Trúc Lâm Thiền Viện là một
ngôi chùa Việt Nam tại Villebon-Sur-Yvette, ngoại ô Nam Paris,
do Thầy Thiện Châu khởi công quyên góp xây năm 1977.
Thời bấy giờ, tại Pháp
cũng đã có nhiều chùa. Nhưng hầu hết chỉ là những căn
nhà được sửa sang lại thành nơi thờ Phật, và các tượng
cũng khá hiếm, lại kém vẻ bề thế. Chùa Trúc Lâm như vậy
sẽ là một ngôi chùa , được vẽ kiểu, xây cất theo yêu
cầu kiến trúc được định rõ.
Thầy muốn xây một ngôi chùa
vừa mang phong cách truyền thống Việt Nam, vừa là phương
tiện để thể hiện một đường lối tu học, đặt trọng
tâm trên Thiền định và Trí tuệ hơn là Tín ngưỡng,
mà thầy đã gầy dựng và hành trì nhiều năm qua, từ khi
đặt chân lên đất Pháp.
Hai đồ án kiến trúc được
đề nghị, một của kiến trúc sư Võ Thành Nghĩa, với quan
niệm hoành tráng, hiện đại, một của kiến trúc sư Phạm
Ngọc Tới, với đường nét truyền thống. Đồ án của kiến
trúc sư Phạm Ngọc Tới được chấp nhận.
Và năm 1980, chùa khởi công
xây.
Song song, với công cuộc xây
cất, một vấn đề quan trọng không kém dược đặt ra: Làm
sao có được điện thờ, tượng thờ tương xứng với ngôi
chùa ? Muốn có tượng đẹp, bề thế, chỉ còn cách tìm mua
hay đặt làm tại Việt Nam.
Duyên may, Thầy thỉnh được
từ chùa Quán sứ tại Hà nội 10 pho tượng khá lớn bằng
gỗ , cùng hoành phi, câu đối.
Nguyên tại Phố Hàng Chuối
có ngôi chùa Tràng Tín được xây cất từ năm 1824(?). Cuối
thập niên 50, Thầy trụ trì viên tịch không người kế vị
. Chùa dần dần đổ nát, hoang phế. Năm 1966, có 3 hộ đi
kinh tế miền núi về đã ngụ cư tại chùa. Về sau, số người
tới mỗi ngày mỗi đông , nhà tổ, điện mẫu lần lượt
bị lấn chiếm, sau cùng tòa tiền đường 5 gian bị dỡ bỏ
dùng làm nơi sản xuất cho một hợp tác xã nhựa. Tượng
Phật đem gửi tại chùa Quán Sứ. Đến năm 1980, thì được
thỉnh qua Pháp cho ngôi chùa đang xây.
10 pho tượng , bằng gỗ mít
đặc , lớn, đẹp, có thể nói là quý hiếm, nhất là cho
một ngôi chùa hải ngoại. Tượng, trước đây lại được
đúc cho một ngôi chùa cổ , nơi hành trì một pháp môn tu
học truyền thống không biết có phù hợp với đường lối
Thầy gây dựng, hành trì tại Pháp không ?
Do đó, vấn đề được đặt
ra là định danh vị các tượng, tượng nào chỉ Phật nào,
Bồ tát nào, và cùng lúc định phương cách bài trí bàn thờ,
tượng thờ: làm sao không đi ngược tôn chỉ của chùa Trúc
Lâm, một ngôi chùa Thiền thờ Phật Thích Ca.
A - Định
danh vị các tượng và bài trí bàn thờ
Do lịch sử truyền nhập, đạo
Phật tại Việt Nam rất hỗn tạp. Không có một công thức
chung cho tượng thờ cũng như cách bài trí tượng ở trong
chùa . Phật và các vị Bồ tát quan trọng thường được
thờ ở chánh điện. Trong nhiều chùa, nhất là chùa Bắc Tông,
tại các bàn thờ phụ hay trong khuôn viên chùa, có thờ thêm
thần, thánh, mẫu, danh nhân, danh tướng được thần thánh
hóa. Có chùa lại còn thờ cả Quan Công của người Tàu nữa.
