Ngày
xưa, dân ta được chia thành bốn giai cấp: Sĩ, nông, công,
thương.
Sĩ
là những người có học, thi đỗ, ra làm quan. Sĩ được vinh
dự làm... cha mẹ dân.
Nông
là đám dân quê, có bổn phận nuôi sĩ.
 Nếu
không có kẻ quê mùa,
 Lấy
ai nuôi người quân tử?
 Nếu
không có người quân tử,
 Lấy
ai dạy kẻ quê mùa? (1)
Sau
Sĩ,
Nông
là
Công (thợ có tay nghề) và Thương (giới buôn
bán).
Nông
bao gồm bốn nghề:
ngư (đánh cá, bắt cua...), tiều
(kiếm
củi, đốt than...),
canh (làm ruộng, trồng trọt...) và
mục
(chăn trâu, nuôi gia súc...).
Dưới
chế độ phong kiến, nông dân là những người thuộc thành
phần nghèo khổ. Có lẽ chỉ có vua chúa và các quan ăn trên
ngồi trốc mới không nghĩ như vậy. Thậm chí các bề trên
còn cho rằng ngư, tiều, canh, mục là bốn thú
vui (tứ thú) của bốn loại người sống ẩn dật (tứ
ẩn)... bên Tàu.
Hai
mươi tám ngôi sao sáng (nhị thập bát tú) của hội Tao Đàn
đời Hồng Đức, gồm những ông được Khổng giáo giao cho
trách nhiệm làm cha mẹ dân, thi nhau xướng hoạ, ca tụng ngư,
tiều, canh, mục.
Đúng hơn là ca tụng mấy nhân vật:
-
Lã Vọng (Khương Tử Nha) ở ẩn câu cá tại Bàn Khê,
được Văn Vương nhà Chu mời ra giúp đánh chúa Trụ nhà Thương.
-
Nghiêm Tử Lăng là bạn thân của Lưu Tú. Khi Lưu Tú lên làm
vua thì Tử Lăng giữ vững tiết tháo không chịu ra làm quan,
lui về sống ẩn dật. Ngày ngày câu cá ở sông Đồng.
(Có người nói Nghiêm Tử Lăng đi cày ruộng tại
núi Phú Xuân).
-
Lưu Thần và Nguyễn Triệu nhân ngày mồng năm tháng năm vào
núi Thiên Thai hái thuốc gặp tiên.
-
Chu Mãi Thần tính chăm học, nhà nghèo, phải làm nghề hái
củi. Mãi Thần vừa hái củi vừa học. Vũ Đế nghe tiếng,
cho triệu vào triều, phong chức Trung đại phu.
-
Gia Cát Lượng cày ruộng ở Nam Dương. Lưu Bị ba lần
đến lều tranh của Gia Cát Lượng mời ra giúp sức, để
chống nhau với Tào Tháo và Tôn Quyền.
-
Nịnh Thích vì nhà nghèo phải sang nước Tề ở chăn trâu
cho người khác. Một hôm, đang gõ sừng trâu ca hát, gặp Tề
Hoàn Công đi qua. Tề Hoàn Công nghe tiếng hát lấy làm cảm
động, liền dùng Nịnh Thích làm thượng khanh.
-
Lý Bá Hề làm quan ở nước Ngu, biết nước này sắp bị
diệt vong, bèn bỏ sang nước Tần, đi ở chăn trâu.
Mục Công nước Tần biết Hề là người giỏi, dùng làm tướng,
làm nên nghiệp bá.
-
Tô Vũ đi sứ sang nước Hung Nô, bị chúa Thuyền Vu bắt giam,
rồi bị đày đến bể Bắc,
chăn dê. Hẹn rằng bao
giờ dê đực đẻ sẽ tha cho về. Mười chín năm sau Tô Vũ
được tha, trở về với nhà Hán.
Thỉnh
thoảng cũng có lúc các quan tạm quên tứ ẩn của Tàu,
say sưa ngồi nghe Tứ thú (ăn nhậu của ta) cùng nhau
nói chuyện:
 Đêm
rượu, ngày rồi họp bốn người,
 Cùng
bày sở thú bảo nhau chơi.
 Con
trâu tớ béo, cơm ngươi trắng,
 Đon
củi ngươi nhiều, cá tớ tươi.
 Gặp
thuở thái bình ngươi mến tớ,
 Chứa
lòng ưu ái tớ cùng ngươi.
 Cắp
cầm, con Tuyết tình cờ đến,
 Bỏ
nón, lùi chân khặc khặc cười. (2)
Ngày
xưa, nghề làm ruộng của nước ta được vua làm lễ tịch
điền để "tôn vinh", khuyến khích:
Mùa
xuân năm 987, vua Lê Đại Hành bắt đầu cày ruộng tịch điền
ở núi Đọi, được một chĩnh nhỏ vàng, lại cày ở núi
Bàn Hải, được một chĩnh nhỏ bạc, vì thế đặt tên là
ruộng Kim Ngân. (Đại Việt sử ký toàn thư).
