Qua
diễn tiến phát huy niềm tin, tôn giáo nào muốn tồn tại
thì cũng phải biết thích ứng với biến chuyển xã hội,
chính trị và môi sinh mới. Thí dụ Đạo Tin Lành thích ứng
với sự phát triển thương mại, làm giầu là một ân huệ
không phải tội lỗi như con lạc đà không chui qua được
lỗ kim khâu; Đạo Chúa Ki Tô qua đến Mỹ Châu đã giản dị
hóa lễ nghi, kiến trúc tôn giáo để thích ứng với đời
sống tín đồ đi chinh phục vùng đất mới bao la.
Nay, chúng ta thử trở về miền
sông Cửu để nhìn lại Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, Hòa Hảo, Cao Đài đã phải thích ứng với môi
sinh khắt khe như thế nào ?
Tìm hiểu môi trường địa
lý thiên nhiên (phù sa cổ, đất phèn chua nước mặn…) và
nhân văn (dân số, di dân, nông địa…) của vùng sông Cửu
sẽ giúp chúng ta hiểu sự thích ứng của tín ngưỡng với
môi trường địa lý tại đây.
Địa lý tín ngưỡng vùng sông
Cửu có thể chia thành 2 khu vực lớn :
Miệt Trên (Phù
sa cổ miền Đông và Miệt Vườn sông sâu nước chảy).
Miệt Dưới
(Hậu Giang : vùng đất phèn chua, nước
mặn tại Đồng Tháp; vùng đất hữu cơ của U Minh Cà Mau).
Tại Miệt Dưới, Tam giáo (Phật
giáo, Lão giáo, Khổng giáo) phân lưu thành các
tôn giáo bản địa nhỏ như Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo, Cao Đài. Các tôn giáo
này thoát thai từ Tam Giáo và biến thể để thích ứng tín
ngưỡng với nếp sống của lưu dân lo chinh phục các vùng
đất hoang vu, khắt khe.
Địa lý tín ngưỡng
Miệt Dưới
Miệt Dưới là vùng Cà Mau,
An Giang (Rạch Giá, Châu Đốc, Hà Tiên…)
nổi tiếng với môi trường địa lý khắt khe nhất là trên
vùng đất hữu cơ và đất phèn. Tìm hiểu hai vùng đất này
sẽ giải thích tại sao dân số thưa thớt và tại sao địa
lý thiên nhiên lại thúc đẩy tín ngưỡng phải thích ứng
với môi trường thiên nhiên để phát triển.
Dân số thưa thớt
Dưới thời nhà Nguyễn, dân
số Lục Tỉnh quá thưa thớt so với diện tích của đồng
bằng [01]
. Vào thời Tự Đức, tổng số dân đinh là 165 598 và cộng
thêm 5 lần [02],
số dân là 993 588 người. Dựa vào Đại Nam Nhất Thống Chí,
số dân đinh tại Nam Kỳ Lục Tỉnh biến chuyển như sau [03].
Lục
Tỉnh |
Gia
Long |
Tự
Đức |
Biên Hòa
Gia Định
Định Tường
Vĩnh Long
An Giang
Hà Tiên |
10600
28200
19800
37000
7500 |
16949
51788
26799
41336
22998
5714 |
Từ năm 1910, các vùng trũng
đất phèn, đất hữu cơ úng thủy được tưới bón bởi
một hệ thống kênh đào suôi, ngang dẫn nước ngọt sông
Cửu vào rửa phèn chua nước mặn nên đã thu hút cư dân đổ
xuống miền Hậu Giang. Diện tích ruộng và dân số từ 522
000 ha, 1 679 000 dân (1870) đã tăng lên 2 200 000Ha, 4 484 000 dân
(1943) [04].
Đường nước ngọt chảy tới đâu là kéo theo dân tới
đó mở mang xã ấp nông địa tạo nên nếp sống "văn minh
kênh sáng" của "Miệt Dưới".
Môi trường địa lý khắt
khe
Đất hữu cơ, đất phèn, rừng
cây đồng cỏ hoang dã, ngập lụt… tạo nên một môi trường
địa lý khắt khe của Miệt Dưới (Hậu Giang). Mô tả địa
lý thiên nhiên và đời sống của lưu dân đi khai phá đất
hoang dã để lập nghiệp sẽ giúp chúng ta hiểu tại sao các
tôn giáo nhỏ Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo phải thích ứng với môi sinh
địa lý để trở thành tôn giáo khu vực.