A-1 Tượng thờ
Trong thực tế, chưa ai thấy
Phật, Bồ tát , hay có thấy thì cũng đã thuộc về quá khứ
nhiều đời, đa số lại chỉ là các nhân vật biểu tượng,
hình tướng được truyền tụng lại, không dấu tích lịch
sử chứng minh. Vậy dựa vào đâu để phân định tượng
này chỉ Phật Thích Ca hay Phật A Di Đà, tượng kia chỉ Bồ
Tát Đại Thế Chí hay Bồ Tát Văn Thù ?
Xưa nay, để tạc tượng thờ,
nghệ nhân có thể theo quy cách được ghi lại trong nhiều
kinh sách bằng chữ Hán lưu hành trong Phật giáo với những
quy định chính xác, về tỷ lệ chiều cao, chiều ngang ...
cho đến tận ngón chân ngón tay, các thế tay bắt ấn quyết….
Nhưng có nhiều khi nghệ nhân
tạc tượng theo lối dân gian , theo cảm nhận riêng tư của
mình, theo yêu cầu của người đặt làm, là tăng ni hay cư
sĩ, hay học mẫu từ các chùa nổi tiếng.
Dù thế nào đi nữa, các tượng
là chân dung các nhân vật Phật giáo với những đặc tính,
huyền thoại đã được ghi trong truyền thống, kinh điển.
Do đó, khi tạc tượng nghệ nhân tìm cách diễn tả những
đặc tính đó qua các vật dụng tùy thân , qua các con
thú đi kèm, qua sinh hoạt thông thường của nhân vật muốn
diễn dịch. Phật có 32 tướng quý, Quan Âm thường có bầu
nước Cam lồ, Văn Thù Bồ Tát có kinh sách, Phổ Hiền Bồ
Tát cưỡi voi 6 ngà...
Sinh hoạt như thuyết giảng,
thiền định , tuyên ngôn... còn có thể được diễn dịch
qua tư thế của bàn tay, ngón tay gọi là thủ ấn (mudra). Xem
vị trí một hay hai bàn tay , tư thế co giãn các ngón tay ,
ta có thể hiểu Phật hay Bồ Tát đang vận dụng chuyển Pháp
Luân hay đang thuyết giảng.
Tư cách của một nhân vật
cũng có thể được định qua cách bài trí bàn thờ, vị trí
tương hợp với các tượng khác chung quanh. Các đại đệ
tử Ca Diếp và A Nan chỉ có thể chắp tay túc trực bên cạnh
Phật Thích Ca, chứ đem sắp xếp bên cạnh Phật Di Đà hay
Dược Sư là chuyện phi lý.
A-2 Bàn thờ
Về bài trí bàn thờ, tuy không
có một quy luật nhất quán, nhưng trong nhiều chùa, các tượng
thường được sắp xếp thành từng bộ.
Tại các chùa Bắc tông , tượng
Di Ðà được thờ chung với tượng Quan Âm và tượng Thế
Chí, gọi là bộ "Di Ðà tam tôn", tượng Thích Ca được ghép
với tượng Văn Thù ( Ðại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát /Maṃjuśrī-bodhisatva)
và tượng Phổ Hiền (Ðại Hạnh Phổ Hiền BồTát /Samanta-bhadra-bodhisatva)
) có người gọi là "Hoa Nghiêm Tam Thánh".
Ðạo Phật Việt Nam, ít nhất
cũng từ vài ba trăm năm qua lệ thuộc nhiều vào đạo Phật
Trung Quốc. Các tông phái, dù tự nhận thuộc Thiền tông,
nhưng trong hành trì lại rất nặng yếu tố Tịnh Ðộ và
Mật tông, trên điện thờ thì Phật A Di Ðà và Phật bà Quan
Âm lấn át hoàn toàn Phật tổ Thích ca.