Đất
vua cày là đất vàng, đất bạc. Tiếc rằng vua chỉ cày ở
hai nơi.
Tháng
2 năm 1083, vua Lê Thái Tôn ngự ra Bố Hải khẩu cày ruộng
tịch điền. Sai quan dọn cỏ đắp đàn. Vua thân tế Thần
Nông xong, cầm cày muốn làm lễ tự cày, các quan tả hữu
có người can rằng: "Đó là việc của nông dân, bệ hạ cần
gì làm thế?". Vua nói: "Trẫm không tự cày thì lấy gì mà
làm xôi cúng, lấy gì để xướng suất thiên hạ?". Thế rồi
đẩy cày ba lần rồi thôi. (Đại Việt sử ký toàn thư).
Lễ
tịch điền của nhà Nguyễn được tổ chức long trọng và...
kín đáo hơn. Bửu Kế, Nhìn qua các nghi lễ triều đình
Huế, kể rằng:
"Vua,
hoàng thân, các quan đại thần cày mấy đường cày đầu
năm tại sở Tịch điền trong Kinh thành, để làm gương, khiến
các nhà nông noi theo đó mà siêng năng trong việc cày cấy.
Trong khi vua cày, ngài mặc áo chẽn, bịt khăn đường cân,
mang hia, tay cầm roi, tay cầm chiếc cày sơn vàng, do hai con
bò cũng phủ lụa vàng kéo. Đi theo hầu vua, có quan Phủ thừa
và một viên ấn quan bộ Hộ, người mang thúng giống, kẻ
vãi giống. Lại có viên quan đi phòng ngừa để hứng phân
bò phòng hai con vật có lỡ bất kính mà làm bậy.
Vua
cày xong lên ngồi trên nhà Quan canh để xem hoàng thân và quan
lại cày. Đây chỉ là một công việc tượng trưng, vì sau
đó sở ruộng được giao lại cho một số chức sắc chuyên
về nông nghiệp phụ trách. Lúa gạo gặt được ở sở tịch
điền sẽ dùng để tế Giao, tế các thần và các lăng miếu". (3)
 Tiều
phu thỉnh thoảng mới được nhắc tới:
 Một
gánh càn khôn quảy tếch ngàn
 Hỏi
chi bán đó dạ rằng than
 Ít
nhiều miễn được đồng tiền tốt
 Hơn
thiệt nài bao gốc củi tàn...
   (Bán
than, tục truyền tác giả là Trần Khánh Dư)
 Lom
khom dưới núi tiều vài chú
 Lác
đác bên sông chợ mấy nhà
   (Bà
huyện Thanh Quan)
Dân gian có cái nhìn thực
tế hơn. Họ chỉ thấy tiều phu là hạng người khố rách
áo ôm.
 Cửa
nhà nghĩ thảm trăm chiều
 Gia
tài có một búa rìu đốn cây
 Sẵn
nghề cha để lại đây
 Đốt
than, kiếm củi tháng ngày lân la.
 ...
 Mình
trần, khố có một manh
 Giang
sơn một gánh củi cành trên vai
   (Truyện
Thạch Sanh)
|
|
ngư
|
tiều
|
|
|
canh
|
mục
|
Ngư,
tiều, canh, mục của văn học không có thay đổi gì đáng
kể cho tới ngày lịch sử sang trang.
Ngày
6 tháng 6 năm 1884, triều đình nhà Nguyễn kí hoà ước, trao
vận mệnh nước ta cho thực dân Pháp.
Cuối
thế kỉ 19, Pháp đem chữ quốc ngữ vào giảng dạy tại nhà
trường. Sách báo viết bằng chữ quốc ngữ được xuất
bản. Đầu thế kỉ 20, chữ Hán, chữ nôm bị chữ quốc ngữ
thay thế.
Văn
học Việt Nam chuyển sang thời kì dùng chữ quốc ngữ.
Đời
sống của nông dân được "thơ văn quốc ngữ" để ý nhiều
hơn trước.
 Ao
thu lạnh lẽo nước trong veo,
 Một
chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
 ...
 Tựa
gối, buông cần lâu chẳng được,
 Cá
đâu đớp động dưới chân bèo.
   (Nguyễn
Khuyến, Câu cá mùa thu)
 Làng
tôi ở vốn làm nghề chài lưới
 Nước
bao vây cách biển nửa ngày sông
 Khi
trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng
 Dân
trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.
 ...
 Ngày
hôm sau, ồn ào trên bến đỗ
 Khắp
dân làng tấp nập đón ghe về
 Nhờ
ơn trời, biển lặng cá đầy ghe
 Những
con cá tươi ngon thân bạc trắng (...)
