

Tôi có thể nói gì với
bạn? ... Có lẽ bạn đã tìm kiếm quá nhiều?
Rằng trong tất cả những
gì tìm kiếm,
bạn không tìm thấy thời
gian tìm kiếm?
(What should I possibly to tell
you?...Perhaps that you're searching far too much? That in all that searching,
you don't find the time for finding?)
Trong văn học Âu châu nói chung
hay của nước Ðức nói riêng thì có đôi bạn văn thân nhau
như tri kỷ, chúng tôi muốn nhắc đền hai văn hào Hermann Hesse
và Thomas Mann. Hermann Hesse với 2 tác phẩm nổi bật, Demian
và Siddhartha và Thomas Mann cùng 2 tác phẩm nổi tiếng, The Magic
Mountain và Death in Venice. Khi xem tác phẩm Công thức Tâm linh
của Hermann Hesse của nhà văn & giáo sư Stefan Borbély (Hermann
Hesse's Spiritual Formula by Stefan Borbély), ông là giáo sư dạy
môn văn học tại đại học Babes-Bolyai (Université Babes-Bolyai),
Lỗ Ma Ni và là thành viên sáng lập Hiệp hội Nhà văn chuyên
nghiệp của nhóm Rumani (Aspro). Giáo sư Stefan Borbely đã viết
và xuất bản một số công trình nghiên cứu độc đáo về
Hesse, được tổng hợp in trong cuốn The Steppenwolf's Dream và
Starting from Nietzsche.
Theo GS. Borbély, nhà văn Hermann
Hesse thực sự được trao giải thưởng Nobel (1946) là nhờ
vào những lời khuyến khích không ngừng của người bạn
văn tâm đắc Thomas Mann. Thực vậy, đây là hai vị đồng
nghiệp uyên bác về văn học của nước Đức, cả hai sinh
vào đồng thế hệ, và cả hai đồng đoạt giải văn chương
Nobel và giải Goeth: Hermann Hesse (1877-1962, Giải Nobel Văn học
1946, Giải Goethe cùng năm 1946) và Thomas Mann (1875-1955, Giải
Nobel Văn học 1929, Giải Goethe năm 1949). Hai người bạn tìm
thấy sự tương xứng và trao đổi rất nhiều thơ từ liên
quan đền những tác phẩm văn học của họ.
"Công trình Công thức tâm linh
của Hermann Hesse" của GS Stefan Borbély được công bố lần
đầu tiên trên tạp chí học thuật Philologica Jassyensia của
Học viện Rumani ở Iassy với nhan đề: "Stefan Borbely: Hermann
Hesse's Spiritual Formula". Ðể rồi sau đó công trình này được
hiệu đính để nó trở thành tài liệu văn học chung của
phạm vi văn học quốc tế về tiểu thuyết thế kỷ XX, do
giáo sư Micheal Sollar tại Đại học Texas phụ trách, (The facts
on file companion to the world Novel, 1900 to the present). Ðây là một
bộ sách văn học đồ sộ với hơn 600 đề mục gồm những
bài viết học thuật điển hình của rất nhiều học giả
nghiên cứu văn học tiêu biểu trên thế giới về các tác
giả, tác phẩm văn học thời kỳ hiện đại. Trong quá trình
nghiên cứu này của GS. Borbely đã xét đến những ảnh hưởng
khác nhau và đã để lại những điểm sâu sắc trong tác phẩm
của Hesse; trong dó có tình bạn của Hermann Hesse và Thomas Mann,
ví dụ như Mann cho bố cục những chủ đề về tương quan
giữa hai giới tư sản và các nghệ sĩ tự do đã hiện diện
trong dòng văn học của Hesse và Mann.
Với một cái nhìn sâu xa hơn
thì tiểu thuyết của Hermann Hesse chứa đựng những ý tường,
nhân sinh quan về đời sống phương Đông với các tôn giáo
thần bí; về tâm lý của các nhân vật của ông; phong cách
đạo đức Nietzsche (Nietzsche and aestheticism), khoa phân tâm học
Freud-Jung (Freud - Jung psychoanalysis), tâm hồn bị giam giữ trong
cảnh cầm tù giữa ánh sáng và bóng tối; ảnh hưởng trái
ngược của người mẹ và người cha; chiến tranh thế giới,…
Văn học của Hesse ẩn chứa chiều sâu tâm linh, phản ảnh
nề nếp đạo đức dưa con người về với nhân bản tính
và chân thiện mỹ. Sau đây là bài viết về văn hào Hermann
Hesse... Trong danh tác Demian, Hesse đã nhờ Thomas Mann đọc bản
thảo viết cho lời giới thiệu, bài viết thật đầy nồng
nhiệt cho người bạn văn của mình...
Tiểu sử
và sự nghiệp văn chương:
Hermann Hesse là nhà văn, nhà
thơ Đức quốc tịch Thụy Sĩ, ông sinh ngày02/07/1877
tạiCalw Ðức và mất ngày09/08/1962,
năm 85 tuổi, ông mất khi đang ngủ vì xuất huyết não tại
Montagnola, Thụy Sĩ. Hermann Hesse được trao Giải Nobel
Văn học năm 1946 và Giải Hòa bình của ngành kinh doanh sách
Đức năm 1955, hơn mười năm sau khi ông được tặng Giải
thưởng Nobel về văn học. Hermann chiụ ảnh hưởng bởi Nietzsche
và Thomas Mann.
Trong các bức thư gửi cha mẹ
ông đã bày tỏ quan điểm của mình là "đạo đức của người
nghệ sĩ đã được thay thế bởi thẩm mỹ". Tháng 10 năm
1895, Hermann Hesse làm việc tại tiệm bán sách Heckenhauer ở
Tübingen, một tiệm bán sách về thần học, triết học và
luật. Sau mỗi ngày làm việc 12 tiếng Hesse tự học những
sách về thần học, đặc biệt là các tác phẩm của Goethe,
Lessing, Schiller và các bài về thần thoại Hy Lạp. Năm 1896
bài thơ đầu tiên của Hermann Hesse, "Madonna" được in
trong một tạp chí xuất bản ở Wien, các bài thơ khác lần
lượt được đăng trong các số phát hành của Organ für Dichtkunst
und Kritik (Cơ quan về nghệ thuật thơ và phê bình). Năm 1898
Hermann Hesse đọc chủ yếu các tác phẩm của thời kỳ lãng
mạn Đức như Clemens Brentano, Joseph Freiherr von Eichendorff và
Novalis. Mùa thu 1898 Hermann Hesse xuất bản tập thơ đầu tiên:
Romantische Lieder (Các bài hát lãng mạn), và mùa hè 1899
tập văn xuôi Eine Stunde hinter Mitternacht (Một giờ đằng
sau nửa đêm). Cả hai tác phẩm đều thất bại về mặt kinh
doanh. Trong vòng hai năm chỉ bán được 54 bản trong tổng số
600 quyển Romantische Lieder được phát hành, Eine Stunde hinter
Mitternacht cũng được phát hành 600 quyển và được bán rất
chậm.