Đất hữu cơ (đất
mật cật, đất cháy )
U Minh Cà Mau (Chương Thiện)
gồm nhiều đất vừa acid vừa hữu cơ là vùng giao tiếp giữa
đồng bằng phù sa nước ngọt phía bắc và đồng bằng phù
sa nước mặn ở Cà Mau. Đất hữu cơ bao phủ khoảng 150 000
Ha, tạo nên "cảnh tối tối, sáng sáng", nổi tiếng
với "muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh bềnh như bánh
canh". Loại đất này có thể dày tới 4m, được cấu tạo
bởi sự tích tụ cây cỏ của rừng sát xưa, thường nằm
trên lớp đất phèn hay hải vật sò hến. Các khu đất có
tỷ lệ hữu cơ cao (than bùn) đều bỏ hoang.
Đến canh tác nơi đây, việc
đầu tiên là chọn vùng đất đã cứng cát có lớp mùn mỏng
và cây ráng mọc; đầu mùa nắng cắt cây ráng để khô héo
trong nửa tháng, nổi lửa nương gió mạnh để tiêu diệt
cây ráng lấy đất làm ruộng đầu mùa mưa. Lửa sẽ làm
cháy lớp mùn xốp tỉch trữ nước mưa nhưng cho tro tốt cấy
lúa [05].
Đồng thời thôn dân vào rừng tràm gác sào nuôi ong lấy mật,
kiếm cây gỗ (cao từ 15 đến 20m) để làm
nhà hoặc chở đi bán, cành làm củi, lá đem lọc làm dầu
tràm (gomenol). Các địa điểm này đã mang
lại cho dân một đời sống thoải mái như M. Gérard [06]
mô tả : " Tại Cà Mau, đời sống thoải mái, dễ dàng,
rừng ngay bên cạnh, những cây dừa nước cao lớn mọc hai
bên bờ sông rạch; đào ao nuôi cá thật quá dễ. Nhiều rừng
thưa rộng lớn, đất lại dễ cầy cấy. Lúc rảnh đồng
áng, vào rừng săn ong lấy mật, sáp hay chặt cây lấy củi
làm than đem bán, hoặc đến mùa thì chèo mướn…" .
Đất phèn [07]
Trên đồng bằng Cửu Long,
đất phèn bao phủ khoảng một triệu Ha trong các vùng trũng
ngập nước ở Cà Mau và Đồng Tháp. Loại đất quá phèn
(nồng
độ pH dưới 3) có sa cấu sét, bùn lày không thấm
nước, bị úng thủy ngập nước mùa mưa, khô ráo nứt nẻ
mùa nắng khiến chất pyrite bị oxyt hóa cho SO4H2 nên pH dưới
3. Nước phèn độc hại cho nước uống và cây lúa [08]
gây nỗi lo sợ quanh năm: mùa mưa sợ nước dâng mau, mùa nắng
sợ " phèn dậy " quá nhiều. độ phèn cao, sâu rầy,
chim chuột đầy đồng cỏ.
Muốn chiếm canh một nông địa
trồng lúa trên một " vạc " đất độ phèn thấp, nông
dân phải tốn rất nhiều sức lao động. Thí dụ ở xã Thạnh
Trung (quận Chợ Mới, An Giang), thôn dân đào
mương rửa phèn, vớt lục bình bón vào đất trũng, trồng
cây điên điển đầy rễ giữ phù sa làm cứng đất và giảm
phèn. Sau vài năm đất thuần rồi mới được cấy lúa mà
không sợ thất.
Theo kinh nghiệm, thôn dân khẩn
những "vạc đất" mọc nhiều cỏ bông, lau sậy dấu
hiệu đất đã cứng, cao ráo có thể cấy lúa được ngay.
Từ đầu tháng giêng đến tháng ba, vào đốt đồng cỏ, chờ
sa mưa dẫn trâu vào cày và dùng bừa chĩa bừa cho tróc gốc
cỏ rồi sạ lúa. Thôn dân nghèo thì dùng dùi "tỉa lỗ"
gieo lúa rồi lấy chà tre gai lấp các lỗ vừa gieo hạt để
tránh chim, chuột phá hoại, trồng cây điên điển sau nhà
để rễ hạ phèn, cành làm củi.
Trong thời gian cày bừa gặt
hái, thôn dân cất căn chòi nhỏ (trại ruộng) tạm
trú lúc làm việc đồng áng, hoặc cầm trâu lại nuôi, chăn
một đàn vịt, bẫy chim cò cuốc, le le, dí chuột, đào đìa,
dăng câu, thả ấu sen trong lung, láng… Sau mùa lúa chín, cảm
thấy vững bụng sống được, thôn dân bắt đầu xẻ mương
lên líp lập vườn, đắp nền dựng nhà cư trú thường xuyên
chăm sóc ruộng đất, lung, đìa [09].

