|
|
NV Hải Triều chủ trương
"Nghệ thuật vị nhân sinh"
|
NV Hoài Thanh chủ trương
"Nghệ thuật vị nghệ thuật"
|
Trong
bài này, trước tiên anh em chúng tôi muốn
nói về yếu tố nghệ thuật, theo quan điểm của chúng
tôi, nghệ thuật văn học là viết về ngôn ngữ hay thời
kỳ hoặc văn hóa để thu hút sự chú ý của mọi người.
Việc này không hẳn
chỉ để thể hiện những kinh
nghiệm về tác phẩm mà còn để cống hiến tinh thần dũng
cảm, lòng nhiệt huyết và kiến thức
của tác giả. Những hành động đối với kiến thức
đó dẫn đến sự khôn ngoan để hoàn thành nhiệm vụ của
tác giả đối với nhân loại, để giúp họ thông hiểu những
ý tưởng hay các bài viết của tác giả về nghệ thuật
văn học hòa bình như một giai điệu ngọt ngào êm tai người
nghe.
Theo nghĩa căn bản, nghệ thuật
văn học là bất kỳ tác phẩm nghệ thuật nào được tạo
ra bằng cách sử dụng từ ngữ và ngôn ngữ, được thể
hiện qua sách
báo, bài thơ, bài văn xuôi, bài phát biểu hay bất cứ
thứ gì khác. Nghệ thuật văn chương được phân loại như
sau:
1. Nghệ thuật văn chương thuần
túy được gọi là "Nghệ thuật vị nghệ thuật"
khi nó thể hiện được giá trị nội tại của nghệ thuật
đích thực, nếu không, đó là chỉ là thứ vô giá trị.
Giá trị nội tại của nghệ thuật đích thực chỉ có thể
có nếu nghệ thuật thoát khỏi mọi áp đặt về luân lý,
răn dạy, hay dùng làm công cụ phục vụ bất cứ thứ gì
khác ngoài chính nghệ thuật. Đó là ý nghĩa của "Nghệ
thuật vị nghệ thuật". Lý thuyết chuyên đề mỹ học
là chuyên tâm cho thuần túy văn học như các tác giả của
các tác phẩm: Đoạn Tuyệt của Nhất Linh, Nửa Chừng
Xuân của Khái Hưng, Sám Hối của Minh Đức Hoài Trinh, Ngoại
Tình của Nguyễn Quang, Thung Lũng Tình Yêu của Lệ Hằng, Vòng
Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng. Love Story của Erich
Segal, Notebook của Nicholas Sparks, P.S. I Love You của Cecelia Ahern,
Karen Karenina của Leo Tolstoy. Bonjour Tristesse của Francoise
Sagan, La Porte Étroite của Andre Gide, La Dame aux Camélias của
Alexandre Dumas, Madame Bovary của Gustave Flaubert, L'Amour aux temps
du choléra của Gabriel García Márquez, v.v...
Theo lập luận cổ xúy cho xu
hướng này thì cách đây hơn 120 năm, danh hào Ái-nhĩ-lan Oscar
Wilde (1854-1900) đã ghi nhận như sau: "Một tác phẩm
nghệ thuật là kết quả duy nhất của một khí chất duy nhất.
Vẻ đẹp của nó xuất phát từ một thực tế rằng tác giả
của nó chính là người viết. Nó không liên quan gì tới
việc người khác mong muốn cái họ muốn. Thật vậy, một
khi nghệ sĩ ghi nhận những gì người khác muốn, và cố gắng
đáp ứng nhu cầu của người khác, anh ta đã không còn là
một nghệ sĩ nữa, mà đã trở thành một gã đần độn hoặc
một thợ thủ công làm trò giải trí, một gã lái buôn thật
thà hoặc gian manh. Từ khoảnh khắc đó trở đi anh ta không
còn có thể tự cho mình là nghệ sĩ được nữa." Danh
hào Ái-nhĩ-lan Oscar Wilde muốn nhấn mạnh
rằng: Người khác không có ảnh
hưởng gì trên ngòi bút của tác giả hay chính tác giả có
toàn quyền khước từ việc dùng ngòi bút của mình để viết
theo xu hướng chính trị, xã hội mà từ bỏ sự lãng
mạn của văn chương tự do (l'art pour l'art hay Art for art's sake).