Ðầu mùa thu 1899, Hermann Hesse
làm việc cho một tiệm bán sách cũ có uy tín ở Basel, tại
đây cả một thế giới tri thức nghệ thuật với nhiều cổ
vũ phong phú đã mở cửa ra đón chào ông. Thành phố Basel
đồng thời cũng mang lại cho một con người sống cô độc
như Hermann Hesse về sống ẩn náu, ông đi du ngoạn, đi dạo
để tự tìm tòi nghệ thuật và giúp ông dùng bút mực miêu
tả những cảm xúc của mình. Năm 1900 Hermann Hesse được miễn
phục vụ quân sự vì thị lực yếu. Bệnh tật này tồn tại
mãi suốt cuộc đời cũng như bệnh đau đầu của ông. Năm
1901 Hermann Hesse đi du lịch nước Ý và chuyển về làm tại
tiệm bán sách cũ Wattenwyl ở Basel, thời gian này ông có nhiều
cơ hội để đăng các bài thơ và văn ngắn trên các tạp
chí. Nhà xuất bản Samuel Fischer đã chú ý đến quyển tiểu
thuyết Peter Camenzind và cho in thử năm 1903, phát hành năm 1904.
Năm 1957 Karlheinz Deschner viết
trong bài văn tranh luận Kitsch, Konvention und Kunst: "Việc Hermann
Hesse xuất bản quá nhiều các vần thơ hoàn toàn không có
trình độ như vậy là một điều vô kỷ luật đáng tiếc,
một sự man rợ về văn học". Trong các thập kỷ sau đó,
giới phê bình văn chương Đức nối tiếp đánh giá nhữngtác
phẩm của Hermann Hesse, một vài nhà
xuất bản xếp vào loại văn chương của ôngvào loại
giả mạo. Việc chấp nhận Hermann Hesse xuống đến điểm
thấp nhất ở Ðức vào thập niên 1960 trong khi giới thanh
niên ở Mỹ phát ra một sự "bùng nổ Hesse" và lan tràn về
lại Đức; đặc biệt quyển Der Steppenwolf trở
thành quyển sách bán chạy nhất (bestseller) và Hesse trở thành
tác giả người Đức được đọc và dịch nhiều nhất. Hơn
100 triệu quyển sách của ông đã được bán trên khắp thế
giới. Để tưởng niệm Hermann Hesse lãnh
hai giải thưởng văn chương, ông được đặt tên là:
Giải thưởng Hermann Hesse và Giải thưởng văn học Hermann
Hesse.
Giải thưởng Nobel dành cho
Hermann Hesse không chỉ đơn thuần là sự khẳng định danh
tiếng của ông mà nó còn tôn vinh thành quả văn thơ của
ông thể hiện qua hình ảnh một con người tốt trong cuộc
đấu tranh văn học của ông, đi theo tiếng gọi của sự trung
thành, một người đã thành công trong trọng trách bảo vệ
cho chủ nghĩa nhân đạo đích thực. Anders Österling, Thư ký
của Viện Hàn lâm Thụy Điển đã tuyên dương Hermann Hasse
như sau: "Giải Nobel Văn học năm
1946 được trao cho một nhà văn gốc Đức, người được
giới phê bình ca ngợi rộng rãi và là người đã sáng tác
bất chấp thị hiếu công chúng. Nhà văn Hermann Hesse 69 tuổi
giờ có thể nhìn lại những thành tựu đáng kể của mình,
bao gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và thơ, một phần trong
số đó đã được dịch sang tiếng Thụy Điển. Tập thơ
Trost der Nacht (1929) (Niềm khuây khoả trong đêm) phản ánh một
cách rõ nét phi thường không chỉ kịch tính nội tâm, sức
khoẻ, những giờ khắc đau yếu và sự tự vấn quyết liệt
của ông, mà cả sự hiến mình của ông cho cuộc sống, niềm
vui trong hội hoạ và sự tôn sùng thiên nhiên. Tập thơ sau
của ông Neue Gedichte (1937) (Những bài thơ mới), tràn đầy
sự minh triết của một người ở tuổi xế bóng và những
kinh nghiệm u sầu, nó cho thấy cảm xúc dâng trào trong hình
ảnh, thể thức và giai điệu".
Năm 1899, Hermann Hesse phát hành
tập thơ đầu tiên với những bài ca lãng mạn và viết nhiều
bài phê bình, nhưng ít được chú ý. Năm1904, tiểu thuyết
lãng mạn giáo huấn Peter Camenzind mang đến thành
công cho sự nghiệp văn chương đầu tiên cho ông, từ đó
Hermann Hesse cống hiến hoàn toàn cuộcđời mình
cho sự nghiệp sáng tác văn học, chủ yếu viết truyện
ngắn loại tự thuật.
Dưới bánh xe lăn (Unterm Rad, 1906),
tiểu thuyết. Gertrud (1910), tiểu thuyết. Rosshalde (1914),
tiểu thuyết. Knulp (1915), truyện vừa. Demian (1917),
tiểu thuyết. Mùahạ cuối cùng của Klingsors
(Klingsors letzter Sommer, 1918), truyện vừa, (Klingsor's last summer).
Siddhartha, Bản trường ca Ấn Ðộ (Siddhartha. Eine Indische
Dichtung, 1920), tiểu thuyết. Thơ (Gedichte, 1922), tập thơ.
Từ Ấn Ðộ (Aus Indien, 1923), thơ. Năm 1924, ông trở thành
công dân Thụy Sĩ và xuất bản tiểu thuyết Sói đồng
hoang (Der Steppenwolf,1927), một cuốn sách thuộc hàng best-seller.
Narziss và Goldmund (Narziss und Goldmund, 1929), tiểu thuyết.
Ðêm an ủi (Trost der Nacht, 1929), thơ. Hành trình
về Phương Ðông (Die Morgenlandfahrt, 1932), tiểu thuyết (The
journey to the East).
Trò chơi với chuỗi hạt cườm (Das
Glasperlenspiel, 1943), tiểu thuyết. Tiểu thuyết Trò chơi
với chuỗi hạt cườm (xuất bản năm 1943) như một bản
tổng hợp toàn bộ sự nghiệp sáng tác của Hermann Hesse và
nâng ông ông lên một tầm cao trong vấn đề sự dung hòa đời
sống tinh thần và thế tục. Chiến tranh và hòa bình
(Krieg und Frieden, 1946), (War and peace).
Trong thời kỳ đảng Quốc
xã cầm quyền ở Đức, Hermann Hesse sống "lưu vong" ngay trên
đất nước mình. Kể từ sau khi nhận giải Nobel, Hermann Hesse
không viết thêm được tác phẩm nào ngoài các tiểu luận,
thư từ. Gần 20 tác phẩm của Hermann Hesse đã được dịch
sang tiếng Việt; có cuốn có đến hai ba bản dịch khác nhau;
có cuốn được tái bản đến năm sáu lần, trong đó có hai
tác phẩm nổi tiếng là Câu chuyện của dòng sông (nguyên
tác: Siddhartha, tiểu thuyết), Phùng Khánh - Phùng Thăng dịch,
NXB An Tiêm, 1967; NXB Lá Bối, 1965-1966; NXB Hội Nhà Văn, 1988-1996-1998-2001.
Tuổi
trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian, tiểu thuyết), Hoài Khanh
dịch, NXB Ca Dao, 1968-1971-1974; NXB Hội Nhà Văn, 1998. (Tài liệu:
Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây).