Đào mương
thủy cấp và hạ phèn
Phân lưu tín ngưỡng vì
sự thiếu thích ứng
Trên đồng bằng Cửu Long,
Tam Giáo cổ truyền bị phân lưu thành Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương,
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo. Vậy đâu là
lý do của sự phân lưu?
Trong thời Nam Kỳ Lục Tỉnh,
Phật giáo suy vi, một số sư sãi lo việc phù thủy, mê tín
dị đoan không canh cải để thích ứng với các điều kiện
sau :
- Điều kiện nhân văn. Đa
số nông dân mù chữ, ít học làm sao hiểu được triết học
cao siêu của Phật, làm sao tu khổ, chay tịnh để hàng ngày
phải vật lộn chinh phục vùng đất mới hoang dã;
- Điều kiện thiên nhiên "
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ, chướng khí mù như sương ",
khai phá đất hoang với nỗi lo sợ mùa mưa nước nổi quá
cao, mùa nắng phèn " dậy " quá nhiều làm mất mùa.
Trước cảnh đó, vì thiếu
thích ứng với môi sinh mới nên đạo Phật cổ truyền đã
biến thể thành những tôn giáo như Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương,
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Giáo Hòa Hảo. Các tôn giáo
mới này đã canh cải đạo Phật, bỏ lễ nghi phiền toái
và đơn giản hình thức đến độ không cần tượng Phật
nên rất thích ứng với đời sống người nông dân đi khai
hoang lập ấp tại vùng sình lày phèn đọng, rừng hoang.
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương
Do ông Đoàn Văn Huyên khai sáng
năm 1849, tín đồ tập trung ở An Giang, Châu Đốc. Tổ đình
: chùa Thới Sơn (Tịnh Biên). Giáo lý : Học
Phật tu nhân. Thực hành tứ ân : tổ tiên cha mẹ, đất nước,
tam bảo, đồng bào nhân loại.
Đạo Bửu Son Kỳ Hương thích
ứng với môi sinh khắt khe bằng :
- Tu theo đạo Phật, nhưng không
cạo đầu, không áo cà sa, trừ mê tín, không đi chùa, tu ở
đâu cũng được,
- Đơn giản hóa thờ cúng đạo
Phật : trên ngôi thờ tam bảo chỉ cần một tấm Trần Điều
màu đỏ treo trước tường chính điện thể hiện tứ ân,
không ly gia cắt ái, không cần ăn chay, tụng kinh gõ mõ…không
cần phẩm cúng bông hoa chỉ cần nước lã là đủ, nội dung
giáo lý đơn giản phù hợp với hoàn cảnh và trình độ của
nông dân,
- Lập nên những trại ruộng
như ở Cần Lố (Đồng Tháp Mười) Láng
Linh (Châu Phú), Thới Sơn (Tịnh Biên)...để
giúp dân vừa tu vừa khẩn hoang miền đất hoang vu.
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa
Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có
khoảng 100 000 tín đồ, do Bổn sư (Ngô Lợi) khai
sáng tại núi Tượng (Ba Chúc, Tri Tôn, An Giang) vào
năm 1876, chùa Tam Bửu tại Ba Chúc là tổ đình. Bàn thờ tại
tư gia: trên cùng thờ Quan Thánh, bên dưới Phật, Thánh, Tiên;
dưới nữa : Thập Vương, Hộ Pháp Vi Đà, Cửu Phẩm, Tam giáo…
Trước cửa nhà : bàn thờ
Thông Thiên hai tầng : tầng trên thờ Chánh Đức Thiên La Thần,
tầng dưới thờ Thổ Trạch Long Thần.
Phẩm cúng. Cúng phật như tại
chùa, cúng Thần có thêm món cá, cúng giỗ ông bà như cúng
Thần.
Các bộ kinh được chuyển
thành thể thơ dưới dạng sấm giảng với lời lẽ bình dị,
mộc mạc dễ nhớ và dễ đi vào lòng người nông dân, với
tôn chỉ " Tu Nhân-Học Phật ". Tứ Ân là : Tứ đại
trọng ân (đất, nước, gió, lửa) và Tứ
trọng ân (tổ tiên, đất nước, tam bảo, đồng bào
nhơn loại).
