Sau
hiệp định Genève 1954, sự chia đôi nước Việt thành hai
quốc gia đã tạo nên luồng sóng chạy trốn cộng sản vào
miền Nam đi tìm tự do. Cuộc di cư lịch sử này có thời
hạn là 300 ngày. Sự giám sát thực thi hiệp định được
trao cho Uỷ hội Quốc tế Kiểm soát Đình chiến được thành
lập theo điều 34 của hiệp định với đại diện của ba
nước Ấn Độ, Ba Lan, và Canada.
Để tiếp nhận và định cư
Bắc Kỳ di cư tỵ nạn, chính phủ Quốc Gia miền Nam tổ chức
ngay:
Các phương tiện chuyên chở
người tỵ nạn vào Nam bằng đường thủy và hàng không,
Lâp ủy ban đón tiếp và hướng
dẫn dân tỵ nạn đến tạm cư tại các trạm cư trú rải
rác tại Sài Gòn và Gia định,
Thành lập cơ quan lo tái định
cư như Phủ Tổng Ủy Di Cư Tỵ Nạn hoạch định một chính
sách thành lập các khu định cư thường trực, lo chuyên chở
nông dân và ngư dân đến định cư, giúp đỡ tiền bạc,
thực phẩm và vật liệu xây cất trong thời gian đầu chưa
ổn định. Các thành phần tư sản, trí thức, công tư chức
và thương gia tự túc định cư tại các thành phố. Riêng
các nông dân và ngư dân thì phải trông cậy vào kế hoạch
định cư và trợ giúp tài chánh của chính phủ. Đến tháng
8 năm 1955, làn sóng di cư vào miền Nam tự do đã lên tới
887.917 người[1].
Thời hạn
rút quân và di cư
Điều 14, đoạn b, của Hiệp
Định Genève được ký kết ngày 20.7.1954 quy định: "TRONG
THỜI GIAN KỂ TỪ KHI HIÊP ĐỊNH NÀY BẮT ĐẦU CÓ HIÊU LỰC
ĐẾN NGÀY HOÀN THÀNH VIÊC CHUYỂN QUÂN, NẾU CÓ NHỮNG THƯỜNG
DÂN Ở MỘT KHU THUỘC QUYỀN KIỂM SOÁT CỦA BÊN NÀY MÀ MUỐN
SANG Ở VÙNG GIAO CHO BÊN KIA, THÌ NHÀ CHỨC TRÁCH CỦA KHU TRÊN
PHẢI CHO PHÉP VÀ GIÚP ĐỠ SỰ DI CHUYỂN ẤY".
Sự chuyên chở người tỵ
nạn hầu hết do hải quân Hoa Kỳ và Pháp phụ trách. Với
trợ giúp tài chánh của Hoa Kỳ, chính phủ Ngô Đình Diệm
tổ chức di cư như sau:
Thời hạn quân đội Liên Hiệp
Pháp rút khỏi Bắc Việt trùng hợp với di cư là 300 ngày
chia làm 3 thời hạn:
- Khu Hà Nội: 80 ngày
- Khu Hải Dương: 100 ngày
- Khu Hải Phòng: 300 ngày
Công việc tiếp cư tại Hải
Phòng kéo dài như thế cho đến ngày 19-5-55, nhưng vì số người
di cư quá đông, Cao uỷ Pháp đã xin gia hạn thêm ba tháng và
phía Hà Nội đã thoả thuận nên ngày cuối cùng thay vì là
ngày 19 tháng 5 được đổi thành ngày 19 tháng 8. Trong thời
gian gia hạn, có thêm 3.945 người đã vượt tuyến vào Nam.
Phương
tiện chuyên chở người tỵ nạn
Vì không có đủ phương tiện
cho những người di cư vào Nam nên chính quyền Pháp và Việt
Nam phải kêu gọi các nước khác giúp chuyên chở và định
cư. Các chính phủ Anh, Tây Đức, Hoa Kỳ, Nhật, Trung Hoa Dân
quốc, Úc hưởng ứng cùng các tổ chức quốc tế (UNICEF,
Hồng Thập Tự, Catholic Relief Services (CRS), Church World Services
(CWS), Mennonite Central Committee (MCC), International Rescue Committee
(IRC), CARE).
Tổng thống Eisenhower hưởng
ứng lời kêu gọi của thủ tướng Diệm đã ra lệnh cho chủ
lực 90 của đệ thất hạm đội Mỹ đến Việt Nam giúp đỡ
việc chuyên chở người di cư.
Các người tỵ nạn cộng sản
dùng đủ mọi phương tiên di chuyển để đến địa điểm
tập trung di tản, thí dụ như người tỵ nạn đi từ cửa
Cồn Thoi ra Hải Phòng trên những mảnh bè tre nứa ghép lại
một cách vội vã (xem hình). Đa số đi bằng đường thủy
và đường hàng không để di cư vào miền tự do.
Đường thủy
Tàu thủy Pháp chở được
338 chuyến, tàu Mỹ 109 chuyến, tàu Anh 2 chuyến, tàu Trung Hoa,
2 chuyến, tàu Ba Lan, 4 chuyến, tổng cộng là 555.037 người.
Hầu hết các tầu thủy đều cặp bến Sài Gòn.
Đường hàng không
Theo tài liệu trong CUỘC
DI CƯ LỊCH SỬ, máy bay Pháp chở được 4280 chuyến, tổng
cộng 213.635 người. Bên cạnh máy bay của Pháp còn có các
hãng máy bay tư giúp sức như Air France, Air-Việt Nam, Autrex,
Aigle-Azur, Air-Outremer, Cat, Cosara và U.A.T. Đó là cây cầu hàng
không lớn nhất nối liền giữa Hà Nội, Hải Phòng- Sàigòn,
dài 1174 cây số.
Và một số người đi bằng
phương tiện riêng là 102.861 người.
Cộng chung tất cả là 871.5533.
Một con số được coi là khá chính xác so với tài liệu chính
thức trong trang 120 của cuốn CUỘC DI CƯ LỊCH SỬ
của Phủ Tổng Ủy di cư.