2. Trái ngược với xu hướng
trên là "Nghệ thuật vị nhân sinh" thường được
hiểu là nghệ thuật giữ vai trò hay mang nhiệm vụ phụng
sự xã hội, kinh tế, quyền lực và tất cả nghệ thuật.
Như vậy nghệ thuật chỉ là công cụ cho phạm vi kinh tế,
xã hội hay chính trị. Do đó nghệ thuật vị nhân sinh
(l'art pour la vie hay art for life) là lý thuyết khẳng định bản
chất phạm vi xã hội của nghệ thuật, chủ trương nghệ
thuật gắn bó với đời sống xã hội, chính trị, chống
lại các khuynh hướng nghệ thuật và thoát ly khỏi ý tưởng
lãng mạn trong cuộc sống. Ý tưởng văn chương phục vụ
nhu cầu xã hội điển hình qua những tiểu thuyết như: Giông
Tố hay Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, Sống Mòn của Nam Cao
hay Mark Twain với những tiểu thuyết như The Adventures of Tom
Sawyer, Life on the Mississippi, The Adventures of Huckleberry Finn.
Nicholas Nickleby của Charles Dickens, Uncle Tom's Cabin của Harriet
Beecher Stowe,v.v... là những ngòi bút nêu lên hay tranh đấu
cho sự công bằng xã hội, cho sự bình đẳng về màu da.
Nhân khi anh em chúng tôi
bàn thảo về quyển sách mới
nhất của nhà văn Nguyễn Quang, " Ôn Cố Tri Tân", chúng tôi
nhận thấy một số tác phẩm trước
đây của tác giả Nguyễn Quang, ông đã cho ra hàng loạt tiểu
thuyết trung thành với hệ phái Nghệ thuật vị nghệ thuật,
cái mỹ học của văn chương thuần túy như ý tưởng của
văn hào Oscar Wilde đã nêu ở trên. Chúng tôi xin nêu ra những
dẫn chứng các tác phẩm như: Ốc Mượn Hồn, Thần Giao
Cách Cảm, Vọng Từ Đáy Mộ, Ngoại Tình. Tác phẩm đầu
mang tên Con Ốc Mượn Hồn và Vọng Từ Đáy Mộ nghe vừa
thơ mộng vừa huyền bí, nhưng nó là tiểu thuyết vô cùng
lãng mạn và hấp dẫn người đọc. Hai tác phẩm sau
là Thần Giao Cách Cảm và Ngoại Tình cùng khá gần gũi với
Ốc Mượn Hồn trong cung cách nhìn từ quan điểm Oscar Wilde.
Cuộc tranh luận về "nghệ
thuật vị nghệ thuật" và "nghệ thuật vị nhân sinh":
Khi chúng ta nhìn lại văn học
sử Việt Nam qua những cuộc tranh luận về "vị nghệ thuật"
hay "vị nhân sinh" trong giai đoạn gần giữa tiền bán
thế kỷ 20. Cuộc tranh luận từng được mệnh danh là giữa
phái "Nghệ thuật vị nhân sinh" do Hải Triều làm chủ
soái và phái "Nghệ thuật vị nghệ thuật" do Hoài Thanh
cầm đầu đã diễn ra trong các năm từ 1935 đến 1939. Cuộc
tranh luận của trường phái chủ trương
"Nghệ thuật vị nhân sinh" có nhiệm vụ phục vụ xã
hội, đòi hỏi nghệ thuật phải gánh vác các phạm vi đạo
đức, thẩm mỹ, giai cấp, và những giáo điều chính trị
đã làm thương tổn, gây tác hại đến nghệ thuật. Trong
khi "Nghệ thuật vị nghệ thuật" viết
theo xu hướng lãng mạn của văn chương tự do, thể
hiện giá trị nội tại của nghệ thuật đích thực, thoát
khỏi mọi áp đặt về luân lý, răn dạy, không phục vụ
bất cứ thứ gì khác ngoài chính nghệ thuật, kết quả là
những cuộc tranh luận, bút chiến giữa các nhà văn. Để
hiểu rõ hơn giữa hai cuộc tranh luận này chúng tôi mời qúy
độc giả xem phần trình bày tiếp theo sau đây.