Phật Giáo Hòa Hảo
Do Đức Huỳnh Phú Sổ khai
lập năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông là căn bản, chủ
trương tu tại gia, có khoảng 1.500 000 tín đồ, tập trung ở
miền Tây Nam Kỳ (An Giang, Cần Thơ, Đồng Tháp).
Phần Phật học dựa vào giáo
lý đạo Phật và Bửu Sơn Kỳ Hương; phần "tu nhân
" thì tu " Tứ ân hiếu nghĩa ".
Thờ phượng rất đơn giản,
thờ cúng ba ngôi tại nhà :
Ngôi thờ Tam Bảo tương trưng
bởi tấm " Trần Điều " (miếng vải mầu nâu)
tức thờ Thập phương Phật, Pháp, Tăng.
Dưới bàn thờ Phật là bàn
thờ Cửu Huyền Thất Tổ tức thờ cúng tổ tiên,
Trước nhà có bàn thờ lộ
thiên (bàn Thông Thiên) để cảm thông với
Trời Đất, mười phương Phật.
Đồ cúng, chỉ cúng nước
lạnh trong sạch, bông hoa và nhang để cúng Phật còn bàn thờ
Cửu Huyền Thất Tổ thì cúng chay, bánh trái thức ăn chay.
Còn về giáo lý, Đức Thầy
đã viết Kinh mới dưới dạng thơ lục bát hay thất ngôn,
với
những danh từ đơn sơ đọc lên là hiểu ngay.
Đạo cao Đài
Khởi đầu truyền Đạo xuống
miền Hậu Giang được đảm trách bởi quí ông Lê Văn Trung,
Nguyễn Ngọc Thơ, Trần Đạo Quang lo việc phổ độ trong các
tỉnh: Vĩnh Long, Trà Vinh, Cần Thơ (nay là Hậu Giang),
Sóc Trăng, Bạc Liêu (nay là Ba Xuyên), Long
Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Giá (nay là Kiên Giang).
Hiện nay, miền Hậu Giang có 04 tổ chức chính là:
- Hệ phái Minh Chơn Đạo tại
Cà Mau
- Hệ phái Chiếu Minh Long Châu
ở Hậu Giang:
- Hệ phái Bạch Y tại Rạch
Giá:
- Cao Thượng Bửu Tòa ở Bạc
Liêu:
Đạo Cao Đài không phát triển
mạnh ở Hậu Giang vì gặp phải những khó khăn sau:
- Đã có những tín ngưỡng
mới thu hút nông dân như Bửu Sơn Kỳ Hương, Đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa [10],
Phật giáo Hòa Hảo;
- Điều kiện địa lý khắt
khe: Đất hữu cơ, đất phèn, ngập lụt.
Trước một môi sinh khắt khe
như vậy, Đạo Cao Đài cũng đã phải thích ứng tín ngưỡng
với môi trường thiên nhiên. Lấy thí dụ sự phát triển
của hệ phái Minh Chơn Đạo tại Cà Mau và hệ phái Bạch
Y tại Kiên Giang (Rạch Giá). Theo Ban tôn Giáo
Chính Phủ, năm 2009, Minh Chơn Đạo có 49 thánh thất (Cà
mau 23, Bạc Liêu 11, Sóc Trang 4, Kiên Giang 11) và
33.499 tín đồ (19.672 nữ), 1157 chức sắc
chức việc.
Để thích ứng với môi trường
thiên nhiên khắt khe, Minh Chơn Đạo thành lập Đầu Phòng
Nữ Phái để hướng dẫn Nữ Phái tu học và làm công tác
từ thiện, nhân đạo bằng các hình thức như: cho mượn không
lãi, bán chịu và hỗ trợ cây con, hạt giống, giúp đỡ ngày
công; vận động giúp đỡ gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn,
thiên tai, hỏa hoạn bằng gạo, lúa, tiền, ngày công.
Tại Kiên Giang (Rạch
Giá), năm 2014, Hội Thánh Bạch Y có 4561 tín đồ,
197 chức sắc chức việc, 14 thánh sở. Ngoài thánh thất Minh
Tân Cao Tiên Đàn tại Sài Gòn, 13 thánh sở còn lại nằm trọn
trong tỉnh Kiên Giang, trong đó có hai cái ở ngoài đảo thuộc
huyện Kiên Hải.
Chánh Phối sư Trần Văn Huynh
cho biết: " Tín đồ Cao đài Bạch y đa phần là nông dân,
sinh sống bằng nghề làm nông nghiệp nên hơn ai hết đều
hiểu rõ nỗi khổ của người nông dân cũng như người nghèo.