Trại tiếp
cư
Việc chỉ có 300 ngày để
di cư trong khi số lượng người di cư rất lớn khiến chính
quyền Ngô Đình Diệm phải xây 42 trung tâm tạm cư. Các trạm
này sử dụng các công trình công cộng có sẵn như trại lính
Pháp, nhà thờ, một số trường dòng. Hàng ngàn người đã
ở trong các lều tạm ở sân bay Tân Sơn Nhất và trường
đua Phú Thọ.
Sài Gòn có 10 trung tâm tiếp
cư chính là: Phú Thọ, Xuân Trường (Thủ Đức), Nhị Thiên
Đường, Bình Đông 1, Bình Đông 2, Bình Đông 3, Bảo Hưng
Thái, Rạch Rừa, Bình Trị Đông và Bình Thới.
Ngoài ra còn có những trung
tâm tiếp cư lẻ tẻ như Bệnh viện Bình Dân, Nhà Kiếng,
Tân Sơn Nhất, Dạ Lữ Viện, Rạch Dừa và các trường học
ở Sàigòn, Chợ Lớn, Gia Định, Thủ Đầu Một hay ở Gò
Vấp như các trường Tôn Thọ Tường, Nguyễn Tấn Nghiệm,
Pétrus Ký, Cây- Gỗ lớn, Cây-Gỗ nhỏ, Đỗ Hữu Phương, Phú
Thọ, Đakao, Khánh Hội và các trạm cứu hỏa đường Trần
Hưng Đạo, tỉnh Gia Định và trại tiếp cư Hòa Khánh ở
Chợ Lớn v.v.
Các thành phần như sinh viên,
học sinh, nhất là phái nữ thì được ưu tiên tạm trú tại
trường Gia Long, trường Pétrus Ký và 2000 người tạm trú
tại các trường học ở Gia Định vì lúc đó các trường
đang nghỉ hè.
Đặc biệt là trại tạm cư
Phú Thọ còn được gọi là Phú Thọ "lều", vì ở trong các
lều. Các lều này được chuyên chở từ Nhật về trong các
kho dự trữ của chính phủ Mỹ ngày 31/7/1954. Đợt đầu tiên
là 2.000 căn lều bạt đã tới Sàigòn và trù liệu chỗ trú
ẩn cho 40.000 dân di cư. Tức khoảng 4 gia đình với trung bình
4 người trong một nhà lều.
Cơ quan
đặc trách di cư
Ngày 9/8/1954: Miền Nam lập
phủ "Tổng-ủy phụ-trách đồng bào tị-nạn" theo NĐ 111TTP-VP,
Ông Nguyễn Văn Thoại làm Tổng Ủy trưởng di cư, phụ tá
là kỹ sư Đinh Quang Chiêu.
Năm 1955, thành lập Phủ Tổng
Ủy Di Cư tỵ Nạn để hoạch định chương trình định cư
dân tỵ nạn đặc biệt là các nông dân trên đồng bằng
Cửu Long. Phụ trách là ông Mai Văn Hàm, Bùi Văn Lương. Ngoài
ra còn có bốn vị đã lần lượt trông coi, chăm sóc cho người
di cư là: Bác sĩ Phạm Hữu Chương, ông Ngô Ngọc Đối,
bác sĩ Phạm Văn Huyến và bên cạnh đó, có đức cha Phạm
Ngọc Chi được chỉ định làm chủ tịch Ủy ban hỗ trợ
định cư. Tại Hà Nội. Phủ Tổng Ủy Di Cư đặt một nha
Di Cư gồm ba người đảm nhiệm (Bác sĩ Hoàng Cơ Bình và
ông Trần Trung Dung lo về dân sự và thiếu tướng Nguyễn
văn Vận lo chuyển vận quân đội vào Nam).
Kế hoạch
định cư
Kế hoạch định cư được
thực hiện theo ba giai đoạn.
Giai đoạn
1: từ tháng 10 đến tháng 12 năm 1954
Phủ Tổng Ủy Di Cư cố gắng
giải quyết các vấn đề cấp bách trong các trại tạm cư
như:
– cung cấp lều tạm trú,
thực phẩm (gạo, mắm muối, cá khô...),
– tìm kiếm đất cho các khu
định cư.
Trong thời gian này, đời sống
của dân tỵ nạn rất là khó khăn: sống chui rúc dưới lều
vải, chia nhau từng giọt nước uống cung cấp bởi các "camion
citerne", làm bếp dưới nắng cháy da, muỗi, ruồi, bệnh tật
quấy nhiễu ngày đêm. Thêm vào khổ ải đó là nhàn rỗi,
nhớ thôn xóm xưa, lo lắng đến một tương lai bất định...Vì
vậy một số di dân sanh ra bất mãn, phiền trách sự chậm
chạp tìm đất định cư cho họ.
Giai đoạn 2: Định cư từ
tháng 1 đến tháng 6 năm 1955
Đây là thời kỳ thành lập
các trung tâm định cư. Với sự giúp đỡ của chính quyền
địa phương, Phủ Tổng Ủy Di Cư quyết định chọn lựa
các khu định cư, hoạch định đồ án xây cất (làm đất,
chia lô...), ước tính kinh phí của chính phủ... rồi phổ
biến tin tức đó trong các trại tạm cư. Sau đó một đại
diện dân chính hoặc cha xứ của khu định cư tương lai sẽ
đi quan sát khu định cư để lấy quyết định thay cho di dân.
Tiếp theo, chính phủ sẽ lo việc chuyên chở, giúp đỡ tài
chánh, thực phẩm, đồ gia dụng thiết yếu như mùng mền,
đũa chén...