Do đó, trong nhiều chùa Bắc
tông xứ ta, cách bài trí chánh điện mang công thức Tịnh
độ Di Ðà, và có thể chia thành tầng như sau:
- Tầng thứ nhất, trong cùng,
là bộ Tam thế Phật, tức là 3 vị Phật của quá khứ, hiện
tại và tương lai.
- Tầng thứ 2 là bộ Di Ðà
tam tôn, gồm Phật Di Ðà, Ðại Thế Chí Bồ Tát và Quan Thế
Âm Bồ Tát.
- Tầng thứ 3 một vài chùa
thờ Phật Thích Ca ngồi thuyết pháp, một bên là tượng A-Nan-Ðà,
một bên là tượng Ca-Diếp, Có khi là Phật Thích ca ngồi
giữa Văn Thù và Phổ Hiền Bồ Tát.
- Tầng thứ 4 là Phật Cửu
Long, tượng Phật sơ sinh, có 9 con rồng phun nước cho ngài
tắm.
Ngoài ra còn có tượng Phật
Tuyết sơn, minh họa thời kỳ Phật tu khổ hạnh...
B- Tượng
Phật và phong cách bài trí điện thờ tại Trúc Lâm Thiền
Viện
B-1 Những
tượng đợt đầu lúc mới xây chùa
Ngày 31/5/1980 (HS 17)[*]
lễ
đặt đá và dựng cột xây ngôi Đại Hùng Bảo Điện chùa
Trúc Lâm được tồ chức và một năm rưỡi sau, ngày 23/1
– 24/1/1982 (30 Tết) là lễ An vị Phật (HS 22)
Lúc bấy giờ chỉ có tượng
nơi Đại Hùng Bảo Điện được bài trí thành 3 bàn thờ.
Ngoài chánh điện, trong khuôn viên chùa, tượng Phật Thích
Ca lớn lộ thiên và tượng Phật Bà Quan Âm , chưa có, sẽ
được dựng lên về sau này.
10 pho tượng được sắp xếp
tạo dựng nên một điện thờ Phật Thích Ca với 2 yêu cầu:
1 - thể hiện phong cách Từ
Bi, Trí Tuệ trong Thiền định
2 - Làm nổi bật hình tượng
Thích Ca, vốn bị lu mờ tại nhiều chùa trong nước thuộc
Bắc Tông.
Do đó trung tâm chánh điện
là tượng Phật Thích Ca, tất cả các tượng khác, các Phật
khác, bồ tát hay đệ tử , hoành phi, câu đối, sắp xếp
chung quanh theo hướng tôn vinh Phật Thích Ca bản sư, và đáp
ứng những mục tiêu trên.
Ngoài tượng Thích Ca, việc
xác định danh vị của các tượng sẽ tùy thuộc vào cách
thức bài trí, những vật dụng thân thuộc của các vị Phật
hay bồ tát và các thủ ấn.
Nhưng cũng phải nhận định
là tư thế Thủ ấn của các tượng tại đây, nhiều khi không
rõ rệt, chính xác. Nghệ nhân tạc tượng hình như chú trọng
nhiều đến mỹ thuật của tượng , sự cân đối phải trái
của bài trí, ngón tay nhẹ nhàng co duỗi, hơn là tư thế chính
xác cứng cáp của thủ ấn được quy định trong kinh sách.
B-1.1 Các
tượng trong chánh điện
Chánh điện có 3 bàn thờ.
Từ ngoài nhìn vào, bàn thờ giữa thờ Phật Thích Ca.
Bàn thờ bên phải , trên thờ
Bồ Tát Mục Kiền Liên và Tổ Đạt Ma, dưới thờ Linh vị
Tổ . Bàn thờ bên trái, trên thờ Bồ Tát Địa Tạng, dưới
thờ Linh.
