Cách
đây 38 năm, khi ấy mới ra trường, tôi viết bài bào đầu
tiên về giáo dục. Đó chỉ một "mẩu" độ vài trăm chữ
nói về hiện tượng học sinh bỏ học và kêu gọi sự quan
tâm của toàn xã hội. Bài báo được một ông quan chức quan
tâm, nhưng không phải đến vấn đề được nêu mà quan tâm
đến cái người viết bài. Rắc rối đầu tiên là cho ông
hiệu trưởng của tôi. Sau đó là tất nhiên là tôi. Theo yêu
cầu của ông hiệu trưởng, tôi phải gặp ông quan chức kia
để "xin lỗi" hoặc pbải viết một bản "kiểm điểm" gửi
ông ấy. Tôi thấy chẳng có gì phải "xin lỗi", hay "kiểm
điểm" nhưng cũng chẳng dám không. Cuối cùng tôi viết một
bức thư mang tính chất giải trình, giãi bày.
Nhiều người cho rằng giáo
dục bây giờ "loạn", không được "lành mạnh" như trước
kia. Kể câu chuyện trên tôi chỉ muốn nói rằng: lúc nào
thì giáo dục cũng đầy chuyện, vấn đề là có nhìn thấy
và nhìn kiểu nào thôi.
Giáo dục khoảng 20 năm trở
lại đây là lĩnh vực mà hầu hết mọi người, hễ nói đến
đều một giọng chê bai. Những dịp về quê, những dịp gặp
bạn bè, tôi cũng là đối tượng để họ giải tỏa bức
xúc. Hình như khi xã hội có quá nhiều chuyện bế tắc, người
ta cần phải đổ lỗi cho ai đó, cho một cái gì đó. Sự
trút giận của xã hội thế là cứ nhằm vào hai ngành là
giáo dục và y tế, vì có lẽ đó là chỗ dễ đổ tội nhất.
Khổ thân cho hai hạng thầy trong xã hội hiện nay.
Những chuyện yếu kém của
giáo dục thì nói cả ngày cả hết, tôi có khi còn biết nhiều
hơn những chuyện đó nhưng để khi khác tôi sẽ quay lại,
lúc này tôi muốn bày tỏ nỗi cảm thông với các thầy cô
nói riêng, với ngành giáo dục nói chung, bởi họ dù có cố
gắng nhưng dường như là bất khả thi.
1. Không phải ông thầy cứ
muốn là được
Ba mươi năm qua, kinh tế thị
trường đã mở ra khá nhiều điều kiện giúp cho con người
mưu sinh và làm giàu. Nhưng xã hội đã đến lúc thực sự
cần thiết những con người độc lập, tự chủ, sáng tạo
chưa, thì tôi thấy rằng chưa. Cho nên "cầu" chưa kích "cung".
Học để thành tài hay học để có nhiều thành tích
đưa vào hồ sơ làm điều kiện kiếm việc, để tiến thân,
thì xu hướng vẫn nghiêng hẳn về cái thứ hai.
Tôi nghiệm ra không phải thầy
dạy gì trò sẽ học nấy. Người đi học có mục đích thực
dụng. Khi tôi chuyển về dạy ở một trường THPT chuyên,
tôi thấy học sinh ở đây nhận thức rất nhanh, cho nên tôi
không dạy kiểu "bài bản" khuôn phép như lẽ thường, mà
tập trung "thắp lên ngọn lửa" trí tuệ và nhiệt tình ở
các em. Thế nhưng khoảng hai tháng sau, ông hiệu phó phụ trách
chuyên môn gọi tôi lên, bảo: "Ông xem lại cách dạy của
mình, học sinh và phụ huynh kêu lắm". Và ông đưa liền
mấy dẫn chứng, trong đó có trường hợp một ông phụ huynh
đã phản ảnh rằng, khi cô X dạy, con ông mỗi tiết ghi được
ba trang, còn ông T (tức là tôi), mỗi tiết ghi được có nửa
trang, thế thì học thế nào, đi thi thế nào". Ông phụ huynh
này lại là trưởng phòng phổ thông của sở giáo dục, tôi
đâu dám xem thường. Hôm sau lên lớp, tôi dành ít phút "trưng
cầu ý kiến". Học sinh ào lên kêu tôi thật, chúng bảo "phương
pháp của thầy dạy lạ quá, chưa học thầy nào như thế".