Trong lãnh vực văn chương,
sự tranh chấp trong quan điểm nghệ thuật và trong cách đánh
giá một số tác phẩm với khuynh hướng văn học cụ thể
như trong truyện Kiều nói chung và nhân vật Thúy Kiều nói
riêng. Đại văn hào Nguyễn du
đã dùng dòng văn học lãng mạn
để diễn tả sự hy sinh của Thúy Kiều với trách nhiệm
và bổn phận như một người con đối với gia đình. Một
số nhà văn đã trực tiếp hoặc ngấm ngầm cho rằng truyện
Kiều là một dâm thư, nhưng anh em chúng tôi khẳng định rằng,
đây thực sự là một tác phẩm kết hợp bởi cả hai xu hướng
"Nghệ thuật vị nghệ thuật" và "Nghệ
thuật vị nhân sinh".
Có thể nói cuộc tranh luận
sôi nổi nhất là chung quanh vấn đề thơ mới và thơ cũ từ
1933 đến 1937. Cuộc tranh luận từng được mệnh danh là giữa
phái "Nghệ thuật vị nhân sinh" do Hải Triều làm chủ
soái và phái "Nghệ thuật thuật vị nghệ thuật" do
Hoài Thanh cầm đầu trong các năm từ 1935 đến 1939. Thực
ra cuộc tranh luận khởi đầu trước đó chưa phải là giữa
nhà văn Hải Triều và nhà văn Thiếu Sơn. Trên Tiểu thuyết
thứ Bảy số 38 ra ngày 16-2-1935, Thiếu Sơn đăng bài "Hai
quan niệm về văn học". Một mặt Thiếu Sơn phản bác
quan niệm của Nguyễn Bá Học, Phạm Quỳnh vào việc coi trọng
chức năng giáo huấn và tác động xã hội của văn chương.
Mặt khác chủ trương "lấy nghệ thuật làm gốc", "nhà
văn quý ở sự trau dồi cái đẹp", Thiếu Sơn chỉ đề
cao các thể loại như tiểu thuyết và thi ca. Hải Triều đã
viết bài "Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị
nhân sinh" đáp lại Thiếu Sơn trong Tiểu thuyết thứ Bảy
số 16-2-1935. Trong đó, Hải Triều giới thuyết "Nghệ thuật
là cái gì?" phản bác "Quan niệm duy tâm" coi nghệ
thuật là "cái sản vật thần bí, màu nhiệm của tình cảm
và của đấng thiêng liêng, là siêu phẩm, huyền diệu, không
dính dáng đến xã hội, không dính dáng đến nhân sinh".
Theo Hải Triều "Nghệ thuật là một cái sản vật của
sự sinh hoạt xã hội (L'art est un produit de la vie sociale)
những trạng thái sinh hoạt giữa xã hội phản chiếu vào
trong tâm trí người ta, sinh vui, sinh buồn, sinh giận, sinh tiếc,
sinh chán, sinh tham...Nghệ thuật sắp đặt những tình cảm
ấy cho có hệ thống rồi diễn ra thành những hình ảnh thiết
thực, hoặc bằng lời nói, bằng câu văn, bằng âm điệu,
bằng vận động (như nhảy múa) hoặc nhiều cách kiểu
khác có hình thức rõ ràng như kiến trúc, đắp tượng". Hải
Triều đã giới thiệu quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh
của phương Tây qua những lời phát biểu của Hippolyte Taine,
Denis Diderot, Leo Tolstoy, v.v... và với những tác giả theo cùng
khuynh hướng như Charles Dickens, Fyodor Dostoevsky, Richard Millet,
Victor Hugo, Henri Barbusse, Roland Barthes,v.v...
Theo Hoài Thanh trên tập san
Nghiên cứu văn học số 1 tháng 1-1960 cũng đã đăng bài "Nhìn
lại cuộc tranh luận về nghệ thuật hồi 1935-1936", trong
đó tỏ rõ một thái độ tự phê vừa rất chân thành vừa
rất gay gắt với những câu như: "Phái vị nghệ thuật
trước sau cố từ chối không chịu nhận cái danh hiệu ấy...Nhưng
thái độ của họ trên thực chất là một thái độ thoát
ly chính trị mà thoát ly chính trị không vị chính trị thì
còn vị gì? Cho nên gọi họ là phái nghệ thuật vị nghệ
thuật cũng là phải".