Tham luận
tác phẩm:
Hermann Hesse là một trong những
nhà văn viết tiếng Ðức được đọc nhiều nhất trên thế
giới, ông được tặng Giải Nobel Văn học vì nộidung
cốt truyện mang đậm truyền thống nhân đạo cổ điển,
thể hiện bằng một văn phong sáng tỏ. Tất cả các tác phẩm
của Hermann Hesse đều chứa đựng một phần tính tự truyện,
đặc biệt trong tác phẩm
Steppenwolf, quyển tiểu thuyết
có thể được lấy làm thí dụ cho một "tiểu thuyết về
một cơn khủng hoảng trong cuộc sống". Trong hai quyển tiểu
thuyết Die Morgenlandfahrt và Das Glasperlenspiel,
Hermann Hesse trở về đề tài ông đã viết trong Peter Camenzind:
sự đối lập giữa vita activa (sống để làm việc từ thiện
cho người khác) và vita contemplativa (sống để tìm sự giải
thoát cho bản thân). Hầuhết các phẩm của ông được cả
bạn đọc Phương Tây lẫn Phương Ðông yêu thích.
Tài năng biến đổi đặc biệt
trong cách diễn tả của Hermann Hesse, một nhà thơ lãng mạn
đã hấp dẫn và thu hút được nhiều độc giả. Ông là một
nhà thơ khó hiểu, thẳng thắn với một tâm hồn Nam Đức
thể hiện qua sự tự do và lòng mộ đạo. Trong một đoạn
văn, Hermann Hesse nói: "Người ta không bao giờ được hài
lòng với thực tại, người ta chẳng nên say đắm cũng như
tôn thờ nó, bởi cái thực tại thấp kém, luôn gây thất
vọng và đáng buồn này chẳng thể thay đổi trừ phi ta phủ
nhận nó bằng cách chứng tỏ sức mạnh siêu việt của chúng
ta". Các tác phẩm đầu tiên của Hermann Hesse vẫn
còn mang tính truyền thống của thế kỷ thứ 19, phong cách
của quyển Peter Camenzind được coi như là một tiểu thuyết
giáo dục tiếp nối quyển Grüne Heindrich của Gottfried Keller.
Về nội dung Hermann Hesse phản đối sự công nghiệp hóa và
đô thị hóa, đi theo xu hướng của phong trào thanh niên thời
kỳ này. Cấu trúc của quyển Peter Camenzind qua sự đối chiếu
giữa thành thị, nông thôn và tương phản nam nữ trong các
tác phẩm Demina và Steppenwolf. Một khía cạnh quan
trọng khác trong các tác phẩm của Herman Hesse là sự duy linh
(spirituality) như trong quyển tiểu thuyết Siddharta đặt
nền tảng trên đạo giáo Ấn Ðộ, đạo Lão và thuyết thần
bí của Thiên chúa giáo. Một số nhà phê bình chỉ trích Hesse
là ông đã sử dụng văn chương để diễn đạt thế giới
quan của mình.
Tóm tắt
nội dung tác phẩm: Tuổi trẻ băn khoăn
(Demian) và Câu Chuyện Dòng Sông (Siddhartha)
Nhận định
Tuổi trẻ băn khoăn (nguyên tác: Demian):
Tuổi trẻ chấm dứt khi
tính vị kỷ kết thúc; sự trưởng thành bắt đầu khi ta
sống vì người khác. (Youth ends when egotism does; maturity begins
when one lives for others)
Theo tác giả Phương Hoa, "Tuổi
trẻ băn khoăn" là những băn khoăn trong công cuộc tìm
kiếm chính mình khi bước sang giai đoạn trưởng thành là
lúc người ta đặt nhiều câu hỏi cho chính mình. Làm sao để
tìm và đối diện với bản ngã của chính mình? Và phải
làn gì nếu ta rơi vào trạng thái hoang mang, lạc lối? Phải
chăng sau khi đọc Tuổi trẻ băn khoăn (Demian) của Hermann
Hesse, ta sẽ tìm được câu trả lời chân thực?
"Tuổi trẻ băn khoăn"
là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Hermann Hesse được xuất
bản năm 1904. Cuốn tiểu thuyết được bắt đầu bằng những
dòng chữ: "Từ buổi thái sơ đã có huyền tượng. Thần
linh muốn lên tiếng đã làm cho huyền tượng xuất hiện trong
tâm hồn cổ lỗ của người Ấn Ðộ, người Hy Lạp, người
Đức, và mỗi ngày lại tái tạo huyền tượng trong tâm hồn
trẻ con." Cuốn tiểu thuyết là những áng thơ và nhân
vật chính trong truyện cũng khát khao trở thành một nhà thơ,
nguyện dâng hiến cả cuộc đời mình để tạo nên những
vần thơ tuyệt đẹp.
Nhân vật chính trong Tuổi
trẻ băn khoăn, Peter Camenzind đã trải qua những cuộc hành
trình và chịu đựng rất nhiều những đau đớn đến cùng
cực về trí tuệ, về thể xác cũng như về tâm hồn. Trong
cuộc hành trình của mình, anh đã đặt chân đến những nơi
danh lam thắng cảnh khác nhau trên đất Đức, đất Ý, đất
Pháp và đất Thụy Sĩ. Anh cũng trải nghiệm qua rất nhiều
cung bậc cảm xúc rất khác nhau mà loài người thể hiện
qua những bước thăng trầm trong cuộc đời mình. Trong những
tháng ngày gần cuối cuộc đời, anh là một mẫu người lý
tưởng hiện thân cho Thánh Francis khi anh kết bạn và chăm
sóc cho một người què chân. Peter Camenzind, khi còn trẻ, rời
bỏ làng quê miền núi của mình mang theo một tham vọng lớn
lao sẽ đặt chân đến mọi miền trên thế giới và trở
thành một trong những kiều dân được phép cư trú trên mỗi
vùng miền đất ấy. Đã từng trải qua niềm đau mất mẹ
khi tuổi còn ấu thơ và ao ước được rời bỏ người cha
nhẫn tâm, anh hướng mình thi đậu trường đại học. Trong
quá trình học, anh đem lòng yêu Rosi Girtanner và trở thành
một người bạn thân thiết của Richard. Quá đau buồn trước
cái chết của Richard, anh lại lang thang chìm ngập vào những
trải nghiệm khác nhau của cuộc sống. Liên tục phải đối
mặt với những thăng trầm của cuộc đời, anh lấy men rượu
làm phương tiện để đương đầu với sự khắc nghiệt và
những điều kỳ lạ không thể giải thích được của cuộc
sống. Anh cũng gặp và đem lòng yêu Elizabeth, bất luận cô
sẽ lấy một người khác làm chồng. Tuy nhiên, cuộc hành
trình của anh ngang qua đất Ý đã làm thay đổi nhiều khía
cạnh trong con người anh. Nó làm gia tăng khả năng yêu đời
và khả năng nhìn nhận cái đẹp giữa muôn trùng sự vật
của anh. Chỉ đến khi anh kết bạn với Boppi, một nguời
khuyết tật, anh mới thực sự hiểu được ý nghĩa của lòng
thương yêu giữa người với người. Lúc ấy, anh mới nhìn
nhận được những hình thái cao quý nhất của tình người
được phản chiếu hoàn mỹ qua con nguời của Boppi và qua
những khó khăn mà hai người phải vượt qua để có với
nhau một tình bạn không thể phai mờ. Sau khi Boppi chết, Peter
Camenzind trở về làng và chăm sóc người cha đã có tuổi
của mình, ngay cả khi anh đã lên kế hoạch hoàn thành công
việc vĩ đại của đời mình.