Bàn thờ và các tượng được
tạc và sắp sếp theo thế đối xứng, tượng bên phải giơ
tay phải lên bắt ấn thì tượng bên trái giơ tay trái lên.
Xét ra ngay tại nơi chùa gốc
xuất phát, tượng và bàn thờ đã được an vị sẵn như
vậy rồi.
B-1.1.1 Bàn thờ giữa
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/A00_BanThoGiua.jpg)
B-1.1.1.1 Tượng
Phật Thích Ca
Pho tượng
ở trung tâm chánh điện là Phật Thích Ca ngồi trên tòa sen,
hai bàn tay bắt ấn Thiền ( Dhyana-mudra hay Samadhi-mudra).
Ngài ngồi
xếp bằng kiết già, hai tay đặt trước bụng, bàn tay trái
đặt trên bàn tay phải, hai ngón cái chạm đầu nhau. Trong
tư thế này Đức Phật đã nhập định, đi đến Giác Ngộ.
Trên ngực tượng Phật có
chữ "Vạn".
Trong một số chùa Bắc tông
ở VN, vốn nặng tín ngưỡng Tịnh Độ, thì chỉ tượng Phật
A Di Đà mới có chữ này.
Chùa Trúc Lâm không thờ Phật
A Di Đà (cũng không tụng kinh Di Đà), chỉ thờ Thích Ca. Do
đó, khắc chữ Vạn trên ngực Phật Thích Ca không sai lạc
ý nghĩa. Theo nhiều kinh điển như Trường A Hàm, Đại Tất
Già Ni càn tử sở thuyết kinh, Thập địa kinh luận ... chữ
Vạn nằm trước ngực là 1 trong những tướng tốt của Phật
Thích Ca.
Thiền
ấn (Dhyana-mudra hay Samadhi-mudra)
B-1.1.1.2 Ma ha Ca Diếp và
A Nan Đà
Hai bên tượng Thích Ca có hai
vị tôn giả một già một trẻ, đầu trần, không mũ ni như
các tượng khác, đứng chắp tay, kính cẩn. Bài trí này, tương
quan qua lại, xác định đây là các ngài Ma Ha Ca Diếp và A
Nan Đà , cùng lúc tượng Phật đúng là tượng Thích Ca Mâu
Ni chứ không thể là Phật nào khác.
B-1.1.1.2.a A Nan Đà (Ananda)
Bên tay
phải Phật Thích Ca là tượng A Nan Đà, kính cẩn đứng
chắp tay trước ngực theo thủ ấn Hiệp chưởng/ Anjali-mudra.
(Ấn này thường được dùng để tán thán, ca ngợi, và cũng
là cử chỉ chào hỏi thông thường của người Phật tử).
Ngài A Nan Đà là một trong
mười vị A La Hán đại đệ tử của Đức Phật, có một
trí nhớ phi thường, lại luôn luôn ở gần Đức Phật . Ngài
là người đọc lại những lời Phật thuyết giảng trong lần
kết tập thứ nhất, sau khi Phật nhập diệt.
Hiệp
chưởng ấn/ Anjali-mudra
B-1.1.1.2.b Ma ha Ca Diếp (tiếng
Phạn: Mahākāśyapa, Mahakassapa)
Ma Ha Ca Diếp đứng bên tay
trái Phật, cung kính, hai bàn tay chắp
lại, cuộn tròn như vầng trăng, thành hình tướng thủ ấn
"ngoại phược quyền". Ngài là một trong mười vị A
La Hán đại đệ tử của Đức Phật.
Ngài có tên thật là Pipphali
Kassapa (Thường Tịnh Ca Diếp), người đương thời gọi là
Ma Ha Ca Diếp (Maha Kassapa) hay Đại Ca Diếp để phân biệt
với những đệ tử khác trùng tên Ca Diếp.