Giai đoạn 3: Kiện toàn định
cư từ tháng 6 năm 1956
Sau khi di dân đã sống trong
các khu định cư rồi, Phủ Tổng Ủy Di Cư làm nhiệm vụ
cuối cùng là kiểm điểm và hoàn thiện một cách khoa học
và hợp lý như tìm địa điểm, tài nguyên thích hợp cho từng
nghề nghiệp cho từng loại dân di cư. Thí dụ, trước số
di dân quá đông đảo, lại thiếu nhân viên phụ trách, Phủ
Tổng Ủy Di Cư phạm một số sai lầm trong việc lựa chọn
địa điểm định cư và phân chia di dân theo nghề nghiệp.
Năm 1955, chính phủ thành lập
một Ủy Ban Cao Cấp gồm các chuyên viên nha định cư, nha
kỹ thuật và phái đoàn viện trợ Mỹ. Ủy ban này duyệt
xét lại các trung tâm định cư về mặt kỹ thuật và phối
trí di dân theo ba nghề (nông, ngư, thủ công) cho phù hợp với
mỗi trung tâm.
Theo tài liệu năm 1955 củaTổng
Ủy Di Cư, số dân tỵ nạn do chính phủ trợ giúp được
phân phối theo nghề nghiệp như sau: nông dân chiếm 80% trên
tổng số, còn công nghiệp 10% và ngư nghiệp 10% được phân
phối trong các trung tâm sau:
TỈNH
TRUNG TÂM ĐỊNH CƯ TỴ
NẠN CÔNG NGHỆ
Sài Gòn
Gia Định
Biên Hòa
Thủ Trí, Phú Bình
Xóm Mới, Đông Hòa Xa, Giồng
Ông Tố, Suối Lồ Ồ
Hố Nai, Tân mai, Hòa Bình,
Thanh Bình
TỈNH DUYÊN HẢI
TRUNG TÂM ĐỊNH CƯ NGƯ
DÂN TỴ NẠN
Bên Tre (Kiến Hòa)
Phước Tuy
Vũng Tàu (Phước Tuy)
Cồn Hựu, Khâu Băng
Phước Tĩnh, Tân Phước, Cù
My
Thạnh Thới, Rạch Dừa A,
Rạch Dừa B
Thành quả
Cuối năm 1955, Phủ Tổng Ủy
Di Cư đã định cư trên đồng bằng Cửu Long 393.354 di dân
trên tổng số 508.949 thôn dân di cư (Nguồn: Phủ Tổng Ủy
Di Cư Tỵ Nạn).
Số di dân đã định cư được
phân phối như sau.
Theo bảng phân phối trên, hai
phần ba dân tỵ nạn sống tiếp cận Sài Gòn-Gia Định để
hành nghề thủ công, dịch vụ...Riêng tỉnh Biên Hòa có 56
trung tâm định cư với 107.947 dân tỵ nạn sống nghề khai
thác gỗ rừng và canh tác trên các mảng phù sa cổ. Từ 1955,
các trung tâm định cư ở Gia Định và Biên Hòa giữ vai trò
điều hòa dân số tỵ nạn như vừa cung cấp di dân cho các
khu dinh điền và khu trù mật, vừa là nơi rút lui của những
di dân gặp khó khăn về kinh tế cũng như an ninh do cộng sản
gây ra.
Khảo cứu thực địa một
khu định cư: Cái Sắn
Trong thời gian 1968-1972, chúng
tôi đã đi khảo sát thực địa vài khu định cư thí dụ
như khu định cư Cái Sắn của dân Bắc Kỳ di cư 1954 để
đưa vào giáo trình Địa Lý Nông Thôn giảng dạy tại Đại
Học Văn Khoa Sài Gòn trước năm 1975 ( Xem Khu Dinh Điền, Khu
Trù Mật đã đăng trong Chim Việt Cành Nam).
Năm 1955, nhằm đi tìm đất
định cư dân tỵ nạn, chính phủ thành lập một phái đoàn
gồm các chuyên viên hoa kỳ, tây đức và đại diện bộ canh
nông và cải cách điền địa. Phái đoàn trình lên chính phủ
dự án Cái Sắn tổn phí 228.607.252VN$ (1/4 ngân khoản Mỹ viện
trợ cho 129 dự án định cư). Dự án Cái Sắn 1 (số 15), gồm
bốn dự án định cư khoảng 100.000 dân tỵ nạn trên 77.000
ha đất bỏ hoang. Dự án chính là đào kênh và ba dự án phụ
là cất nhà, mua nông cụ, thực phẩm và tiền trợ cấp cho
di dân trong năm đầu.
Cái Sắn hội đủ các điều
kiện về đất đai phì nhiêu, lý tưởng của một trại định
cư kiểu mẫu và trù phú.Thủ tướng Ngô Đình Diệm gọi
vùng đất này là để "DÀNH CHO CON NGƯỜI, ĐỂ NỐI LIỀN
LONG XUYÊN VỚI RẠCH GIÁ VÀ QUA RẠCH GIÁ, MẢNH ĐẤT ĐEM LẠI
YÊN HÀN VÀ TRẬT TỰ CHO VÙNG NÀY".
Còn đối với người Mỹ thì
như nhận xét sau đây trong Passing the Torch: "CÁI SẮN WAS
HAILED BY THE US AS A SYMBOL OF SOUTH VIET NAM 'S DETERMINATION TO SHELTER
PEOPLE WHO LINKED THEIR FUTURE WITH THAT OF THE FREE GOVERNMENT"[2].
Cái
Sắn được chính quyền Mỹ chào đón như biểu tượng về
lòng quyết tâm của miền Nam Việt Nam để che chở những
ai đặt tương lai của họ vào tương lai của một chính quyền
tự do".
Nha định cư đã đưa tất
cả 42.145 đồng bào tới định cư ở Cái Sắn, gồm 15 trại
định cư và 8.325 căn nhà.
Giải đất hình chữ nhật,
rộng đến 270.000 ngàn mẫu tây, chiều dài kênh Cái Sắn là
25 dặm, chiều ngang 16 dặm, được tưới tiêu bằng con kênh
Rạch Sỏi, chạy dọc theo trại và đổ ra dòng sông Bassac.