Nhân vật thứ hai là cậu bé
Emil Sinclair, sinh ra trong một gia đình gia giáo, khá giả, nền
nếp và hạnh phúc với sự chăm sóc, thương yêu từ cha mẹ
và anh chị em. Nhưng cậu tự nhận thấy câu chuyện của mình
không hề thú vị, nó không ngọt ngào dễ chịu mà chỉ mang
mùi vị của sự nhảm nhí và hỗn độn, điên khùng và mộng
mơ - giống như cuộc đời của tất cả những kẻ không muốn
lừa dối bản thân thêm chút nào nữa. Cậu bắt đầu lớn,
Emil Sinclair dần dần rời xa cái thế giới tốt đẹp - nơi
có ánh sáng dịu nhẹ, bàn tay sạch sẽ, quần áo tươm tất
và cách hành xử lễ độ, cậu tiến gần hơn với thế giới
tăm tối, một thế giới của những tin đồn và tai tiếng.
Emil Sinclair đã bị đứa trẻ xấu, lớn hơn tên Franz Kromer
tống tiền, cậu đã phải ăn cắp tiền tiết kiệm, lấy
trộm tiền của cô hầu gái, lấy đồ ăn đưa cho Franz Kromer.
Emil Sinclair đối diện với cái ác chính trong tâm hồn mình
và luôn luôn mơ thấy ác mộng, sợ hãi, khó thở. Đầu tiên,
cậu sợ bị tố cáo ăn cắp táo, ăn cắp tiền và sợ
phải đối diện với những người thân yêu của mình.
Từ tội ác này nảy sinh tội
ác khác, tưởng chừng nếu kéo dài việc này mãi cậu sẽ
chìm ngập trong tội lỗi, nhưng may thay Demian xuất hiện, lớn,
chững chạc và từng trải hơn Emil Sinclair. Demian đã cứu
Emil Sanclair khỏi tay Franz Kromer. Emil Sinclair đã phá bỏ dần
dần cái thế giới "gia đình" và hòa nhập với thế giới
mới của những con người ngoài người thân. Demian dạy cậu
đối diện theo cách của mình, với sự biến đổi trong cơ
thể, như tính dục, sự hiềm khích, cảm giác muốn, làm cái
ác, sự trả thù.
Nhân vật thứ ba là Demian.
Demian đem lại nhiều tư tưởng táo bạo, những ý tưởng
mới xóa bỏ các quan niệm thông thường như việc Demian nghĩ
nhân loại nên coi trọng tất cả mọi thứ và xem cả thế
giới đều thiêng liêng, bao gồm những thứ tốt đẹp, cao
quý, uy nghi và cả những việc gắn liền với quỷ dữ. Quan
điểm của Demian về thế giới đạo đức công khai và thế
giới đen tối bị che đậy hoàn toàn trùng khớp với những
băn khoăn của Emil Sinclair về hai thế giới: Vấn đề của
đời sống và tư duy.
Trên con đường tìm kiếm bản
thân Emil Sinclair đã gặp Alfons Beck, nhân vật thứ tư đại
diện cho sự cám dỗ trong cuộc đời trưởng thành. Khác với
Demian, Alfons Beck vui hơn, hắn ta rành rõ về nữ giới thứ
nhục dục mà cậu đang kiềm chế trong mình, hắn dẫn cậu
sa ngã vào cạm bẫy của bia rượu, lâu dần cậu trở thành
tên bợm nhậu, từng bị thầy cô dọa đuổi học. Trong giai
đoạn Emil Sinclair mãi chìm đắm trong men rượu, cậu gặp
Beatrice và đem lòng yêu mến cô, sự mê đắm mãnh liệt ấy
đã thay đổi con người cậu hoàn toàn trở về người thuần
khiết, quý phái và ngay thẳng trong mọi hành động. Hình ảnh
Beatrice cho ta thấy được sức mạnh khủng khiếp của tình
yêu có thể thay đổi một con người gần như ở dưới đáy
của xã hội dù đó là tình yêu đơn phương.
Vài ba lần Emil Sinclair dạo
quanh thành phố cậu nghe được tiếng đàn trong nhà thờ,
người chơi đàn ấy là Pistorius, nhân vật thứ năm. Pistorius
là người dẫn đường, an ủi, khuyên nhủ giúp Emil
Sinclair có thêm động lực và niềm tin vào bản thân. Pistorius
đã nói với cậu rằng : "Cậu không thể mãi so sánh
bản thân với người khác, nếu thiên nhiên đã quyết định
cậu là một con dơi, cậu không biến thành một con đà điểu
được". Sau một quãng thời gian yêu Beatrice, tình yêu của
Emil Sinclair nhường chỗ cho Eva, mẹ của Demian, khiến cho cậu
có những ước mơ và tình yêu thật sự, tình yêu mà Sinclair
dành cho Eva giúp cậu lớn lên và hoàn thiện bản thân mình.
Phải yêu bản thân mình trước hẳn yêu người khác bằng
chính con người thật của mình. Bức thư của Demian là một
bài học hay cho Emil Sinclair "Chú chim đấu tranh thoát khỏi
quả trứng. Quả trứng là thế giới. Ai muốn được sinh
ra trước hết phải phá hủy một thế giới. Chú chim bay tới
bên chúa. Tên vị chúa là Abraxas. Abraxas không phải người
đại diện cho cái ác hay cái thiện, mà là người đại diện
cho ánh sáng và bóng tối.
Ở cuối tác phẩm (thời gian
là năm 1914), Demian nói với bạn cậu Emil Sinclair: "Sẽ có
chiến tranh… Nhưng Sinclair ạ, cậu sẽ thấy rằng đây chỉ
là mới bắt đầu. Có lẽ nó sẽ trở thành một cuộc chiến
tranh trên một bình diện khổng lồ. Nhưng ngay cả điều ấy
nó cũng chỉ là mới khởi đầu. Thế giới mới đang bắt
đầu: và đối với những kẻ nào còn khư khư bám vào cái
cũ thì thế giới mới ấy sẽ là một điều khủng khiếp.
Cậu sẽ làm gì?"
Nhà văn Hermann Hesse đã gột
tả được sâu sắc nội tâm đầy nhiễu động của Sinclair
- từ những lo sợ, dằn vặt về tinh thần và cảm giác đánh
mất bản thân, đến việc cố gắng xây dựng một "thế giới
tươi sáng" trên đống đổ nát mà cậu gây ra và hi sinh hết
thảy để tẩy sạch mọi thứ xấu xa đen tối. Bất cứ ai
đọc Tuổi trẻ băn khoăn (Demian) đều sẽ thấy thấp
thoáng bóng dáng bản thân trong chính câu chuyện của cậu.
Chúng ta có thể không mắc những sai lầm như Emil Sinclair,
nhưng chắc chắn cũng có lúc chúng ta rơi vào trạng thái hoang
mang, lạc lối giống như cậu. Qua những băn khoăn trên chặng
đường trưởng thành của Emil Sinclair, tác giả như muốn
truyền tải thông điệp về câu chuyện đối thoại với bản
thân, với tiếng nói trong sâu thẳm tâm hồn mình và đâu
là những giá trị và giấc mơ chúng ta cần theo đuổi, đâu
là lẽ sống đích thực của đời mình.
"Tôi bắt đầu hiểu rằng
sự đau khổ, thất vọng và sầu muộn không tồn tại để
làm ta khốn khổ, hay coi rẻ ta, hay tước đoạt đi của ta
sự tự tôn. Chúng ở đó để biến đổi ta và khiến ta trưởng
thành".I began to understand that suffering and disappointments and
melancholy are there not to vex us or cheapen us or deprive us of our dignity
but to mature and transfigure us).