Tôi bảo: "Thầy có dạy sai chỗ nào không?" Đáp: "Không".
"Có khó hiểu không?" Đáp: "Không. Dễ hiểu và hay lắm".
Vậy thì sao lại kêu?". "Vì sợ không đi thi được".
Hóa ra tất cả vì cái chuyện thi. Ôi, giá chỉ học mà không
phải thi. Tôi đành ngán ngẩm mà đọc hai câu thơ của Nguyễn
Bính:
Cứ tưởng rằng yêu thì
khó chứ
Không yêu thì thực dễ
như không.
Nhưng rồi tôi hiểu lý do chính
đáng của học trò, của phụ huynh. Đầu tiên là phải vượt
qua các kỳ thi. Không vượt qua các kỳ thi thì tài thánh cũng
vứt. Từ xưa bao nhiêu bậc tài danh của nước Nam này muốn
làm nên công nghiệp đều phải vượt qua các kỳ thi – những
kỳ thi rất là nhiêu khê và rắc rối. Có tài mà không đỗ
đạt thì chỉ có mà thành... nhà thơ. Như các ông Tú Xương,
Tản Đà. Tất nhiên làm nhà thơ được như các ông ấy thì
cuối cùng cũng có công nghiệp nhưng theo nghĩa khác, và đấy
là chuyện về sau, khi họ đã chết. Còn trong cái đời của
họ thì cơ cực mọi đường. Từ đó tôi thường chia bài
dạy làm hai phần: cái này học để làm người, cái
này học để đi thi. Đối với con tôi, tôi cũng đành
giáo dục theo cách ấy.
Năm 2006, có một hội thảo
quy mô về dạy – học Ngữ văn THPT được tổ chức ở Cửa
Lò (Nghệ An). Ba vị giáo sư đầu ngành về dạy Ngữ văn
chủ trì hội thảo là GS. Nguyễn Đăng Mạnh, GS. Hoàng Ngọc
Hiến và GS. Trần Đình Sử. Có một nội dung rất được
chú trọng là chống "đọc – chép". Tôi có kể lại
câu chuyện trên và kết luận: các thầy không thể nào chống
nổi "phương pháp đọc – chép" đâu. Cho đến nay tôi thấy
việc dạy học Ngữ văn ở trường phổ thông vẫn thế. Khác
chăng là học trò phô tô thay vì chép.
Về phép thi cử, mấy chục
năm qua, Bộ Giáo dục – Đào tạo (GD – ĐT) cũng đã loay
hoay đủ đường, cải tiến rồi lại "cải lùi". Thực ra
thì vấn đề này chủ yếu không nằm ở Bộ GD – ĐT. Tôi
ngắm ở những nơi tuyển dụng (gồm tuyển và dụng)
con người, người ta vẫn chưa cần người có năng lực thực
sự mà cần cái khác! Cho nên người học cũng không cần học
thực sự. Một thực tế dễ thấy là càng lên cao, việc học
càng nhàn. Vì càng đến đích người học càng nhìn thấy
rõ cái đích hơn. Cái đích ấy chẳng cần năng lực hoặc
năng lực chỉ là phần trăm không đáng kể. Lối học của
ta hiện nay về cơ bản vẫn là lối học "chi, hồ, giả, dã"
của ngàn năm phong kiến, một lối học mà cụ Ngô Đức Kế
đã kết tội làm cho "người ngu nước yếu".
2. "Ở bầu thì tròn, ở
ống thì dài"
Trên diễn đàn chính thống,
người ta vẫn đề cao các giá trị truyền thống cũng như
những giá trị hiện đại mới du nhập, thế nhưng trên thực
tế không phải như vậy. Mọi giá trị đã bị đảo lộn
nghiêm trọng. Cuộc sống đầy bất an, nhất là khi anh không
có tiền. Cho nên các giá trị trở thành giá trị suông, ở
đâu cũng thấy hiện tượng nói một đằng làm một nẻo.
Tại hội thảo Thực trạng văn hóa học đường và nhu
cầu giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học, GS.
