giới Thiên cung của những
nàng Tiên nữ hơi nhiều. Hình như từ nẫy đến giờ ta lên
Tiên giới với lòng trần tục đến nỗi Trịnh Công Sơn đã
phải lên tiếng:
Tôi là ai? Tôi là
ai? mà còn trần gian thế? (bản nhạcTôi là ai?)
Thôi để mặc TCS than thở trần
tục với trần gian, ta hãy tìm về hình ảnh của một Tiên
cảnh thánh thoát hơn, trong sáng hơn với "Tiếng sáo Thiên
thai" đã đuợc nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc.
Nay ta hãy tạm để hồn mình
dừng chân, ngồi trên phiến đá, mắt nhìn trời xanh, hưởng
một chút gió mát để thưởng thức vài tiếng sáo ở chốn
Thiên cung cùng nhà thơ Thế Lữ.
Ánh Xuân lướt cỏ
xanh tươi,
Bên rừng thổi sáo một
hai Kim Đồng.
Tiếng đưa hiu hắt bên
lòng,
Buồn ơi ! Xa vắng mêmh
mông là buồn.
Tiên nga tóc xõa bên nguồn,
Hàng tùng rủ rỉ trên cồn
đìu hiu;
Mây hồng ngừng lại sau
đèo,
Mình cây nắng nhuộm, bóng
chiều không đi.
Trời cao xanh ngắt - ô kìa!
Hai con hạc trắng bay về
Bồng lai.
Theo chim, tiếng sáo lên
khơi,
Lại theo dòng suối bên
ngoài Tiên nga;
Khi cao vút tận mây mờ,
Khi gần vắt vẻo bên bờ
cây xanh,
Êm như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp như Ngọc nữ uốn
mình trong không.
Thiên thai thoảng gió mơ
mòng,
Ngọc châu buồn tưởng
tiếng lòng bay xa.
Thế Lữ mê man thả hồn trong
"Tiếng sáo Thiên thai" nơi Tiên cảnh và cũng có lần
chàng cũng mê say tiếng sáo trúc nơi trần gian với "Tiếng
trúc tuyệt vời" của chàng :
Tiếng địch thổi
đâu đây,
Cớ sao mà réo rắt?
Lơ lửng cao đưa tận lưng
trời cao ngất,
Mây bay, gió quyến mây bay.
Tiếng vi vu như khuyên van,
như dìu dặt,
Như hắt hiu cùng hơi gió
heo may.
Ánh chiều thu,
Lướt mặt hồ thu,
Sương hồng lam nhẹ lan
trên sóng biếc,
Rặng lau già xao xác tiếng
reo khô,
Như khua động nỗi nhớ
nhung thương tiếc,
Trong lòng người đứng
bên hồ.
Âm điệu của bài thơ này nghe
như khi bổng khi trầm, uốn lượn theo tiếng sáo trúc. Tiếng
sáo thiên thai hay tiếng trúc tre trần tục đều hay như nhau
cả, có khác chăng là khác ở nỗi lòng người nghe. Ta cũng
nên biết thêm, bài thơ "Tiếng trúc tuyệt vời" đã
được nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc. Ông sử dụng
âm thanh của ca trù (ả đào) vào bản nhạc này rất thành
công.
Thôi nếu ta chẳng lên Thiên
thai được với nhạc sĩ Văn Cao thì ta hãy theo chân nhạc
sĩ Phạm Duy vậy, để cùng nhạc sĩ Phạm Duy xây cái mộng
thật bình thường trong bản "Ngậm ngùi" phổ từ thơ Huy Cận:
Tay anh em hãy tựa
đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu
rụng rơi.
Tay anh đây, em hãy tựa đầu
mà ngủ, anh khe khẽ ru lời ca êm ái "ngủ đi em, ngủ đi em",
và để "anh hầu quạt đây", và để cho anh thấy những đau
khổ chín mùi của em rụng rơi (trái sầu rụng rơi). Lắng
đọng với thời gian, với không gian, để nghe thấy thương
đau của người yêu rụng rơi và để cùng đón nhận lấy
niềm hoan lạc, êm ả đi vào giấc ngủ êm đềm thì quả
thực cái "mộng bình thường" rất trần gian này cũng khó
đạt thành, nhưng dẫu sao nó cũng còn ở trong tầm tay của
mình.
Ngủ đi em, mộng
bình thường!
Ru em sẵn tiếng thùy dương
mấy bờ.
Cây dài bóng xế ngẩn ngơ,
Hồn em đã chín mấy mùa
thương đau?
Tay anh em hay tựa đầu,
Cho anh nghe nặng trái sầu
rụng rơi.
Hay quá nhỉ, mỗi chữ, mỗi vần
sao nó tha thiết và súc tích làm sao.
Chúng ta đâu cần phải là
nhạc sĩ hay thi sĩ. Ta cứ nghe và cứ đọc, chúng ta sẽ rung
động với cái rung động của người, vui với cái vui của
người, thổn thức với cái thổn thức của người, để
rồi hơn thế nữa, ta mượn hình ảnh, âm thanh của người
đưa ta tới thế giới riêng biệt đươc xây dựng bởi chính
ta. Thế giới của riêng ta ấy có thể còn linh động hơn,
xa hơn, cao hơn vì nó được xây dựng bằng nhiều nguồn cảm
hứng khác nhau, của nhiều người góp lại.
Cũng có khi ta ngồi nghe bản
nhạc đang chơi, tâm hồn ta đã bay xa lắm rồi. Ta bay đi theo
cảm xúc riêng của mình, với biết bao nhiêu những cái mới
xen lẫn với những cái cũ của những kỷ niệm xa xưa. Không
phải chỉ có âm nhạc và thơ thôi đâu, những cảm xúc đôi
khi cũng chợt đến chỉ vì ta bắt gặp một màu sắc, một
âm thanh nhỏ hay chát chúa, một tiếng cười, hay tiếng khóc
… quen thuộc nào đó. Tất cả những gì chung quanh ta đều
có thể mang ta đến một thế giới đầy sáng tạo của riêng
mình, vì những gì xẩy ra chung quanh ta, trong đó kể cả những
âm thanh của những bản nhạc Tiền chiến, đều là những
phép lạ, là những phép mầu có khả năng đem ta về nguồn
hạnh phúc.
Tôi xin được tạm ngưng lời
tâm sự ở đây về sự chia sẻ cùng các bạn những cảm
xúc mà tôi có được khi nghe vài bản nhạc và thơ "tiền
chiến". Tôi biết đây là một đề tài vô tận vì cảm xúc
của chúng ta thì vô biên, nhưng chỉ có một điều những
cảm xúc bắt gặp được thường có thể mỗi người một
khác. Xin được trở lại dịp sau với những bản nhạc tiêu
biểu khác có tính chất lãng mạn trữ tình trong tình yêu
lứa đôi và tình yêu nước trong nhạc Tiền chiến.
NGUYỄN GIỤ HÙNG
|