Những điều nêu trên về cuộc
tranh luận quan điểm nghệ thuật thời kỳ 1935-1939, cần nêu
lên những nhận xét tóm lược như sau:
Trước hết, cuộc tranh luận
mang tính chất bút chiến ít nhiều cũng đã mang biện luận
chủ quan, cá nhân biện hộ cho lý lẽ của mình. Mỗi bên
đều chê bai lẫn nhau, không hiểu nghệ thuật và thiếu sự
khách quan, khoa học. Hệ phái Hoài Thanh, trước hết đã nhận
là mình không hề có ý định tranh luận, hay bút chiến nhưng
khi ông thấy Hải Triều phê bình tác phẩm "Kép Tư Bền"
của Nguyễn Công Hoan quá đáng và không đúng với tính chất
phê bình văn chương theo quan điểm "Nghệ thuật vị nghệ
thuật", khiến ông quật lại đối phương. Trong khi hệ
phái Hải Triều chủ trương một lý tưởng nghệ thuật văn
chương thích hợp, có ích cho dân tộc, cho xã hội, và cho
cả văn chương (tức văn hoá). Đó là
lý do tại sao xẩy ra cuộc tranh luận giữa
Hoài Thanh và Hải Triều. Do vậy, khách quan mà nhận
xét thì phái Hoài Thanh có cái thế mạnh là có nhiều điểm
đi gần với chân lý nghệ thuật, như của Hugo, Tolstoy, v.v...Riêng
phía Hải Triều lập luận ở thế mạnh trong việc quan tâm
nhiều đến lý thuyết tranh đấu cho một lý tưởng nghệ
thuật cao cả, nhưng khách quan vừa là thuộc phạm vi cá nhân
vừa là thuộc phạm vi xã hội thời đại. Tóm lại, cả hai
bên đều muốn giữ lý tưởng riêng và lý lẽ kiên quyết
của mình.
Trên lý thuyết, chúng ta
cần xem lại mấu chốt của quan niệm, định nghĩa về
nghệ thuật, về văn chương là gì? Trong thực tế đã có
không biết bao nhiêu câu hỏi mà nhân loại, đặc biệt là
các lý thuyết gia, bình luận gia về nghệ thuật và văn chương
cần phải tìm thêm lời giải đáp hoàn thiện cho nguồn gốc
văn chương tiêu biểu là gì? Văn chương nghệ thuật huyền
diệu như thế nào? Văn chương nghệ thuật có liên hệ mật
thiết tới đạo đức học, triết học và chính trị học
đã đành, nhưng trong thực tiễn qua các mối liên hệ thực
dụng đó đã tìm tìm được điều gì? Điểm nào là hoàn
mỹ? Văn chương nghệ thuật có tính giai cấp và nhân bản
nhưng hiểu thế nào cho đúng nghĩa trong
văn chương và sự liên hệ giữa hai yếu tính đó đi song
hành với nhau như thế nào? Cũng vì vậy, văn chương còn có
tính thời đại và tính trường tồn, tính nhất thời và
tính bền vững, tính biến động và tính bất biến trong cùng
nội dung và hình thức... Nhưng hiểu thế nào cho đúng về
mối tương quan giữa các tính tương khắc cũng như tính tương
hợp của nó.
Tóm lại để có một sự nhận
xét tương đối công bằng và thỏa đáng cho cuộc tranh luận
về quan điểm nghệ thuật thời kỳ 1935-1939, ngoài những
điều đã được trình bày trên, chúng ta nên đặt cuộc tranh
luận này vào tiến trình suy xét, phát triển quan điểm nghệ
thuật đã từng diễn ra trong lãnh vực văn học sử của nền
văn hoá dân tộc, trong đó có việc xét nghiệm về mối tương
quan giữa văn chương và đạo lý, có tình trạng nhận thức
về phạm vi văn chương. Có thể nói gọn quy luật đặc thù
của văn học thuở trung đại kèm theo hiện tượng văn học
sử khi quy tắc đạo đức, tôn giáo tâm linh sẽ làm giảm
nhẹ tính chất mỹ học của văn chương tới mức mà ít nhiều
ta lơ là tính năng thẩm mỹ của nó. Nhất là khi ta mang ý
tưởng "Văn dĩ tải đạo", hay "Thi ngôn chí", hoặc
"Văn dĩ quán đạo", những ý niệm bảo thủ đã từng
ngự trị trong nền văn chương trung đại. Với những quan
niệm văn chương như thế, văn gần như chỉ còn là phương
tiện để chuyên chở đạo cho đời mà thôi. Nhưng rồi trên
đà phát triển của văn chương càng về sau, văn chương theo
đà tiến hoá của từng xứ sở và
từng văn hóa, văn chương, tức nghệ thuật chuyên chở chữ
nghĩa cũng thay đổi theo thời đại.