Ngài sinh ra tại xứ Ma Kiệt
Ðà (Magadha), gia đình thuộc đẳng cấp Bà-la-môn (Brahmin).
Đức Phật không chỉ định
người thay thế ngài hướng dẫn Tăng già sau khi ngài nhập
diệt. Tuy nhiên trong thực tế Ma Ha Ca Diếp được chư Tăng
thời đó xem như là chưởng môn và bầu làm chủ trì trong
đại hội kết tập kinh điển lần thứ nhất tại thành Vương
Xá (Ràjagaha).
Ngoại
phược quyền
B-1.1.1.3
Văn Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī) và Quán thế âm (Avalokitesvara)
Hai bên Phật,
sau hai Đại đệ tử là tượng Quán Thế Âm (Avalokitesvara)
và tượng Văn Thù Sư Lợi (Maṃjuśrī). tượng trưng cho Từ
Bi và Trí Tuệ.
Thông thường tượng Văn Thù
(bậc Đại Trí) được ghép chung với tượng Phổ Hiền (bậc
Đại Hạnh) , tượng Thế Chí (bậc Đại Dũng) được ghép
chung với tượng Quan Âm (bậc Đại Bi)
Tại Trúc Lâm, tượng Văn
Thù (bậc Đại Trí) được ghép với tượng Quan Âm (bậc
Đại Bi).
B-1.1.1.3.a Văn Thù Sư Lợi
(Maṃjuśrī).
Bên tay phải tượng Thích
Ca là tượng Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.
Theo truyền thuyết dân
gian Văn Thù thường cưỡi con sư tử xanh, biểu tượng cho
sức mạnh của trí tuệ. Có tượng tạc Văn Thù vung kiếm
bát nhã chặt đứt dây vô minh ràng buộc con người và đưa
đến trí tuệ.
Ở đây,
Văn Thù ngồi thiền định, các ngón tay chụm lại, ngón trỏ
duỗi ra theo tư thế ấn quyết Thuyết giảng ( Byākhyāna
mudra),chỉ vào tập kinh sách cầm trong tay, biểu tượng
của Trí Tuệ.
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/A04_VanThu.jpg)
Thuyết
giảng ấn ( Byākhyāna mudra)
B-1.1.1.3.b
Quán thế âm (Avalokitesvara)
Bên tay
trái tượng Thích Ca là tượng Quán thế âm Bồ Tát, tay
bắt ấn Thuyết giảng, cũng như Văn Thù sư lợi, nhưng chỉ
vào bầu nước Cam Lồ.
Là bậc Ðại
Bồ Tát có lòng từ bi, cứu khổ cứu nạn chúng sinh. Tượng
thờ tại các nơi có nhiều hình tướng khác nhau , ví dụ
Quan Âm Nam Hải, Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Chuẩn Đề Quan
Âm, Phật Bà Quan Âm, Quan Âm Tống Tử (Quan Âm Thị Kính).
Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn thường có nhiều đầu, mắt
và tay, tượng Quan Âm Chuẩn Ðề thì có ba mắt, mười tám
tay và mặc áo sắc trắng. Tượng Phật Bà Quan âm thường
có hình tượng một người phụ nữ đẹp đứng hoặc
ngồi trên toà sen, tay cầm bầu nước cam lồ và cành dương
liễu, còn tượng Quan Âm Thị Kính thường ôm đứa trẻ trên
tay. Nói chung , tượng Quan âm Việt Nam thường mang tướng
nữ.
Tượng Quan Âm tại chánh điện
chùa Trúc Lâm mang hình tướng Nam. Tuy nhiên trên tường chánh
điện có một bức tranh thêu Quan Thế Âm mang tướng Nữ,
tay phải cầm cành hoa sen, tay trái chỉ xuống, không rõ theo
tư thế gì. Bức tranh thêu này do một nghệ nhân Thành Phố
Hồ Chí Minh thực hiện cúng dường.