Tóm lại, Từ tuổi bước vào
con đường trưởng thành Hermann Hesse đề cao những yếu tố
chân thiện mỹ khi cảm hoá con người bằng lòng bao dung, từ
bi, để tác phẩm mang giá trị nhân bản, ở khía cạnh đạo
đức, nó trở thành phiên bản tốt nhất cho xã hội và con
người khi ta lượng giá lại chính mình.
Tuổi trẻ băn khoăn
Hermann Hesse thiên về triết lý tôn giáo, tâm linh và triết
tính nhân sinh quan của Hermann Hesse. Tác phẩm chuyên chở những
điều hay cho cuộc sống qua thông điệp của Demian chất chứa
ý niệm của Freud con người sinh ra với bản thiện, xã hội
xung quanh tạo cho con người đi lạc như quan điểm tương đồng
của Khổng Tử vì "Nhân chi sơ tính bản thiện". Với
Emil Sinclair của "Demian", đó là cuộc đấu tranh giữa thế
giới thực với thế giới tinh thần, giữa thân xác và linh
hồn, nơi mà "chú chim đấu tranh thoát khỏi quả trứng.
Quả trứng là thế giới. Ai muốn được sinh ra, trước hết
phải phá hủy một thế giới".
"Cuộc đời mỗi người
chính là con đường trở về với bản ngã, là công cuộc
tìm kiếm dấu hiệu cho một lối đi. Chẳng có ai đạt được
sự tự nhận thức hoàn toàn và thấu triệt; nhưng người
ta sau đó vẫn cố nỗ lực, có người thì vụng về, kẻ
thì khéo léo và thông minh hơn, ai cũng cố hết sức cả".
Nhận định
Câu Chuyện Dòng Sông (Siddhartha):
"Bạn đã học được bí
mật của dòng sông chưa; rằng không có thứ gọi là thời
gian? Rằng sông ở mọi nơi cùng một lúc, ở đầu nguồn
và ở cửa biển, ở thác nước, ở bến phà, ở dòng chảy,
trong đại dương, trên những ngọn núi, ở mọi nơi và hiện
thực chỉ tồn tại vì nó, không phải cái bóng của quá khứ,
hay cái bóng của tương lai". (Have you also learned that secret
from the river; that there is no such thing as time? That the river is
everywhere at the same time, at the source and at the mouth, at the waterfall,
at the ferry, at the current, in the ocean and in the mountains, everywhere
and that the present only exists for it, not the shadow of the past nor
the shadow of the future).
"Câu chuyện dòng Sông"(Siddhartha)
là cuốn tiểu thuyết có tính tự truyện nói lên thân phận
con người, mà nhân vật trong truyện cũng là chính ông trong
cuộc sống. Với lời văn đầy cảm xúc nhẹ nhàng, sâu
lắng và huyền bí của nền văn minh Ấn Độ, những giá trị
tinh thần phương Ðông, Hermann Hesse đã thành công khi viết
cuốn tiểu thuyết "Câu chuyện dòng sông" (Siddhartha).
Câu chuyện lấy thời điểm Ðức Phật còn tại thế, kể
về hành trình tâm linh của một anh chàng trẻ tuổi theo đạo
Bàlamôn tên là Tất Đạt (Siddhartha) và người bạn thân Thiện
Hữu (Govinda) rời bỏ gia đình và quê hương để gia nhập
đoàn Sa Môn tu khổ hạnh, đây là lần ra đi thứ nhất của
anh để tìm kiếm ý nghĩa cuộc đời. Tất Đạt hy vọng sự
khổ hạnh sẽ làm anh giác ngộ và đạt tới được vô ngã,
nhưng dần dần, anh thất vọng vì cảm thấy khổ hạnh không
đem đến cho anh bình an thực sự. Tất Đạt đến tìm gặp
Đức Phật, mặc dù không một chút nghi ngờ về giáo lý của
Ngài, nhưng anh không xin ở lại để tu theo Ngài như Thiện
Hữu. Tất Đạt ra đi vì không phải để tìm một giáo lý
hay một người thầy giỏi hơn mà để chứng nghiệm sự giác
ngộ của mình chỉ bằng trải nghiệm, chứ không bằng sự
truyền đạt qua sách vở hay ngôn từ.
Lần ra đi này là thứ hai để
đi tìm lấy chính mình. Tất Đạt đi lang thang và gặp
được Kiều Lan (Kamala), một kỹ nữ nổi tiếng xinh đẹp
và giàu có. Chàng Tất Đạt Sa Môn trẻ tuổi vô sản này
chỉ có ba cái khả năng là biết suy nghĩ, biết chờ đợi
và biết nhịn đói do nhờ sự luyện tập. Khả năng biết
suy nghĩ có nghĩa là sáng suốt, tỉnh táo; biết chờ đợi
có nghĩa là kiên nhẫn, thinh lặng, lắng nghe và biết nhịn
đói có nghĩa là biết buông xả, từ bỏ. Với ba khả năng
đó, Tất Đạt đã chinh phục được người đẹp Kiều Lan,
anh đã được nàng dạy cho nghệ thuật yêu đương, học cách
kiếm tiền, tiêu tiền sau khi trở thành một cộng sự viên
đắc lực cho nhà buôn giàu có Giạng Mỹ (Kamaswami). Tất Ðạt
từ từ rơi vào sa đọa, càng xuống tận cùng của dục lạc,
anh càng thấy trống rỗng và chán ngấy. Đây cũng là lúc
Tất Đạt cảm thấy đánh mất ba cái khả năng biết suy nghĩ,
biết chờ đợi và biết nhịn đói của anh.
Tuyệt vọng Tất Ðạt lại
bỏ ra đi, lần ra đi thứ ba này là để đi tìm sự giác ngộ,
anh tới một dòng sông và định trầm mình tự vẫn, bỗng
nhiên anh nghe vẳng lại từ dòng sông có tiếng "Om" linh thiêng
mầu nhiệm vang lên trong tâm thức đã làm anh tỉnh thức.
Tất Đạt gặp người lái đò, Vệ Sử (Vasudeva) và quyết
định ở lại với ông, anh và Vệ Sử sống êm đềm bên
cạnh dòng sông và làm nghề chèo thuyền đưa khách qua sông.
Tất Đạt lắng nghe dòng sông như một người thầy của mình,
dòng sông đã dạy cho anh sự lắng nghe với tâm tĩnh lặng,
lòng rộng mở, không đam mê, không cầu mong, không phán xét
và không thành kiến. Dòng sông nói với Tất Đạt hãy sống
cho hôm nay và không sống cho cái bóng của hôm qua hay cái bóng
của ngày mai.
Trong thời gian Tất Ðạt xa
Kiều Lan, nàng đã sinh một con trai cho Tất Đạt, nhưng chàng
không hề biết. Hai mẹ con Kiều Lan trong chuyến hành hương
viếng Đức Phật sắp nhập Niết bàn, nàng bị rắn cắn.