   (Tế
Hanh, Quê hương)
Tản
Đà ghi được những "lời qua tiếng lại" của một cặp vợ
chồng làm nghề đốt than, sống trong rừng xanh. Vợ than thở
trách chồng:
 Chàng,
chàng hỡi Tri âm từ thuở,
 Nỗi
sinh nhai rìu, búa, bếp, lò,
 Nghĩ
mình cũng đứng trượng phu,
 Tây,
nho chữ nghĩa không thua chi đời.
 ...
 Làm
cho phỉ chí nam nhi,
 Trước
là phu quý, sau thì phụ vinh.
Chồng
"mắng yêu" vợ:
 Dại
đâu có dại lạ đời,
 Ngu
đâu mà lại có người quá ngu!
 Người
phải biết tự do là thú,
 Mất
tự do còn có ra chi.
 Canh
tàn, thôi liệu ngủ đi,
 Ngủ
cho đẫy giấc, mai thì bán than.
   (Tản
Đà, Vợ chồng người đốt than)
Tiều
phu của Tản Đà thích đời sống nghèo nhưng được tự do
hơn là giàu sang nhưng phải bon chen luồn cúi.
Khái
Hưng nhìn thẳng vào hoàn cảnh của một cặp vợ chồng nghèo,
đông con. Nước cùng phải đi vớt củi trên sông Hồng.
"Hai
vợ chồng bắt đầu đưa thuyền ra giữa dòng, chồng lái,
vợ bơi. Cố chống lại với sức nước, chồng cho mũi thuyền
quay về phía thượng du, nhưng thuyền vẫn bị trôi phăng xuống
phía dưới, khi nhô khi chìm, khi ẩn khi hiện trên làn nước
phù sa, như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi
mắt trong nghiên son.
Nhưng
nửa giờ sau, thuyền cũng tới được giữa dòng. Chồng giữ
ghì lái, vợ vớt củi.
Chẳng
bao lâu thuyền đã gần đầy, và vợ chồng sắp sửa quay
trở vào bờ, thì trời đổ mưa... Rồi chớp nhoáng như xé
mây đen, rồi sấm sét như trời long đất lở.
Chiếc
thuyền nan nhỏ, đầy nước, nặng trĩu. Hai người cố bơi,
nhưng vẫn bị sức nước kéo phăng đi...
Bỗng
hai tiếng kêu cùng một lúc:
-
Giời ôi!
Thuyền
đã chìm. Những khúc củi vớt được đã nhập bọn cũ và
lạnh lùng trôi đi, lôi theo cả chiếc thuyền nan lật sấp.
(...)
Thức
bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình
nữa. Thì ra Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra
để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ sức bơi vào bờ.
Đèn
điện sáng rực suốt bờ sông. Gió đã im, sông đã lặng.
Một người đàn ông bế một đứa con trai ngồi khóc. Hai
đứa con gái nhỏ đứng bên cạnh. Đó là gia đình bác phó
Thức ra bờ sông từ biệt lần cuối cùng linh hồn kẻ đã
hy sinh vì lòng thương con.
Trong
cảnh bao la, nước sông vẫn lãnh đạm chảy xuôi dòng". (Khái
Hưng, Anh phải sống)
Làm
ruộng không nguy hiểm như vớt củi trên sông hay chặt cây
trong rừng, nhưng cực nhọc, nghèo khổ thì tất cả đều
ngang nhau.
Phan
Kế Bính có nhận xét:
"Nước
ta là một nước Nông quốc, nghĩa là lấy việc làm ruộng
làm gốc sinh nhai.
Nhà
làm ruộng rất là cần khổ (...), chẳng những người lớn
vất vả, dẫu đến trẻ con cũng vất vả. Nào khi chăn trâu
chăn bò, nào khi mò cua bắt ốc, khố rách áo ôm, coi hình
thù rất nên tiều tụy. Thôi nói cái cảnh nhà làm ruộng
của ta, thì chẳng còn nước nào khổ hơn. Song cũng lắm lúc
vui thú mà vui thú thật...". (4)
Thuở
nhỏ được học bài ca dao nói lên những khó nhọc của nhà
nông:
 Ra
công xới lúa giữa trưa,
 Mồ
hôi thánh thót như mưa luống cày,
 Ai
ơi bưng bát cơm đầy,
 Dẻo
thơm một hạt, đắng cay muôn phần
Mãi
sau này mới được biết bài ca dao là thơ của Lý Thân (780-846)
đời Đường, được Tương Như dịch sang tiếng Việt. (5)
Các
bài học khác thì nhẹ nhàng vui vẻ hơn.