Ngoài vườn chùa Trúc Lâm,
sau này , trong một động nhân tạo, có một tượng Quán Thế
âm tướng Nữ.
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/A05_QuanAmNam.jpg)
Tượng
Quan Âm nam
Quan Âm
nữ
B-1.1.1.4 Tam Thế Phật
Đằng sau tượng Thích ca ,
ở trong cùng, là bộ "Tam thế Phật", tức là 3 vị Phật tượng
trưng cho các vị Phật của 3 thời quá khứ, hiện tại và
vị lai.
Có người diễn dịch thêm
, tượng Phật thứ nhất là Phật A Di Đà tượng trưng cho
các đức Phật trong quá khứ , tượng Phật giữa là Phật
Thích Ca Mâu Ni , tượng trưng cho các vị Phật hiện tại,
và vị thứ ba là Phật Di Lặc tượng trưng cho các vị Phật
sẽ tới.
Nói rộng ra theo nghĩa này thì
Tam Thế Phật là Phật của cả 3 thời: quá khứ, hiện tại
và tương lai, tức là vô lượng vô biên vô số chư Phật
mười phương.
Có lẽ bộ Tam Thế Phật tại
Trúc Lâm mang ý nghĩa này.
Xét về hình
tướng, tượng thứ nhất dơ tay phải, tượng thứ ba dơ tay
trái, không biết giữ ấn quyết gì ? vì nếu là ấn quyết
"Vô Úy" (Abhaya Mudra) thì các ngón tay duỗi ra nhiều hơn.
Tượng giữa giữ ấn thiền
định (dhyana-mudra).
Cà ba đều cầm ngọc minh châu,
tượng trưng cho ánh sáng của trí tuệ.
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/A07_TamThe1.jpg) ![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/A08_TamThe2.jpg)
Vô Úy
ấn (Abhaya Mudra)
B-1.1.1.5 Phật Thích Ca sơ
sinh
Trước tượng Phật Thích Ca
là tượng Phật sơ sinh.
Theo truyền thuyết khi mới
sinh ra, Thái tử Tất Đạt Đa đi 7 bước, dưới chân nở
ra 7 đóa hoa sen, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống
đất mà nói rằng: "Thượng thiên hạ địa, duy ngã độc
tôn" (trên trời dưới đất ta là tôn quý nhất). Cùng khi
đó, có chín con rồng phun nước tắm cho Phật sơ sinh.
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/AQ_NangLuongSong_Prana.jpg)
Năng lượng
sống ấn ( Prana Mudra )
B-1.1.2 Bàn thờ trái : Linh
và Bồ Tát Địa Tạng (Kṣitigarbha)
Góc điện trái ( bên trái đại
chúng ) là bàn thờ Linh, với tượng Địa Tạng Vương Bồ
Tát và Linh vị những người đã khuất.
Theo tín ngưỡng dân gian, Bồ
Tát Địa Tạng là một vị Tỳ kheo đã nguyện ở lại địa
ngục để cứu độ chúng sanh tại đây và không chứng Phật
quả khi địa ngục chưa trống rỗng. Thông thường , ngày
nay tượng Địa Tạng được mô tả một tay cầm tích trượng
để mở cửa địa ngục, tay kia cầm ngọc minh châu tượng
trưng cho ánh sáng trí tuệ xua tan bóng đêm. Theo truyền thống
Nhật Bản ngài còn là vị Bồ tát hộ mệnh cho trẻ em nhất
là bảo vệ vong linh các trẻ em chết yểu.
Tượng Địa Tạng tại Trúc
Lâm ngồi xếp bằng trên tòa sen, không cầm tích trượng,
tay trái cầm ngọc minh châu, trong tư thế Thiền định. Tay
phải, cầm vòng lửa Tam Muội, tượng trưng cho Chánh Định,
kết ấn "lìa xa ác nghiệp" (Karana mudra).