Trần Ngọc Thêm đưa ra một kết quả khảo sát (năm 2008)
giật mình: tỷ lệ nói dối cha mẹ ở học sinh cấp 1 là
22%, cấp 2 là 50%, cấp 3 là 64% và sinh viên là 80% [1].
Vẫn GS. Trần Ngọc Thêm, trong một bài báo khác, ông công
bố một kết quả khảo sát đối với người lớn: bệnh
giả dối 81%, bệnh thành tích 75,1%, bệnh thiếu ý thức pháp
luật 68,2%. Và ông còn nói: "Có thể nói ngay rằng gần
như 100% người Việt hiện nay đều phải nói dối hoặc làm
giả một cái gì đó, vào một lúc nào đó. Vì rằng trong
thời buổi bây giờ, hoàn toàn trung thực thì khó mà sống
được, khó mà hoàn tất công việc được, kể cả trong nghiên
cứu khoa học" [2].
Trong cuộc tranh cãi ngoài hành
lang tại cuộc hội thảo nọ mà tôi có tham dự, có người
đưa ra câu hỏi: nhà trường dạy dỗ thế nào mà bây giờ
học sinh nói dối nhiều thế? Một vị PGS.TS học ở Mỹ về
lý giải: "Đừng hy vọng nhiều rằng văn hóa có thể dạy
được; văn hóa hình thành chủ yếu do tập nhiễm từ đời
sống".
3. Giáo dục không đổi mới
không được, mà đổi mới thì không xong
Trong những kỳ trả lời chất
vấn của Quốc hội, nhìn sang "người ta", nhiều bộ trưởng
cứ bình chân như vại, trả lời thế nào cũng xong, thậm
chí có khi được chủ tịch Quốc hội miễn trả lời, như
Bộ Công an chẳng hạn. Còn bộ trưởng của "ta" thì cứ như
phạm nhân phải ra vành móng ngựa. Mà thường ông bộ trưởng
GD – ĐT cũng coi mình là thủ phạm thật. Có lần một đại
biểu Quốc hội hỏi: Bộ trưởng nghĩ thế nào với con số
200.000 sinh viên thất nghiệp hiện nay? Điều này theo tôi chẳng
phải là trách nhiệm của Bộ GD – ĐT, nhưng ông Bộ trưởng
GD – ĐT cũng nhận là tội của giáo dục. Phiên chất vấn
Bộ trưởng giáo dục bao giờ cũng nhiều đại biểu đăng
ký nhất. Có lần (6/6/2018), 80 đại biểu đăng ký chất vấn
và tranh luận, đến nỗi bà Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị
Kim Ngân phải kêu lên "hệ thống máy chịu không nổi, bị
treo!"[3].
Tất nhiên ngành giáo dục lúc nào cũng có hàng tá yếu kém,
sai lầm. Nhưng xét ra ngành nào chẳng thế, sao chỉ giáo dục
hứng đòn nhiều nhất? Thực tình 20 năm qua, qua 4 đời bộ
trưởng tôi thấy không vị nào có đủ năng lực nhưng nhiều
khi cũng thấy họ thật đáng thương.
Có lần tôi đến thăm một
ông giáo về hưu trước dạy cùng trường, chưa kịp hàn huyên
gì thì ông đã bức xúc: "Này, sao các ông lại bỏ cho điểm
tiểu học?". "Dạ, học sinh còn bé, cho điểm gây ra nhiều
áp lực, bỏ cho điểm, thay bằng nhận xét cho nó nhẹ đi".
"Tiên tiến quái gì tao chả biết, chỉ thấy từ ngày bỏ
cho điểm, tao đ... dạy được cháu tao nữa". "Dạ, ở nhiều
nước là như thế, còn nước mình có khi chưa quen. Nền giáo
dục quyền uy ngự trị hàng ngàn năm rồi mà...".
Đó, thực tế giáo dục nước
ta vẫn là giáo dục quyền uy. Không thay đổi thì bị chửi,
mà thay đổi càng bị chửi. Thông tư 30 (bỏ đánh giá bằng
điểm với học sinh tiểu học) vừa ban hành 2014 thì 2016 đã
phải bổ sung bằng Thông tư 22, cho phép GV "được cho điểm"
kiểm tra định kỳ.