Kênh đó nay được gọi là kênh Cái Sắn, một trong những
vùng đất lý tưởng nhất cho việc định cư. Phía Bắc có
14 con kênh đào, phía Nam có 3 kênh. Thêm vào đó là 13 kênh
nhỏ với chiều dài tổng cộng là 159 cây số. Những con kênh
này, bề ngang rộng 6 mét và sâu 4 mét, chiều sâu ở giữa
kênh và bờ kênh thì sâu 1 mét 50. Bên mỗi bờ kênh, sâu vào
20 mét là những căn nhà ở của dân chúng. Đất đào ở các
con kênh thì dùng để đắp nền nhà. Việc đào kênh đều
làm bằng tay mà trung bình một người đào được khoảng
7mét khối/một ngày.
Các kênh được gọi là kênh
1, kênh 2, kênh 3, kênh 4, kênh 5 rồi kênh Tân Hiệp và sau đó
tiếp theo là các kênh A, B, C, D, E, F, G, và H. Công chung tất
cả các kênh gồm 8.086 lô đất. Mỗi lô đất dành cho một
gia đình là 3 mẫu tây vừa là nhà ở và đất để trồng
trọt. Mỗi lô đất rộng 30 mét tây chiều ngang và 1000 mét
chiều dài.
Nhưng để đất có thể trồng
trọt được, cơ quan USOM đã dùng 110 máy ủi đất để cào
sới đất, sau đó dùng máy cầy san đất. Tính chung là 1.800.000
mét đất đã được ủi và cào xới.
Chính quyền có cấp phát cho
các gia đình trâu để cầy ruộng. Trâu mua từ Thái Lan về.
Đã có 2.148 con trâu đã được cấp phát cho các trại di cư
ở Nam Phần và 40 con ở Trung Phần.
Riêng ở Cái Sắn, cứ 4, 5
gia đình chung nhau một con trâu để cầy ruộng. Sau này, nhiều
người có tiền thì có thể mỗi nhà có một con trâu để
lo việc cầy bừa ruộng.
Trên toàn thể các trại di
cư, chính phủ đã giúp đào được 5.405 cái giếng và phân
phối khoảng 400 tấn phân bón. Đồng thời phân phối khoảng
60 ngàn cuốc xẻng. Chính phủ cũng cho nông dân đi định cư
vay một số tiền là 118.217.200 triệu đồng.
Hầu hết diện tích 270.000
mẫu tây dành cho người di cư và một phần dành cho người
dân địa phương chưa có nhà cửa. Những cư dân địa phương,
khoảng 20.000 ngàn người thì được ở khu vực kênh Tân Hiệp
vốn đã có sẵn từ trước.
Chính phủ Hoa Kỳ còn cung cấp
cho dân định cư, lúc đầu là 50.000 người, dự trù thêm
50.000 nữa, một số tiền là 400 triệu đồng cùng với tất
cả các dụng cụ nông nghiệp mà số tiền tính ra khoảng
1 triệu Mỹ kim.
Mùa gặt đầu tiên ở Cái
Sắn đã thu về được 4.000 tấn gạo mà phần lớn từ mùa
thu hoạch "lúa xả, hay floating rice".
Cái Sắn là một tiêu biểu
cho sự thành công của người di cư tị nạn cộng sản.
Thực hiện
TT Diệm ký sự vụ văn thư
133 TTP/KH ngày 17 tháng 1 năm 1956 bổ nhiệm bảy công chức
cao cấp trách nhiệm thực hiện dự án Cái Sắn:
– Tổng Ủy trưởng Di Cư
Tỵ Nạn và đại biểu chính phủ tại Nam Phần theo dõi thi
hành huấn lệnh của Tổng Thống;
– Tổng giám đốc kế hoạch
lo phối trí kế hoạch và thanh toán viên ngân sách;
– Đổng lý văn phòng bộ
Cải Cách Điền Địa lo việc cày đất và bảo trì nông cụ;
– Giám đốc định cư thuộc
Tổng Ủy trông nom việc chuyên chở di dân;
– Tổng thư ký bộ công chánh
phụ trách đào vét kênh;
– Giám đốc nha canh nông phát
lúa giống, cày cuốc...
Từ tháng 3 năm 1956, bộ Công
Chánh đã vét hai kênh đào cũ nối với kênh Rạch Sỏi-Bắc
Sắc và kênh Rạch Giá-Long Xuyên và đào 17 kênh mới song song
với nhau, cách nhau từ 2 đến 2,5 cây số và thẳng góc với
hai kênh trên. Mỗi kênh mới dài 12 cây số, rộng 8m, sâu 1,5
m. Công việc đào kênh kết thúc vào tháng 5 năm 1956.
Ngày 14 tháng 1 năm 1956, báo
chí loan tin dự án Cái Sắn. Một tuần lễ sau, Tổng Ủy Di
Cư nhận được 42 850 đơn xin định cư. Trung tâm Cái Sắn
1 được chính thức thành lập ngày 27 tháng 1 năm 1956 tại
xã Thạnh Qưới trên một diện tích 27 153 Ha (16 337 Ha nằm
trong địa phận tỉnh An Giang và 10 816 Ha thuộc tỉnh Kiên
Giang). Trên lý thuyết, trung tâm Cái Sắn dự liệu định cư
9000 gia đình gồm khoảng 45 000 người trong giai đoạn đầu
tiên.
Việc thu mua ruộng đất để
cấp phát cho di dân thì dưạ vào dụ số 7 và 57 của luật
cải cách điền địa :
– Dụ số 7 (ngày 5 tháng 2
năm1955) qui định dân tái canh ruộng hoang với tư cách tá
điền. Chủ điền khai báo ruộng bỏ hoang và ruộng xin giữ
lại, phần còn lại bán cho chính phủ cấp lại cho dân tỵ
nạn nhưng việc thi hành dụ số 7 gặp rất nhiều khó khăn.
Tổng kết ruộng Cái Sắn cấp phát cho dân qua dụ số 7 là
15 387 Ha.