Lửa Tam Muội là lửa của
chân tâm, lửa từ bi, lửa giải thoát, do tu tập thiền định
mà có.
Ý nghĩa của tư thế và ấn
quyết này là nhờ Chánh Định, chúng sinh lìa xa ác nghiệp
thiêu hủy ma chướng trong thân mình đạt đến trí tuệ, phá
màn vô minh.
![](lnb_TuongPhatTrucLamParis/B10_DiaTang.jpg)
Lìa xa
ác nghiệp ấn (Karana mudra)
B-1.1.3 Bàn thờ phải: các
Tổ và Bồ tát Mục Kiền Liên ( Moggallāna)
Góc điện phải ( bên phải
đại chúng ) là bàn thờ Tổ với tượng Mục Kiền Liên ,
tượng Đạt Ma tổ sư Thiền và linh vị Hòa Thượng Thích
Thiện Châu, Tổ khai sơn chùa Trúc Lâm, cùng chư Tăng Ni đã
khuất có liên hệ nhiều với chùa Trúc Lâm, như Hòa Thượng
Thích Giác Nguyên, thuộc tổ đình Tây Thiên ở Huế, HT Thích
Minh Châu, HT Thích Trí Thủ, HT Thích Đổng Minh, HT Thích Phước
Đường, Sư Bà Hải Triều Âm, Sư Bà Mạn Đà La v.v...
Bồ tát Mục Kiền Liên là
biểu tượng của lòng hiếu thảo .
Tượng Mục Kiền Liên ngồi
xếp bằng trên tòa sen, đối xứng với tượng Địa Tạng,
không cầm tích trượng. Tay phải cầm ngọc minh châu, trong
tư thế Thiền định, tay trái cầm phất trần, kết ấn "lìa
xa ác nghiệp" (Karana mudra).
Thời Đức Phật, phất trần
nguyên là một vật tùy thân của chư Tăng để xua đuổi muỗi
mòng, bảo vệ sức khỏe trong đời sống du hành.
Sau này, cây phất trần là
pháp khí biểu tượng cho sự đoạn trừ phiền não, chướng
nạn và trở thành pháp khí của các cao tăng trong khi hành
lễ,
Trước tượng Mục Kiền Liên
là tượng Đạt Ma Tổ Sư . Đệ tử chùa Trúc Lâm là một
chi của giòng thiền Liễu Quán , xem ngài Đạt Ma là đệ nhất
tổ Thiền.
Mục
Kiền Liên ( Moggallāna)
phất
trần
Đạt
Ma tổ sư
B-1.2 Các
tượng ngoài chánh điện
Ngoài chánh điện, trong khuôn
viên chùa còn 2 tượng lớn.
B-1.2.1 Tượng Phật Thích
Ca
Tôn chỉ của Thầy Thiện Châu
là tôn vinh Đức Phật Thích Ca. Hình tượng Thích Ca, như vậy,
phải chiếm chỗ quan trọng nhất, nổi bật nhất trong chùa.
Thích Ca Phật Đài tọa lạc
Trên khoảng đất cao nhất. Trên Đài là tượng Thích Ca ngồi
thiền định trên tòa sen. Đi xe điện RER ligne B, từ xa ngang
qua thung lũng Orsay có thể thấy tượng. Tượng bằng Xi măng,
được đặt đắp tại Việt Nam, cắt làm nhiều mảnh, chở
qua , tới chùa mới đem ráp lại. Thích Ca Phật Đài được
khánh thành vào dịp lễ Vu Lan Báo Hiếu ngày 01-09-1997 (HS 67)
Thích
Ca Phật Đài
B-1.2.2
Tượng Quán thế âm
(Avalokitesvara)
Công trình
thứ hai là động Quan âm. Động xây bằng Xi măng, bên trong
là hồ nước nhỏ. Giữa hồ dựng tượng Quan Âm đứng trên
tòa sen, tay phải kết ấn "lìa xa ác nghiệp" (Karana mudra),
tay trái cầm bầu nước Cam lồ.