Trong mọi vấn đề của ngành
giáo dục thì chương trình và sách giáo khoa (SGK) luôn là điểm
nóng nhất.
Mỗi lần thay chương trình
và sách giáo khoa (không đồng nhất với cải cách giáo dục)
ít nhất là một lần thay đổi phương pháp dạy học, có
khi thay đổi cả tư tưởng (triết lý) giáo dục. Tất nhiên
là cũng tạo được những sự thay đổi nhất định, nhưng
chủ yếu là trong nhận thức, chứ thực tế kết quả còn
khá xa sự mong đợi. Tiếp thu ở định hướng, ở nguyên
lý thì ai cũng nói hay, nhưng đi vào cụ thể thì người làm
chương trình và SGK đều vừa làm vừa lo sợ. Có khi thấy
cái nọ cái kia ở nước người là hay đấy, nhưng ở ta chỉ
sợ xã hội phản ứng nên lại thôi.
4. Mấy "trận chiến" tiêu
biểu về chương trình và sách giáo khoa
a) Vụ phải thay bài về
tác gia Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
Bài viết về tác gia Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh trong sách Văn 12 được biên soạn
từ đầu thập niên chín mươi (GS. Nguyễn Đăng Mạnh viết)
là một bài hay, bỗng nhiên đến năm 1995, có một nhà thơ
khới ra để phê phán, thực chất là cố tình bẻ cong đi,
thế là bỗng nhiên thành bài "có vấn đề", cả học thuật
lẫn chính trị, Bộ GD – ĐT phải cấp tốc thay. Người viết
thay (GS. Hà Minh Đức) trong tình thế ấy thì ngay cả có tài
chăng nữa cũng chẳng còn tâm thế để viết. Hậu quả là
một bài nhạt phèo. Giáo viên dạy bài này phát chán, nhiều
người dùng bài cũ của thầy Nguyễn Đăng Mạnh. Mười bốn
năm sau (2009), bài của GS. Nguyễn Đăng Mạnh lại được lấy
lại.
b) Vụ Tiếng Việt lớp 1
(2002)
Trong cuộc thay SGK hồi 2002
(nay vẫn đang dùng), sách Tiếng Việt 1 vừa ra đã hứng
đòn dữ dội. Phải nói đó là trận đòn "hội chợ" chưa
từng thấy. Người ra đòn chủ yếu là các nhà văn, nhà báo
và cả một số nhà giáo, nhưng dữ đòn nhất là các nhà
văn. Đòn đánh chỉ tập trung vào mỗi chuyện học chữ E
trước. Họ cho rằng như thế là "đảo trật tự chữ cái".
Vị chủ biên lên cả truyền hình để giải thích cũng không
ăn thua gì, trái lại, càng bị đánh tiếp. Báo Văn nghệ,
đặc biệt là tờ Văn nghệ Trẻ, không mấy số không có
bài về "sách chữ E". Một nhà văn nọ còn bảo nay mai các
cháu tôi đi học về, thay vì chào ông bà, bố mẹ, nó chỉ
"kêu lên be be như con dê". Sự kết tội trùm lấp của báo
chí mạnh đến nỗi làm cho nhiều người (đều đã từng
qua lớp 1) tin rằng rằng "ngày xưa" học theo trật tự chữ
cái A, B, C. Miền Nam trước 1975 thế nào tôi không rõ chứ
ở miền Bắc suốt những năm sáu mươi trở đi chưa bao giờ
học chữ A trước. Những năm sáu mươi, bảy mươi, sách Học
vần cho lớp Vỡ lòng học bắt đầu chữ I và T (cho nên cũng
gọi là sách "I-tờ", lớp "I-tờ". Bắt đầu từ 1981, sách
Tiếng Việt lớp 1 CCGD của tác giả Nguyễn Thị Nhất học
bắt đầu chữ O. Tiếng nói của báo chí mạnh đến nỗi
người ta cũng tưởng trật tự A, B, C là một trật tự khoa
học, nhưng thực ra đó chỉ là một trật hoàn toàn quy ước,
không ai giải thích được lý do của nó. Và cho dù có lý
do đi nữa thì trật tự A, B, C của bảng chữ cái chẳng liên
quan gì đến việc học chữ nào trước chữ nào sau của chữ
Quốc ngữ. Việc học chữ nào trước chữ nào sau là do sự
lựa chọn của nhà sư phạm theo một quan điểm nào đó. Rút
cuộc, sau mấy năm ồn ào, "sách chữ E" vẫn được dùng và
dùng cho đến hôm nay.