– Dụ số 57 (ngày 22 tháng
10 năm 1956). Chủ điền chỉ giữ laị 100Ha và bán số Ha còn
lại cho chính phủ. Tổng cộng 4 845 Ha (qua thỏa ước Việt
Pháp) và 6 252 Ha công điền, công thổ đã được cấp phát
theo dụ số 57.
Đón tiếp
di dân
Khi tới Cái Sắn, dân di cư
tỵ nạn sống tạm dưới lều nhà binh hoặc trong những lán
lợp lá dừa nước cất tạm bên lộ đường. Mỗi lán dài
20m và rộng 9m, mỗi gia đình ở một căn (9m2) trong lán. Chính
phủ trù liệu ngân khoản 45 360 000$ để giúp đỡ di dân trong
những ngày khó khăn đầu tiên trên vùng đất bỏ hoang từ
10 năm nay.
Mỗi người di dân trên 18 tuổi
nhận được trợ cấp như sau:
-244 VN$ để đầu tư lúc đầu
vào việc định cư,
-lãnh 4 VN$ mỗi ngày trong 9
tháng kể từ ngày định cư,
15 giạ (300 lít) hạt giống
lúa, một bao lớn đựng túi hạt giống bắp, đậu, cà chua.
Về thực phẩm hàng ngày, di
dân được cung cấp gạo, bột bắp, nước mắm, muối, cá
khô và thỉnh thoảng có bơ, sữa bột của chương trình viện
trợ hoa kỳ dưới nhãn hiệu "Food for freedom".
Chính phủ cung cấp cho mỗi
gia đình
– một chiếc ghe tam bản "
dài 2,5 m trên 0,5 m) để di chuyển,
– cưa, liềm gặt lúa, dao
phát cỏ, cuốc và hai thùng phuy đựng nước uống rất hiếm
trong vùng này.
Trong chương trình y tế, chính
phủ cho xây trường học và bệnh xá, mua 6730 chiếc mùng đơn
trị giá 750 000 VN$ và 6 730 mùng đôi phí tổn 740 000 VN$.
Thiết
kế và quản trị
Trung tâm định cư được chia
thành lô rộng 30m, dài 1000m, chạy dài theo kênh đào tạo nên
hình ảnh cư trú đươc hoạch định gồm những hàng nhà song
song dọc theo hai bên bờ kênh và đâu mặt với nhau. Mỗi kênh
dài 12Km, ngang 8M, sâu 1,5M gồm hai xứ đạo, mỗi xứ có một
giáo đường xây dựng trên 3 hoặc 6 lô đất, ở cây số
thứ 3 và 8 để cho tiện giáo dân di chuyển.
Sau khi bốc thăm chọn lô đất,
mỗi chủ gia đình được phát 800 VN$ để làm nền nhà và
một số vật liệu kiến trúc để dân tự cất, mướn, đổi
công đắp nền. Ngoài ra chủ gia đình phải tham dự đắp
đường làng trải dài theo bờ kênh và vui lòng đóng góp công
sức vào việc xây cất giáo đường của xứ.
Về việc điều hành hành chánh,
các nhà dọc theo kênh tập hợp thành nhiều trại. Mỗi trại
có một ban quản trị gồm ba người (chủ tịch do Tổng Ủy
bổ, thư ký và ủy viên tài chánh do dân của trại bầu).
Tất cả các ủy ban quản trị đặt dưới sự điều hành
của ủy ban định cư do tỉnh trưởng làm chủ tịch quản
trị nội bộ, thi hành dự án. Về an ninh, 100 nhà cử 20 người
vào ban tự vệ do quận trưởng điều động. Trên thực tế,
các cha xứ là người nắm giữ nhiều quyền hành, nhất là
về ổn định đời sống tinh thần và vật chất của di dân.
Khó khăn
Việc định cư gặp rất nhiều
khó khăn trong những năm đầu.
Khó khăn thứ nhất là sự
bất mãn của 636 điền chủ bị truất hữu hoặc không hưởng
được tiền bồi thường vì không cung cấp được cho chính
quyền giấy tờ chứng minh sở hữu và thừa kế.
Khó khăn tiếp là vấn đề
kỹ thuật và tổ chức. Để sửa soạn cho mùa lúa 1956-1957,
bộ Canh Nông gởi 200 máy cày, máy ủi và trâu đến cày 12
000 ha. Vì thiếu kinh nghiệm kỹ thuật (ráp nhầm, máy hư,
thiếu người lái...) nên chỉ có 63 máy cày hoạt động được.
Công việc cày rất là gian khổ vì đất bỏ hoang từ 10 năm
nay, đất lún, nhiều mô đất cao, cỏ dại khó ủi mọc lại
ngay sau một tháng. Đến tháng 7 chỉ cày được 9126 Ha cho
mùa 1956. Đầu tháng 7 năm 1957, chính phủ gởi đến 466 con
trâu mua của Thái Lan (dự trù 2400 con mới đủ một con cho
bốn gia đình) nhưng trâu này nghịch phá, không thuần như
trâu việt. Tiếp theo, chính phủ cung cấp thêm 650 cày tay mua
của Đài Loan nhưng cày tay loại này quá yếu ớt nên gãy
dễ dàng khi gặp đất thịt cứng.
Trong mùa lúa đầu, chính phủ
cung cấp cho mỗi gia đình: 15 giạ thóc giống (Một giạ bằng
khoảng 20 lít), 1 bao hạt giống (bắp, đậu, bí, cà chua...),
cào cỏ, liềm, xẻng, cuốc bản, bình xịt thuốc. Ban quản
trị và cha xứ hết sức đôn thúc dân làm tập thể vụ mùa
1956 nhưng vì nạn chuột và cỏ dại nên chỉ thu hoạch được
7 882 tấn lúa.
Tiến đến
thành công
Trước khi chính thức thành
lập khu định cư Cái Sắn, nhờ thông tin của chính phủ cùng
với phóng sự báo chí rất là lạc quan về tương lai của
miền đất hứa nên rất nhiều đơn xin đi định cư. Sau vài
tháng thu hoạch thất bại vụ mùa 1956, dân tỵ nạn mất tin
tưởng và ảnh hưởng đến tinh thần định cư tại Cái Sắn.