Trước khi chết, Kiều Lan đã gặp Tất Đạt và cho chàng
hay đứa trẻ này là con trai của chàng. Tất Đạt sung sướng
nhận đứa con và chàng muốn nó sẽ có cuộc sống bình an
giản dị như chàng, nhưng nó là một đứa trẻ sống quen
trong giàu sang nhung lụa đã chống lại anh và bỏ ra đi, quay
trở về thành phố của nó. Tất Đạt đau khổ định đi
tìm con, nhưng người lái đò Vệ Sử khuyên chàng nên để
đứa con ra đi, nó phải tự trải nghiệm cuộc sống riêng
của nó, như ngày xưa chàng đã bỏ cha chàng ra đi. Trong tận
cùng của khổ đau, Tất Đạt nghiệm rằng, trước đây cha
chàng đã phải chịu đựng đớn đau, khi chàng bỏ ông ở
lại một mình và bây giờ chàng cũng lại phải gánh chịu
sự đớn đau đó, khi đứa con bỏ ra đi. Qua đó Tất Đạt
chợt nhận ra con chàng là một phần của chàng, cũng như chàng
là một phần của cha chàng và tất cả đều quy về một
mối. Khi Tất Đạt hiểu được tính nhất thể của cuộc
sống, chàng cảm nhận được sự khai sáng trong chàng.
Người lái đò và người thầy
của chàng, biết chàng đã được giác ngộ, tự coi nhiệm
vụ mình đã xong, bỏ đi vào rừng bình an. Thiện Hữu lúc
ấy là một Sa Môn đi khất thực và vẫn đi tìm kiếm sự
giác ngộ. Một hôm Thiện Hữu theo đoàn Sa Môn qua sông và
gặp được Tất Đạt đang chèo đò, chàng hỏi Tất Ðạt
làm sao để được giác ngộ? Tất Ðạt trả lời: "Người
đi tìm kiếm vì đã có mục đích nên khó có thể tìm ra chân
lý, chân lý thì không thể truyền dạy được mà phải tự
mình chứng nghiệm, tất cả đều quy về một (Nhất thể)
và tình thương là quan trọng nhất trên thế gian".
Tất Ðạt yêu cầu Thiện Hữu đặt môi lên trán của chàng,
thi Thiện Thiện Hữu cảm thấy mình đang được khai sáng,
mọi khổ đau khắc khoải đều tiêu tan, sự an lạc dần dần
hiện hữu, Thiện Hữu thấy trong lòng tràn ngập vui sướng
và cúi đầu xuống lạy Tất Đạt.
Trong tác phẩm "Câu chuyện
dòng Sông"(Siddhartha), Hermann Hesse đã gởi gắm những suy
tư của mình về chân lý, về cuộc đời và về sự giải
thoát qua các nhân vật Tất Đạt và Vệ Sử. Cólẽ Hermann
Hesse đã cho rằng chân lý là cái gì không thể truyền dạy
được, kinh điển không đem lại cho ta niết bàn, an lạc mà
là do ta tự tìm thấy. Ngôn từ có khi bao hàm điều ngược
lại như nói "thiện" làm ác hay nói "khiêm tốn" là "kiêu căng".
Giải thoát chính là nhìn vào thực tại một cách toàn diện
không thêm bớt, trong sinh có tử,chết là bắt đầu đời
sống mới dưới một hình dạng mới. Trong câu chuyện trao
đổi giữa Tất Ðạt và Thiện Hữu, Tất Ðạt nói:
"Này Thiện Hữu! Thời gian không có thực, tôi đã luôn
luôn trực nhận điều ấy. Và nếu thời gian không có thực,
thì cái đường tưởng tượng ngăn chia đời này với cõi
vô cùng, phân chia thiện và ác, hạnh phúc với khổ đau, cũng
chỉ là ảo tưởng".
Thiện Hữuhỏi
lại Tất Ðạt: "Sao lại như thế?" Tất Ðạt
trả lời: "Này nhé bạn! Tôi là một kẻ phạm tội
và bạn là một kẻ phạm tội. Nhưng một ngày kia người
phạm tội cũng sẽ đạt Niết Bàn, thành Phật. Ý niệm "một
ngày kia" chỉ là ảo tưởng, chỉ là một sự so sánh. Không,
Đức Phật tiềm tàng (Phật tính) đã có sẵn trong người
tội lỗi, tương lai đã nằm sẵn trong hiện tại. Đức Phật
tiềm tàng ấy phải được trực nhận trong người kia, trong
bạn, trong tôi, trong mọi người. Thiện Hữu, thế giới không
từ từ tiến trên đường dài để đạt đến toàn thiện.
Không, nó hoàn hảo trong mọi lúc, trong từng giây phút. Tất
cả mọi tội lỗi đều mang theo nó sự ân xá, mỗi trẻ con
đã là một ông già tiềm tàng, mọi mầm non đã mang sẵn
chết chóc, và trong mỗi người đang hấp hối, có sự sống
vĩnh cửu. Chúng ta quen nhìn một chiều, hoặc sinh hoặc diệt,
nên đau khổ. Người giác ngộ thì thấy sự luân chuyển của
vạn vật cũng như bốn mùa, trong diệt có sinh và ngược lại,
như Mãn Giác thiền sư nói: Mạc vị xuân tàn hoa lạc
tận. Đình tiền tạc dạ nhất chi mai".
Ðại văn hào André Gide đã
cho rằng: Những sợ hãi, lo sầu đều ở trong thời gian nên
mọi đau khổ trên đời sẽ được khắc phục khi ta khắc
phục thời gian khi ta bất chấp nó. Đôikhi,
cái gì có giá trị là chân lý đối với người này
thì dường như với người khác không có nghĩa gì cả. Tất
cả mọi sự đều thiêng liêng nếu ta biết nhìn và biết
lắng nghe. Mỗi sinh vật đều gợi cho ta chân lý vĩnh cửu
nếu ta không bám vào nó. Đừng tìm Thượng Đế ở một nơi
nào, vì Thượng Đế ở khắp nơi. Chỗ tuyệt đỉnh của
đạo cũng như của nghệ thuật là sự im lặng vô ngôn. Khi
ta dừng lại ở một cái gì để cho đó là thượng đế,
thì chính lúc đó ta xa rời Thượng đế
Tất Ðạt nói: "Thú thật
tôi không cho danh từ, tư tưởng có một tầm quan trọng
nào, tôi quan tâm đến sự vật nhiều hơn. Một người trên
dòng sông này đã là thầy của tôi, ông ta là một người
thánh thiện, trong bao nhiêu năm ông chỉ tin vào dòng sông,
không tin gì khác. Con sông đối với ông ta như một thượng
đế. Trong nhiều năm ông không biết rằng mỗi làn gió, mỗi
đám mây, mỗi thân chim, sâu bọ cũng đều thiêng liêng không
kém, và có thể dạy cho ông ta hệt như dòng sông đã dạy".
Yêu thương cuộc đời là quan
trọng hơn tìm hiểu và phân tích nó. "Bây giờ Tất
Ðạt nhìn cuộc đời với một thái độ khác trước: không
quá khôn ngoan, không quá kiêu hãnh, và vì thế tò mò, thân
thiện hơn. Khi chàng đưa qua sông những nhân vật thường
ngày, họ không còn xa lạ với chàng như trước. Mặc dù đã
đạt tới mức tự giác cao độ và chịu đựng được cái
ung nhọt cuối cùng của mình, bây giờ chàng thấy những người
thường tình ấy đều là huynh đệ của chàng, những ước
mơ phù phiếm của họ không còn phi lý mà trở nên dễ hiểu,
đáng thương và lại còn đáng phục nữa là khác". Danh
từ không nói lên được chân lý. Tất Đạt bảo Thiện Hữu:
"Với tôi dường như thương yêu là quan trọng nhất trên
đời. Những tư tưỡng gia vĩ đại có thể đặt nặng vấn
đề tìm hiểu nhân sinh vũ trụ, nhưng tôi nghĩ, chỉ có một
điều quan trọng là yêu thương cuộc đời, không phải khinh
bỉ nó, không thù ghét nhau mà nhìn đời nhìn mình cùng tất
cả mọi sự với niềm yêu thương, quý trọng".