c) Vụ môn Lịch sử trong
chương trình dự thảo
Hồi 2015, Bộ GD – ĐT đưa
một Dự thảo Chương trình tổng thể lên mạng để lấy
ý kiến rộng rãi. Chương trình này có cấu trúc mới cho môn
Lịch
sử. Cụ thể, lớp 4, 5 thì kiến thức lịch sử cùng với
địa lý hợp thành môn Tìm hiểu xã hội; đến THCS
thì kiến thức lịch sử và địa lý nằm trong môn
Khoa
học xã hội; đến THPT thì môn Khoa học xã hội
hoặc tách thành hai môn Lịch sử và Địa lý nếu
học sinh theo định hướng KHXH, hoặc vẫn là môn Khoa học
xã hội nếu học sinh theo định hướng KHTN. Cấu trúc
này hợp lý ở chỗ: ở các lớp dưới, các môn học mang
tính tổng hợp, lên các lớp trên thì một nhóm môn học được
chuyên sâu, những môn còn lại tiếp tục mang tính tổng hợp.
Như thế vừa giải quyết bề rộng, vừa giải quyết bề
sâu, tránh dàn hàng ngang như bấy lâu nay.
Suốt 3 tháng đưa lên mạng
bản Dự thảo không có nhiều ý kiến góp ý, nhưng rồi bỗng
Hội Sử học khới lên chuyện "sao lại bỏ mất môn Lịch
sử", thế là ào lên một làn sóng dữ dội, cả "lề phải"
lẫn "lề trái" tập trung lên án Bộ GD – ĐT "bỏ môn Lịch
sử". Có những ngôn từ cực sốc như khai tử môn sử,
môn sử biến mất, phá nát môn lịch sử, môn Lịch sử đang
đứng trước nguy cơ xóa sổ,... Bộ GD – ĐT tổ chức
một cuộc hội thảo mang tên "Môn Lịch sử trong giáo
dục phổ thông" nhưng báo chí lại tường thuật thành
hội thảo "Tích hợp giáo dục lịch sử, Giáo dục quốc phòng
an ninh và Giáo dục công dân hợp thành môn Công dân với Tổ
quốc trong chương trình giáo dục phổ thông mới". Thực
ra thì môn Công dân với Tổ quốc nằm hẳn trong một
hệ thống khác: hệ thống môn học cốt lõi của lĩnh vực
Giáo
dục đạo đức – công dân, trong khi môn KHXH
hoặc
Lịch sử, Địa lý nằm ở hệ thống các môn học cốt
lõi của lĩnh vực Giáo dục khoa học.
Chiều 27/11/2015, Quốc hội
thông qua nghị quyết yêu cầu "tiếp tục giữ môn học
Lịch sử trong chương trình, sách giáo khoa mới". Thật
nực cười vì có ai bỏ đâu mà phải giữ? Cuối cùng, như
ta thấy trong Chương trình chính thức (ban hành 12/2018), không
tích hợp kiến thức lịch sử và địa lý thành môn KHXH
nữa mà chỉ có môn Lịch sử và Địa lý (thực chất
vẫn là hai môn nhưng nằm chung trong một quyển sách).
Trên đây chỉ là vài câu chuyện
mà người viết bài chứng kiến. Người tâm huyết trong ngành
giáo dục hiện nay thật lúc nào cũng dở khóc dở cười.
Những cái khóc phải cười và những cái cười như mếu.
ÐTT (tháng 7/2020)
[1]
-https://tuoitre.vn/ti-le-noi-doi-gia-tang-theo-cap-hoc-570840.htm
[2]
-https://tuoitre.vn/benh-gia-doi-thoi-xau-dau-tien-can-loai-bo-717701.htm
[3]
-https://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/quoc-hoi/db-chat-van-bo-truong-phung
-xuan-nha-khien-may-tinh-cua-quoc-hoi-bi-treo-455201.html
|