Các ban quản trị và các cha
xứ cố gắng đốc súc dân cải thiện điều kiện canh tác
cho mùa lúa 1957 như xử dụng máy cày, vét kênh rút nước,
san bằng đất gồ ghề, chăm phạt cỏ giết chuột. Kết quả
sự thâu hoạch vụ mùa 1957 tăng lên 13 400 tấn lúa. Tương
đối tổng số thâu hoạch chưa đủ thỏa mãn nhu cầu thực
phẩm của dân chúng nhưng cũng đủ để dân chúng an tâm cho
thu hoạch vụ mùa tới nếu chịu cải thiện điều kiện canh
tác. Cuối năm 1957, Cái Sắn được địa phương hóa.
Tháng 2 năm 1958, Tổng Ủy Dinh
Điền loan báo Cái Sắn phải tự túc cho những vụ mùa tới
và thu lại đoàn máy cày của Quốc Gia Nông Cụ Cơ Giới Cuộc.
Sợ dân bỏ đất hoang vì tiền thuê máy cày và trả công
rất cao (550$/Ha), cha xứ kênh D (Linh mục Nguyễn đức Do) được
Quốc Gia Nông Tín Cuộc cho vay 1 090 000 VN$ mua 4 máy cày Fiat,
350 000 VN$ mua hạt giống, 510 000 VN$ bảo trì máy cày. Nhờ
vậy mà dân hăng hái ra đồng làm việc và dân đã bỏ đi
thì trở lại. Tới tháng 6, dân đã cày đủ 21 000Ha ruộng.
Theo gương đó, kênh G (230 gia đình) cũng góp mua được 2 máy
cày. Các kênh khác cũng được Quốc Gia Nông Tín cho vay để
mướn cày máy cho kịp vụ mùa. Các biện pháp tự túc trên
làm cho khu định cư nhộn nhịp trở lại với đầy tin tưởng
vào tương lai.
Vụ mùa 1958 đã nâng số sản
xuất lên 21 500 tấn lúa, tăng thêm đất canh tác, trồng thêm
nhiều loại hoa màu mới (thuốc lá, bắp, rau cải...) và số
lượng sản xuất nông phẩm tăng đều mỗi năm.
Để kết luân bài khảo cứu
thực địa, tôi mượn vài vần thơ nhớ về Cái Sắn của
thi sĩ Thanh Huyền trong Hồi Ký Không Trọn Vẹn dưới đậy.
NGƯỢC GIÒNG (Di Cư 1954-Cái
Sắn)
January 24, 2016
TỪ VÀM CÁI SẮN HẬU GIANG
ĐỔ VỀ RẠCH GIÁ ĐẾM BẰNG
ĐẦU KÊNH...
CUỐI KÊNH THÌ GIÁP THOẠI
GIANG
THÔNG THƯƠNG ĐƯỜNG THỦY
DỌC NGANG TOÀN VÙNG...
DI CƯ TỪ BẮC MỚI VÀO
KINH QUA CÁC TRẠI, TRẠI NÀO
CŨNG VUI
NHƯNG VÌ LỐI SỐNG ĐÃ QUEN
RUỘNG ĐỒNG CẤY HÁI HỢP
HƠN MIỀN RỪNG
NỒI NIÊU GẠO THÓC CÁ KHÔ
LƯƠNG THỰC ĐẦY ĐỦ PHÁT
CHO TỪNG NHÀ
TỚI KHI HOÀN TẤT KINH ĐÀO
THÌ THEO THỨ TỰ CÙNG VÀO
ĐỊNH CƯ
RUỘNG CHIA BA MẪU MỘT LÔ
BA NĂM CẰY CẮY GIÚP CHO KHÔNG
HÒAN
VẬT LIÊU MỘT BỘ NHÀ TRÀM
PHƯƠNG TIÊN ĐẨY ĐỦ NHƯ
LÀ "RA RIÊNG"!
RUỘNG SÂU DẦY ĐẶC CÁ TÔM
LÚA MÙA CĂNG SỮA CHĨU BÔNG
MỘNG VÀNG
ÐƯỢC MÙA KHU XÓM RỘN RÀNG
NHÀ TRỤC NHÀ CẮT NHIP NHÀNG
GOM THU
KHÔNG LÂU ĐÃ TRỞ NÊN QUEN
VÀO MÙA NƯỚC NỔI CHÚNG EM ĐUA THUYỀN
KHI ĐI CHÈO VỘI ĐẾN TRƯỜNG
LÚC VỀ CHIA TOÁN NHẬN XUỒNG CỦA NHAU.
Hình ảnh ban đầu của khu
định cư Cái Sắn
Khu định cư tỵ nạn Cái
Sắn
(hình Bộ Thông Tin chụp năm
1957)
Một nhà thờ mới được
dựng lên tại khu định cư của đồng bào miền Bắc di cư
năm 1954 tại Cái Sắn,vừa kịp thời để Mừng Chúa Giáng
Sinh 1957.
Bản đồ khu định cư Cái
Sắn (Nha Địa Đồ Đà Lạt, năm 1969)
Hình ảnh hiện nay của khu
Cái Sắn
(Hình: Đinh Tiến Khôi và Google)
Đô thị hóa: Hình ảnh thành
công
Ngày nay nếu trở về thăm
nhiều khu định cư các người Bắc Kỳ tỵ nạn cộng sản
năm 1954 như khu định cư Xóm Mới, khu Hố Nai... thuộc khu
định cư công nghệ, chúng ta không còn nhận ra hình ảnh cư
trú ngày nào của những người chạy trốn đi tìm tự do.
Hình ảnh đô thị hóa hiện nay của khu định cư Bắc Kỳ
di cư 1954 đủ nói lên một khía cạnh thành công của thời
Đệ Nhất Cộng Hòa.