Động
Quan âm
Năm 1994, khi
mới đem từ Việt Nam qua, tượng được dựng ngoài trời.
Qua một thời gian mưa gió , tượng bám rong rêu nên Thầy Thiện
Châu cho xây động để che chở. (HS 50, HS 54)
B-2 Những
tượng thêm sau này
Trên đây là cấu trúc bài
trí điện thờ và tượng thờ trong khuôn viên chùa Trúc Lâm
lúc Thầy Thiện Châu còn tại thế.
Năm 1996, chùa có xuất bản
một lập sách với hình ảnh miêu tả chi tiết cấu trúc này,
cùng các hoành phi câu đối trong chánh điện (Sách do Giáo
Sư Hoàng Xuân Hãn và Cư Sĩ Phạm Hữu Dung soạn). Danh vị
các tượng cũng được niêm yết trong sách và trên tường
chánh điện.
Ngày nay, số tượng tại chùa
cũng có thay đổi.
Dân ta có thói quen "cung tiến"
tượng Phật và Bồ Tát vào chùa và thường thì chùa cũng
khó lòng từ chối thiện tâm của Phật tử. Do đó tại xứ
ta, có chùa có trùng hợp nhiều bộ tượng, có nơi 3 bộ tượng
Cửu Long Thích Ca sơ sinh, có nơi 2 tượng A Di Ðà, 2 hoặc
3 tượng Quan Âm Thiên thủ.
Chùa Trúc Lâm cũng chịu quy
luật trên. Từ khi Thầy Thiện Châu viên tịch, trên điện
thờ xuất hiện nhiều tượng mới, kích thước nhỏ hơn các
tượng đợt đầu, nhưng tư thế các ấn quyết rõ ràng hơn.
Do xuất xứ từ nhiều nguồn khác nhau nên đường nét tinh
xảo hay thô thiển của các tượng không đồng đều .
Các tượng được sắp xếp
trên chánh điện, bên cạnh tượng Thích Ca sơ sinh; mỗi tượng
giữ một ấn quyết diễn tả những nét giáo lý hoặc cơ
bản của Phật giáo hoặc đặc thù của các bộ phái.
|
Tượng
thứ nhất : Thí nguyện ấn Varada-mudra , cũng được
gọi là Dữ nguyện ấn hay Thí dữ ấn.
Thí nguyện là cho phép được
toại nguyện, lòng tay phải hướng về phía trước, bàn tay
chỉ xuống, tay trái đưa lên ngang tầm ngực. Biểu thị cho
việc Phật dùng tâm Từ Bi độ khắp chúng sinh. |
|
Giáo hóa ấn Vitarka-mudra.
Ấn quyết cũng còn đuợc gọi Biện minh ấn vì đây là lúc
đức Phật giải thích giáo pháp.
|
|
|
|
Quan
Âm
|
Quan
Âm
Thiên
Thủ Thiên Nhãn
|
Đồng
tử bái Quan Âm
|
Quan Âm
Chuẩn Đề/
Phật
Mẫu Chuẩn Đề
|
Chuẩn
Đề Thủ ấn (Maha cundi)
|
Phật
Thích Ca ngồi trên tòa sen,
tay trái
cầm ngọc như ý, tay phải cầm hoa sen
***
Năm 1998, Hòa Thượng Thích Thiện
Châu viên tịch, Hòa Thượng Thích Phước Đường kế vị.
Hiện nay (2020), chùa Trúc Lâm do Thượng Tọa Thích Tâm Huy
trụ trì. Thầy Tâm Huy là đệ tử Cố Hòa Thượng Thích Minh
Châu, thuộc tổ đình Tường Vân ở Huế.
_____________________
[*]- HS : Báo Hương Sen |