Thiện Hữu: "Nhưng đây chính
là điều mà đấng giác ngộ gọi là vọng tưởng.Ngài dạy
lẽ độ lượng, nhẫn nhục, từ bi... nhưng không dạy yêu
thương. Ngài giới răn chúng ta không được trói buộc mình
vào tình yêu thế tục". Tất Ðạt: "Chúng ta lại rối
ren về danh từ và ý nghĩa. Tôi không phủ nhận rằng danh
từ thương yêu của tôi thật trái ngược với lời chỉ giáo
của đức Cù Đàm. Tôi khinh thường danh từ cũng vì lẽ ấy:
tôi biết mâu thuẫn kia chỉ là ảo tưởng. Quả thế, làm
sao Ngài không biết đến tình yê u khi mà Ngài, mặc dù đã
nhận chân sự phù phiếm giả tạm của nhân thế, vẫn dấn
thân suốt đời giủp đỡ và giáo hóa con người?".
Dòng sông tượng trưng cho dòng
thời gian, dòng đời. Tất cả những triết gia cổ điển
và hiện đại đều ví thời gian như dòng nước chảy. Khổng
Tử, Héraclite, Henri Bergson đều ví thời gian và tâm thức
như dòng nước (stream of consciousness). Cuộc đời con người
giống như một dòng sông tuôn chảy không bao giờ đứng lại,
đây là tính vô thường của cuộc đời. Vì vô thường cho
nên mỗi giai đoạn trong cuộc đời chỉ là giả tạm, không
thật: đó là tính vô ngã, cũng như dòng sông không thực có.
Tất Ðạt: "Bánh xe
hiện tượng quay nhanh lắm Thiện Hữu! Ðâu là Tất Ðạt
con người bà la môn? Ðâu là Tất Ðạt sa môn? Ðâu là Tất
Ðạt con người giàu có? Cái gì giả tạm sẽ đổi thay".
Trong
tập Mưa nguồn, thi sĩ Bùi Giáng viết: "Dòng
sông chảy, ai người xin níu lại? Còn đời người thì: Xuân
xanh xô cổng chạy dài. Bỏ sương tuyết phủ phượng đài
phía sau". Hermann Hesse cho rằng: "Vũ khí tốt nhất chống
lại những bùn nhơ của cuộc đời là lòng can đảm, tính
ngoan cường và sự kiên nhẫn. Lòng can đảm cho ta sức mạnh,
tính ngoan cường khiến ta vui, và sự kiên nhẫn mang đến
bình yên). (The best weapons against the infamies of life are courage,
wilfulness and patience. Courage strenthens, wilfulness is fun and patience
provides tranquility).
·
Trong tiểu thuyết Câu Chuyện Dòng Sông,Siddhartha, Hermann Hesse
ghi nhận..."Trí tuệ không thể được truyền đạt. Sự
khôn ngoan mà con người khôn ngoan cố gắng truyền đạt luôn
nghe có vẻ như ngu muội với người khác ... Kiến thức có
thể được truyền đạt, nhưng không phải là sự khôn ngoan.
Người ta có thể tìm thấy nó, sống với nó, làm thành những
điều kỳ diệu trải nghiệm qua nó, nhưng người ta không
thể giao tiếp và chỉ dạy nó được"…Một ý tưởng
khác: "Khi một người nào đó tìm kiếm, "Siddhartha nói,"
điều đó dễ xảy ra khi mắt anh ta chỉ nhìn thấy thứ mà
anh ta tìm kiếm, và anh ta không thể tìm thấy gì, không nhận
ra được gì vì anh ta luôn chỉ nghĩ về thứ anh ta đang tìm
kiếm, bởi vì anh ta chỉ nghĩ về thứ anh ta đang tìm kiếm,
bởi vì anh ta có một mục tiêu, bởi vì anh ta bị ám ảnh
bởi mục tiêu đó của mình. Tìm kiếm có nghĩa là có một
mục tiêu. Nhưng tìm kiếm có nghĩa là tự do, cởi mở, và
không có mục tiêu." Nhưng ý tưởng trong Siddhartha..."Ðây
không phải là để tôi đánh giá cuộc sống của người đàn
ông khác. Tôi phải phán xét, tôi phải chọn, tôi phải từ
chối, hoàn toàn vì bản thân mình. Đối với bản thân tôi,
một mình tôi." Và ý tưởng khác. "Tôi luôn tin tưởng
và tôi vẫn tin rằng, dù vận may hay điều xấu xa có thể
đến với chúng ta, chúng ta luôn có thể mang ý nghĩa và biến
hoá nó thành một thứ có giá trị."
·
Ðọc tiểu thuyết Siddhartha và những nhận định văn học:
Nhận xét của triết gia Volker Zotz: "Trong nhân vật chính
của Hesse là Tất Đạt hội ngộ Ðức Phật, là một chủ
nghĩa cá nhân của châu Âu hiện đại và nghi ngờ những
giáo điều và mọi tổ chức". Nhận xét của nhà văn Nguyễn
Tường Bách: "Hermann Hesse cho ta thấy muốn thấu hiểu bản
chất của đời sống, con người cần phải trải nghiệm tận
cùng mọi ngõ ngách của nó. Sự sống đang diễn ra trong mọi
hình thái trong vũ trụ cũng chỉ vì nó cần trải nghiệm hết
chính bản thân mình. "Sự sống" đó là "dòng sông" của Siddhartha
mà chàng đã biết lắng nghe. Cuối cùng Siddhartha đã ngộ
ra rằng "sự thật nào cũng có đối nghịch của nó và điều
đối nghịch này cũng thật không kém". Khi đã trải nghiệm
và biết lắng nghe mọi hình thái của sự sống, chàng đã
tự siêu việt chính mình, vượt lên thiện - ác, tốt - xấu.
Đó là tư tưởng Bát nhã, nói theo cách của Hermann Hesse."
Nhận xét của nhà văn
Phùng Khánh: "Ðọc "Câu chuyện dòng sông", chúng ta sẽ thấy
rằng cuộc đời đáng sống và chứa đựng muôn ngàn hương
sắc tuyệt vời, mà chúng ta thường bỏ quên và đánh mất
giữa đời sống thường nhật. "Câu chuyện dòng sông" là
câu chuyện của mỗi người trong chúng ta; đó cũng là hình
ảnh muôn thuở của trần gian và của mộng đời bất tuyệt....
Câu Chuyện Dòng Sông trước hết là một tác phẩm văn học
nghệ thuật, cho nên bất cứ một phân tích nào về phương
diện tư tưởng đều mang ít nhiều tính chủ quan do người
đọc tự gán cho nó. Bởi thế những ai phê phán sách này
phỉ báng đạo Phật hay đề cao đạo Phật, đều không đúng
chỗ."