Khu định
cư Xóm Mới
Khu định cư Xóm Mới nằm
trong địa phận xã An Nhơn, cách Sài Gòn 4 cây số. Xã An Nhơn
lập năm 1868 trên một diện tích 5,8 cây số vuông gồm những
mảng phù sa cổ cao ráo để dân dựng nhà cửa trồng rẫy
và dưới thấp phủ bởi phù sa mới ẩm ướt làm ruộng cấy
lúa. Năm 1954, chính phủ cho một số dân tỵ nạn tạm trú
trên những mảng phù sa cổ đất cát nghèo nàn bỏ hoang.
Đầu năm 1954, dân tỵ nạn
gốc Thái Bình, Bắc Ninh và Hà Nội đến tạm trú hai bên
hương lộ 12 rồi chiếm dần hai bên tỉnh lộ 16 và hương
lộ 11 (ấp 9 và 4). Vào cuối năm 1954, dân tỵ nạn gốc Cao
Bằng, Lạng Sơn đến tạm trú phía cuối hương lộ 16 (ấp
10). Tất cả khu này mang tên Xóm Mới gồm 15 trại định cư
tổ chức thành những xứ đạo. Năm 1955, dân số tỵ nạn
ước lượng 20 000, cư ngụ trên cả ruộng đất hai bên tỉnh
lộ 16, hương lộ 11 và 12 lập thành một khu tam giác chia thành
7 ấp.Tại đây dân tỵ nạn sống về công nghiệp như sản
xuất pháo tết (Pháo Từ Châu, Việt Quang...), nấu rượu,
thương mại như dệt, nhuộm, chăn nuôi heo, gà và đủ thứ
dịch vụ cung cấp cho Sài Gòn-Gia Định. Nhờ làm ăn phát
đạt, khu định cư Xóm Mới thành thị hóa dần dần, nhà
lầu gạch, xi măng thay thế cho nhà tôn vách ván trông như
một thị trấn nối liền với thủ đô.
Hình thức cư trú Xóm Mới
gồm hai khu vực khá rõ rệt :
– Khu phố thương mại dọc
theo tỉnh lộ 16 và hương lộ 11 và 12 thuộc về thương gia,
cơ xưởng công nghiệp, công chức thợ thuyền. Từ năm 1957,
Xóm Mới có 15 thánh đường, hai tu viện, trường công lập
(2 trung học, 6 tiểu học) và tư thục (4 trung học, 11 tiểu
học), 3 hợp tác xã dệt được hưởng tiền bồi thường
của Nhật...
– Khu ngõ hẻm. Đằng sau các
cửa tiệm sầm uất là những hẻm bùn lày, nhà cửa chen chúc
sống chui rúc thợ thuyền, lính tráng, dân chăn nuôi heo gà
và những người trở về từ những trại định cư gặp khó
khăn.
Giống như khu định cư Hố
Nai (Biên Hòa), Bùi Chu (gia Định), Xóm Mới giữ vai trò quan
trọng trong việc điều hòa dân số tỵ nạn bất ổn. Chính
các khu định cư này cung cấp dân số cho các trung tâm định
cư mới thành lập và đồng thời là nơi trú ẩn khi rút lui
khỏi những trung tâm định cư bất ổn. Thí dụ năm 1956-57,
khoảng 5000 dân tỵ nạn rời bỏ trại định cư tỵ nạn
về trú ẩn ở Xóm Mới để tìm việc ở tỉnh thành. Nhất
là sau 1963, tình trạng an ninh nông thôn và cộng sản tấn
công nhiều trại tỵ nạn đã làm dân số Xóm Mới tăng lên
55 600 dân.
Xóm Mới năm 1972
Khu định
cư Hố Nai
Trước năm 1954, Hố Nai thuộc
làng Bình Trước. Năm 1955, trước làn sóng dân cư từ miền
Bắc di cư vào, chính quyền Sài Gòn lập nhiều trại định
cư trên quốc lộ 1 và đến 1957 thì thành lập xã Hố Nai,
với các ấp Tây Hải, Nam Hải, Đông Hải, Bắc Hải thuộc
quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa. Đa số
dân xã Hố Nai là tín đồ đạo Công giáo, chuyên nghề nông,
trồng trọt và sản xuất các ngành nghề thủ công. Hố Nai
đi hàng đầu với 26.912 người ở giai đoạn đoạn đầu.
Sau này con số người đến Hố Nai là trên 40 chục ngàn người
mà dự liệu lúc ban đầu chỉ là 10 ngàn người.
Người dân
Hố Nai cần cù, hiếu khách, sinh động trong làm ăn kinh tế,
ngoài chăn nuôi, trồng trọt, Hố Nai còn có làng Kim Bích nổi
tiếng về ngành nghề gò thùng thiếc và sản xuất các sản
phẩm từ nông nghiệp như tráng bánh đa, bánh phở, mì sợi
cung cấp cho nhiều tỉnh thành phía nam và được nhiều người
ưa thích. Phường Hố Nai là cửa ngõ của thành phố Biên
Hòa rất phát triển về thương mại – dịch vụ, khu công
nghiệp Hố Nai thu hút nhiều lao động vào làm việc trong các
công ty.
Ngày nay xã
Hố Nai đã được đô thị hóa và tách thành 4 xã, năm 1976:
Hố Nai 1, Hố Nai 2 (nay là 2 phường Tân Biên và Tân Hòa),
Hố Nai 3, Hố Nai 4 (nay là 3 xã Bắc Sơn, Bình Minh, Quảng Tiến
thuộc huyện Trảng Bom) thuộc huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng
Nai.
Ngày 23 tháng
10 năm 1978, xã Hố Nai 1 được chuyển về thành phố Biên
Hòa và đổi thành phường Hố Nai 1.
Năm 1996,
phường Hố Nai 1 được đổi tên thành phường Hố Nai. Phường
Hố Nai nằm ở ngoại ô phía Đông thành phố Biên Hòa, cách
trung tâm thành phố khoảng 6 km, có Quốc lộ 1A và đường
Nguyễn Ái Quốc đi qua, nằm gần các khu công nghiệp lớn
của tỉnh và thành phố.