-
Hằng ngày tôi đi học, phải qua một cánh đồng rộng. Tôi
thường thấy: đàn ông thì cày bừa, đàn bà thì đập đất,
trẻ con thì chăn trâu, chăn bò. Lúc trời làm khô cạn, thì
tôi thấy nào là người khai ngòi, đắp bờ, nào là người
tưới cây, tát nước. Lúc nào ngoài đồng cũng có người
làm, trông thật là vui vẻ. (Quốc văn giáo khoa thư).
Các
cụ có câu Không ăn mẻ cũng chết. Nhưng muốn có miếng
ăn thì bắt buộc phải trông nhờ vào người làm ra miếng
ăn. Mấy ông sĩ bèn nhắc nhở, khuyến khích đám nhà
nông:
 Ai
ơi chớ bỏ ruộng hoang
 Bao
nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu
Nhưng
đồng thời sĩ cũng nhắc khéo nông rằng: Muôn
thửa ruộng nương tốt, Chẳng bằng một nghề mọn. Ngàn
vàng để cho con, chẳng bằng một quyển sách. (6)
Dù
sao thì đời sống của nông dân của thế kỉ 20 cũng được
văn nghệ sĩ lột tả mạnh dạn, sâu sắc hơn ngày xưa:
 Ruộng
khô có những ông già rách vai
 Cuốc
đất bên đàn trẻ gầy
 Có
người bừa thay trâu cầy
   (Phạm
Duy, Quê nghèo)
 (...)
Người đàn ông cúi rạp bước lầm lì
 Người
vợ cố đẩy bừa theo sát gót
 Họ
là những nông phu nghèo bậc chót
 Không
có trâu nên phải làm... trâu
 Họ
bừa ngầm một thửa ruộng chiêm sâu
 Nước
đến bụng, ôi, rét càng thêm rét...
   (Bàng
Bá Lân, Người trâu)
Có
người đi xa hơn, tôn vinh nông dân:
"Nhà
nông chân lấm tay bùn, Bền lòng kiên chí nêu cao gương cần
lao (...) Khôn xiết gian lao, bao lầm than, bao cơ cầu. Vì
nước, vì nhà, mới vất vả mới dãi dầu". (Thẩm Oánh,
Nhà
nông)
Riêng
nghề chăn nuôi thì từ xưa tới nay thời nào cũng bị giới
hạn vì thiếu vốn, thiếu đất mở trang trại.
"Những
giống vật người ta nuôi trong nhà là : mèo, chó, lợn, gà,
trâu, bò và ngựa. Mèo thì bắt chuột, chó thì giữ nhà, lợn
gà thì để ăn thịt, trâu bò thì để cày bừa ruộng đất,
ngựa thì để cỡi hay kéo xe. Giống nào cũng có ích cho ta
cả, cho nên khi ta đã nuôi nó thì phải cho nó ăn uống và
chăm nom đến nó, đừng đánh đập mà tội nghiệp". (Quốc
văn giáo khoa thư).
***
|
|
câu cá
|
hái củi
|
|
|
chăn
trâu
|
ông quan
hưu trí (?)
|
Tranh
Oger có bộ Tứ ẩn vẽ người câu cá, hái củi, chăn
trâu và ông quan hưu trí (?).
Sách
Tranh
dân gian Việt Nam của Maurice Durand có hai bộ Ngư, tiều,
canh, độc. (7)
Độc
là nghề đọc sách của sĩ. Tranh vẽ một ông
"áo quần bảnh bao" ngồi đọc sách, dạy học. Tranh Ngư,
tiều, canh, độc (và cả tranh Tứ ẩn) tuy đẹp nhưng
nếu để ý một chút thì thấy nội dung bị khập khiễng
vì cho một ông quan sang trọng ngồi hưởng nhàn bên cạnh
đám nông dân chân lấm tay bùn!
Ngày
nay, bốn nghề ngư, tiều, canh, mục vẫn còn nhưng tên
gọi đã được đổi mới.
Muốn
biết đời sống mới của họ ra sao, xin chờ hạ hồi phân
giải...
|
|
ngư,
tiều
|
canh,
độc
|
Nguyễn
Dư
(Lyon, 11/2020)
(1)-
Đoàn Trung Còn, Minh đạo gia huấn, Thanh Niên, 2000, tr.
45.
(2)-
Hồng
Đức quốc âm thi tập, Văn Hoá, 1962.
(3)-
Phong
tục Tết Việt Nam và các lân bang, Đông Nam Á, 1986, tr.15.
(4)-
Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, Tổng Hợp Đồng Tháp,
1990, tr. 276.
(5)-
Thơ
Đường, tập 1, Văn Hoá, 1987, tr. 238.
(6)-
Minh
đạo gia huấn, sđd, tr. 87.
(7)-
Maurice Durand,
Imagerie populaire vietnamienne, EFEO, 2011, tr.
40. |