Do vậy, với tinh thần "lá lành đùm lá rách", trong 5 năm qua,
Hội thánh cũng như 14 họ đạo của Cao đài Bạch y đều
tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội ".
Để thích ứng với môi sinh
khắt khe của Rạch Giá, Hội Thánh xem hoạt động từ thiện,
xã hội là một công tác trọng tâm để thể hiện tinh thần
tu thân, hành thiện của người tín đồ Cao Đài Bạch Y, đồng
thời xác định "việc cứu tế, chẩn bần là một tiêu
chí trong công tác hành đạo" nên mỗi thánh thất, mỗi
tín đồ đều xem đây là nghĩa vụ trên con đường tu tập.
Hội thánh đã mở phòng thuốc Nam từ thiện, hốt thuốc miễn
phí, khám bệnh và châm cứu, cứu trợ các hộ nghèo…

Nam Kỳ Lục
Tỉnh
Lạp Chúc Nguyễn Huy
--------------------------------------
[01]
- " Cái gì thiếu ở Cà Mau, đó là những cánh tay. Số dân
đinh tổng cộng có 6 379 tức khoảng 31 900 dân trên một diện
tích 580 000 Ha...làng xóm sống thưa thớt với nhiều phần
đất bỏ hoang...các xóm thường ở trong ngọn rạch đôi khi
cách xa các xóm gần nhất cả ngày thuyền " Baurac J.C. La Cochinchine
et ses habitants, Imp. Com. Ray Curiol et Cie, Saigon 1894, tr.375, 376
[02]
- Các tài liệu xưa chỉ cho biết số dân đinh (người có
đóng thuế thân] nên nay phải cộng thêm 5 lần nữa để có
tổng số vì theo quan niệm thời đó " suy theo cái số cố
giả, một người cày ruộng phải nuôi năm người"
[03]
- Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua
triều Nguyễn, Lửa Thiêng, Sài Gòn 1971, tr 16
[04]
- Nguyễn Thế Anh, Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Lửa
Thiêng, Sài Gòn, 1970, tr. 184
[05]
- Một thí dụ mở nông địa theo lối cổ truyền tại làng
Đông Thái, Rạch Giá. Một nhóm người từ long Xuyên xuống
men theo bờ biển vào rạch, băng qua rừng cây mấm, vùng cỏ
thấp mọc trên đất phù sa mặn đắng, rồi dến khu rừng
tràm trầm thủy nằm gần U Minh. Đến rừng tràm, thôn dân
đốn cây dựng nhà và lấy đất trồng lúa, đào mương dẫn
nước, lấy đất đắp nền nhà. Mùa mưa, nước đổ từ
U Minh ra biển nên đủ nước ngọt để dùng, nhưng đến mùa
hạn phải đắp đập chận nước mặn (Sơn Nam, Tìm hiểu
đất Hậu Giang, Phù Sa, Sài Gòn 1959, tr.82-86)
[06]
- M. Gérard, La région de Cà-Mau vers 1898, BSEI, 3e trimestre,
tr.242.
[07]
- Còn gọi là Đất cứt chuột (jarosite) khi đất phèn hoạt
động (sulfaquepts) có màu vàng
[08]
- Vì chứa sulfate d’alumine Al2(SO4)3 và sulfate sắt Fe2(SO4)3.
[09]
- Đìa là những nơi trũng, kín đáo mà cá hay tới lui trú
ẩn, tìm mồi.Có hai loại đìa chính :
- đìa bưng là những vũng nước
sâu tự nhiên được dân đắp bờ, xẻ họng đìa đón cá.
- đìa đào có đìa lung nằm
cạnh lung (một đoạn rạch sình lày, nước cạn vào mùa khô),
đìa đồng đào ở một góc ruộng bao quanh bởi bờ mẫu cao
giữ nước cho cá. Lòng đìa được cắm chà tre gai, me keo,
châm bầu, lá dừa nước và thả rong, lục bình, cỏ ngựa
cho cá được mát. Đìa đào có kích thước trung bình 6m/12m
sâu 2,5m và một họng đìa quay ra mương ruộng hay phía trũng
của đường cá vô đìa.
[10]
- Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có
nhiều điểm tương đồng với Đạo Cao Đài. Thí dụ tôn
chỉ của Bửu Sơn Kỳ Hương là tu nhân để sau này dự Hội
Long Hoa, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa thờ Đức Quan Thánh,
Phật, Thánh, Tiên.
|