Tổng kết
Theo tài liệu chính thức của
phủ Tổng Ủy di cư thì tính đến ngày 30/10/1955 có tất cả
là 887.890 người đã được di cư vào miền Nam. Trong đó cần
định cư 596.031 người. Còn lại 140.000 sống rải rác khắp
nơi và 125.393 là gia đình các quân nhân. Để định cư con
số hơn nửa triệu người thì chính quyền đã cho thiết lập
được 156 trại ở Nam Phần, 65 trại ở Trung Phần và 34 trại
ở vùng Cao Nguyên.
Tính đến ngày 30/6/1955, người
vào Nam bằng tàu thủy: 534.761 người; bằng tàu bay: 213.657
người và bằng các phương tiện khác: 61.582 người.
Về phân phối theo tôn giáo
theo tổng kết của Phủ Tổng ủy di cư tị nạn (số liệu
tính đến tháng 11/1955):
1. Tin Lành 1.041,
2. Phật giáo 209.132,
3. Công giáo 676.348,
Tổng cộng: 886.881.
Kết luận
Năm 1957 đánh dấu kết thúc
chính sánh định cư dân tỵ nạn di cư vào Nam. Từ đó vì
thiếu tài liệu (phúc trình, thống kê chính thức) nên sự
nghiên cứu và đánh giá kết quả chính xác các khu định
cư này rất là khó khăn. Tuy nhiên, sau 1970, sự thiếu sót
đó được bổ túc một phần nhỏ bởi khảo cứu thực địa
của tác giả cho giáo trình ‘Cư trú nông thôn" giảng dạy
tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, Về thành bại của các khu
định cư người Bắc Kỳ tỵ nạn cộng sản, tác giả có
những nhận xét sau.
Mặc dầu những xáo trộn chính
trị xã hội sau hiệp định Genève, thiếu nhân viên kinh nghiệm
và tài chánh, chính phủ đã định cư tốt đẹp hơn 300 000
dân tỵ nạn. Kết quả này là nhờ thời kỳ an ninh trên quê
hương và các ban quản trị nhất là các vị linh mục ở các
xứ đạo.
Sau nữa chúng tôi nhận xét
thấy những khu định cư phát triển, tồn tại là phần nhiều
nhờ vào yếu tố chính sau:
– Dân tỵ nạn cùng gốc ở
một tỉnh hoặc một xứ đạo miền Bắc,
– Người dân mộ đạo nên
rất có kỷ luật nghe lời cha xứ.
– Đa số dân sống tựa vào
khu thành thị thí dụ như Xóm Mới, Hố Nai, Hòa Bình, Bùi
Chu...
Sau cùng, các khu định cư quá
nhỏ bé khiến cho dân bỏ đi vì:
– Thiếu đất canh tác thí
dụ như khu định cư ấp Sơn Lộc (xã Tân Phú Trung, tỉnh
Hậu Nghĩa) mỗi gia đình hưởng một lô đất canh tác là
0,3Ha trên đất cát nghèo nàn;
– Không hội nhập được
với dân địa phương vì khác biệt nếp sống, tôn giáo thí
dụ như khu định cư ở ấp Sơn Hải (xã Đại Hải, tỉnh
Ba Xuyên) thuộc giáo xứ Phụng Hiệp.
Khu Bắc Kỳ di cư tỵ nạn
cộng sản tại xã Đại Hải tỉnh Ba Xuyên
vẫn giữ cách xây cất cổ
truyền miền Bắc mái tranh, vách đất (hình Nguyễn Huy chụp
năm 1970)
Để kết luận Bắc
Kỳ Di Cư 1954 về mặt tình cảm, chúng ta hãy nghe lại các
nhạc sĩ Bắc Kỳ di cư diễn tả nỗi lòng mình qua những
bản nhạc: Ghé bến Sài Gòn (Văn Phụng), Hình ảnh quê xưa
(Hoàng Trọng), Chuyến đò vĩ tuyến, Nắng đẹp Miền Nam,
Đoàn người lữ thứ...
Thư tịch
Cuộc Di Cư Lịch Sử, Phủ
Tổng Ủy Di Cư, Sài Gòn, 1958
Kế hoạch di cư Bắc Việt
1954, hồ sơ số 14613, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II.
Hồ sơ về hoạt động của
Phủ Tổng ủy di cư tị nạn năm 1955, hồ sơ số 4042, Trung
tâm Lưu trữ Quốc gia II
Nguyễn văn Lục, Nhìn lại
cuộc di cư 1954-1955 (nguồn internet)
Ronald B. Frankum, Jr, Operation
Passage to Freedom – The United States Navy in Vietnam, 1954-1955" (Texas
Tech University Press, Lubbock, Texas, 2007). Đặc biệt là cuốn
sách này ghi lại những cái nhìn, những điều suy nghĩ khi
thủy thủ các chiến hạm trao đổi, tiếp cận với người
tỵ nạn. Thí dụ thủy thủ Majesky trên chiến hạm Menard đã
viết thư về cho cha mẹ tả lại hoàn cảnh khốn cùng của
những người di cư chân đất, chân không, không một thứ
gì mang theo, bước lên tầu, nhưng lòng lại tràn ngập niềm
tin tưởng.
Ghi chú.
-
Các số thống kê thường do các
cơ quan hay tổ chức khác nhau cung cấp nên có khác biệt nhưng
không nhiều,
-
Các tài liệu chi tiết của khu
định cư Cái Sắn được rút ra từ tư liệu khảo cứu thực
địa của tác giả.
Hình ảnh
đi tìm tự do "Từ Bắc vô Nam"

Ra đi từ thôn quê Bắc Việt
Đến bến tự do Sài Gòn
1. Con đường lựa chọn

2.Các phương tiện chạy trốn
cộng sản
 


Bỏ lại tất cả để tìm tự
do: Chợ trời Hà Nội


 |