Kết luận:
Xét theo ý niệm văn học với
nét mỹ tính hay nghệ thuật văn chương, trong thực tế của
đời sống văn học trên hai phương diện lý thuyết và sáng
tác: Tính chất sáng tác dù là văn tùy bút, tiểu thuyết hay
văn phóng sự, khảo cứu bình luận, cũng có ít nhiều nét
văn chương bị tính chủ quan ảnh hưởng, để cho văn chương
đượm nét chân phương, khách quan. Nhà văn hay người cầm
bút nên chọn xu hướng của nghệ thuật văn chương mà mình
muốn, dù là nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị
nhân sinh thì tuỳ theo sự ứng dụng của "đối tượng" bởi
vì "văn là người", thế nên chính bản chất của văn
chương phát sinh từ cuộc sống, nên văn chương phản ảnh
nhân bản tính hay cũng là bản chất của con người. Vì vậy,
văn học trọng mỹ tính, không chỉ dừng lại ở giá trị
văn chương mà còn góp phần xây đắp tình yêu thương giữa
con người với con người trong xã hội. Qua ví dụ lịch sử
về trường hợp hai hệ phái văn chương Hoài Thanh và hệ
phái Hải Triều qua những tranh luận trình bày bên trên, đã
gợi lại nghệ thuật văn chương của một thời. Nếu xét
về phương diện xã hội, văn chương phục vụ đời sồng
nhân sinh, đó là sự chọn lựa của Hải Triều. Với Hoài
Thanh, ông tôn trọng nét mỹ thuật của văn chương theo ý
muốn cá nhân, ly khai những ảnh hưởng, những áp đặt của
xã hội. Theo tiểu thuyết gia Francis Scott Key Fitzgerald cho rằng
"Đó là một phần vẻ đẹp của mọi nền văn học khi
bạn tìm được ra rằng điều ước muốn của mình là nỗi
khát vọng chung, rằng bạn không cô đơn và bị cô lập với
bất kỳ ai mà bạn quen biết."(1)
Lời cuối, như anh em chúng
tôi đã bàn bạc, Khánh Lan và Việt Hải mượn lời của tác
giả Bồ Đào Nha Fernando Pessoa qua danh
tác "The Book of Disquiet", được chuyển ngữ ra nhiều
thứ tiếng, nội dung mang tính tự thuật theo khuynh hướng
"Nghệ thuật vi nghệ thuật" với lập luận là: "Văn học
là phương cách dễ chịu nhất khi ta ly khai cuộc sống."
(2)
Khánh Lan & Việt Hải.
California October 2020
---------------------------------------------------------------------
Ghi chú:
- (1): F. Scott Fitzgerald, "That
is part of the beauty of all literature. You discover that your longings
are universal longings, that you're not lonely and isolated from anyone.
You belong."
- (2): Fernando Pessoa,The Book of
Disquiet. "Literature is the most agreeable way of ignoring life."
Sách tham khảo:
-
Book Hunter Club, Trần Đình Sử.
-
Văn Học Sài Gòn, Thiếu Sơn nhà
văn chính trực.
-
Phê Bình Văn Học, Hoài Thanh,
Thùy Lam.
-
Thanh Lãng, Tài Liệu Phê bình
văn học:
-
Ba Sàm Nguyễn Hữu Vinh - Nghệ
thuật vị nhân sinh.
-
Nghệ thuật vị nhân sinh và Nghệ
thuật vị nghệ thuật - Hồ Quân.
-
Đỗ Kiên Cường - Vị nhân sinh
đúng hay sai?
-
Ý Nghĩa của Nghệ Thuật - Võ
Công Liêm.