Tóm lại, Câu Chuyện Dòng
Sông là một tác phẩm văn học nghệ thuật nên về
phương diện tư tưởng đều do người đọc chủ quan. Hermann
Hesse tuy không trực tiếp nói về cuộc đời Ðức Phật nhưng
trong hành trình đi tìm chân lý của Siddhartha lúc nào cũng
có hình ảnh Đức Phật hiện lên như ngọn đèn soi tỏ. Lấy
bối cảnh đúng vào thời Thích Ca còn tại thế, việc Hermann
Hesse tách tên Đức Phật ra để thành tên hai nhân vật trong
tiểu thuyết của mình: một là Phật đã thành và một là
Phật sẽ thành như một khẳng định rằng tự thân trong mỗi
con người đã có Phật tính vậy, nên hành trình đi tìm đạo
hay tìm Phật chính là đi tìm lại chính mình, đi sâu vào những
trải nghiệm cá nhân, tương giao với vạn vật của đời
để thấu hiểu nội tâm của mình.Ở các tiểu thuyết của
Hesse, ta có thể thấy sự tách mình ra trong một trạng thái
lưỡng phân như trong tác phẩm "Sói thảo nguyên" là cuộc
đấu tranh không khoan nhượng giữa bản ngã người và bản
ngã sói trong cùng một cơ thể. Trong tất cả tác phẩm của
Hermann Hesse đều nói lên nỗi đau thương, bi phẫn của kiếp
con người, trong đó có ông, nhưng ông cũng cho thấy có sự
yêu thương thiết tha cuộc đời và những nỗ lực vô hạn
để vươn lên khỏi thân phận yếu hèn của mình. Như một
câu của Hermann Hesse viết trong bài thơ "Gestutzte Eiche"
(Cây sồi trần trụi).
Sự cô đơn là con đường
mà số phận thử dùng để dẫn dắt con người tới với
chính mình. (Loneliness is the way by which destiny endeavors to lead
man to himself).
Ðôi Khi
Hermann Hesse
Ðôi khi, tiếng kêu của
một con chim đêm
Hay cơn gió xào xạc trong
những tán lá cây
Tiếng chó sủa ở trang
trại nơi hoang vắng
Tôi cần lắng tai nghe, thật
lâu, trong im lặng
Linh hồn tôi quay trở về,
Chốn xưa kia, trước nghìn
năm quên lãng
Một con gió và một cánh
chim trời
Từng như tôi và những
người huynh đệ
Linh hồn tôi hóa thành một
thân cây,
Một con thú và một làn
mây trắng
Không quen biết linh hồn
quay trở lại
Trao cho tôi câu hỏi. Nhưng
tôi phải trả lời thế nào?
Bởi
vì tôi yêu em
Bởi vì tôi yêu em trong
đêm tối.
Nên bên em tôi cuồng dại,
thầm thì.
Và để em không bao giờ
quên lãng,
Tôi bắt giữ hồn em theo
với khối tình si.
Giờ hồn em thuộc về
tôi mãi mãi,
Dẫu cảnh trạng xấu xa
hay tốt đẹp êm đềm.
Từ cuồng dại, lửa tình
yêu bốc cháy,
Không thiên thần nào cứu
rỗi được giùm em.
(*: do Hoàng Nguyên Chương
chuyển dịch.)
Anh cũng biết?
Anh có biết tới
không, thư thoảng
Giữa một cơn cao hứng
ngút ngàn
Lễ hội, trong một sảnh
hân hoan
Bất chợt anh phải lặng
câm và cất gót
Rồi anh không ngủ, dúi đầu
vào ổ
Như một người, chợt trúng
tim đau
Khoái trá và tràng cười
như khói rã tan mau
Anh khóc, khóc không thôi
– Anh cũng từng biết tới?
(Phạm Kỳ Ðăng chuyển
dịch từ Ðức ngữ)
Sau cùng, qua xét nghiệm về
cảm nhận của nhà văn Nguyễn Tường Bách về Hermann Hesse
cho ta thấy: Muốn thấu hiểu bản chất của đời sống, con
người cần phải trải nghiệm tận cùng mọi ngõ ngách của
nó. Sự sống đang diễn ra trong mọi hình thái trong vũ trụ
cũng chỉ vì nó cần trải nghiệm hết chính bản thân mình.
Cùng ý tưởng của nhà văn Phùng Khánh qua "Câu chuyện dòng
sông", chúng ta sẽ thấy rằng cuộc đời đáng sống và chứa
đựng muôn ngàn hương sắc tuyệt vời, mà chúng ta thường
bỏ quên và đánh mất giữa đời sống thường nhật. "Câu
chuyện dòng sông" là câu chuyện của mỗi người trong chúng
ta; đó cũng là hình ảnh muôn thuở của trần gian và của
mộng đời bất tuyệt. Nó là một tác phẩm văn học nghệ
thuật, còn theo chính tác giả Hesse thì nó cấu tạo bởi ngòi
bút kết nối hai nửa của Vũ trụ với nhau và liên kết Trái
đất với sự bất diệt. Con sông lớn đánh dấu trung tâm
địa lý trong trí tưởng tượng trong tiểu thuyết này.
Tinh hoa trong lòng tin của Hermann
Hesse vào sự tồn tại giữa vũ trụ địa cầu như trong tư
tưởng của ông, với cảm nghĩ cùa hai chúng tôi, ông là một
bậc hàn lâm văn chương, một nghệ sĩ thuần túy của thi
ca và văn học, một nhà tư tưởng uyên bác định hướng
ngòi bút mình trong suốt cuộc đời, đóng một vai trò quyết
định trong sự lựa chọn cho chính mình. Những chuyện duy
tâm có kết cuộc hay hàm ý chân thiện mỹ, của chiều sâu
tâm hồn, Kẻ lang thang cô độc, được biểu hiện như Siddhartha
trong "Câu Chuyện Dòng Sông" hay Câu chuyện tuổi trẻ của
Emil Sinclair trong tác phảm "Tuổi Trẻ Băn Khoăn", như Hesse
viết: "Sự cô đơn là con đường mà số phận thử dùng
để dẫn dắt con người tới với chính mình" (Loneliness
is the way by which destiny endeavors to lead man to himself.", và rằng:
"Không có gì vĩnh cửu thuộc
về chúng ta,
chúng ta là con sóng dâng
trào để vừa với bất kỳ hình thái nào nó tìm thấy".
(No permanence is ours, we
are a wave that flows to fit whatever form it finds).
Vâng, thật vậy, cuộc đời
dẫn dắt chúng ta về với chính mình, và cuộc đời dù có
thay đổi muôn hình vạn trạng, cuối cùng nó an phận với
hoàn cảnh xảy ra cho mỗi người chúng ta. Âu cũng là định
mệnh.
Việt
Hải và Khánh Lan.
Tài liệu tham khảo:
· Hermann Hesse, Bách khoa toàn
thư Wikipedi.
· Hermann Hesse, Encyclopaedia Britannica.
· Hermann Hesse's Spiritual Formula,
Stefan Borbély.
· Câu Chuyện Dòng Sông và
dịch giả Phùng Khánh.
· Hermann Hesse và tác phẩm
Tuổi Trẻ Băn Khoăn, Vietmessenger.web.
· Hermann Hesse và Siddhartha (
Câu Chuyện Dòng Sông ), Ngdieutam blog.
· Phân tích tác phẩm "Câu
chuyện dòng song-Nguồn mạch tâm linh", Ni sư Thích Nữ Trí
Hải.