Miền
Tây đồng bằng sông Cửu Long, không nơi nào thiếu vắng hình
ảnh cái giếng. Giếng nước miệt vườn được người dân
trân quí như một phần gia tài thiên nhiên mà trời cao ban
tặng cho làng xóm miền quê thôn dã. Vào những năm tháng xa
xửa xa xưa, khi đời sống còn thô sơ, nghèo nàn, nền văn
minh chưa xuất hiện. Con người chân chất chỉ biết cặm
cụi, cong lưng, bỏ công ra đào sâu địa điểm cho dấu hiệu
có thủy mạch. Phía dưới bề mặt của lớp vỏ đá sỏi
bao quanh quả địa cầu, thường xuất hiện làn nước ngầm
đang âm thầm miệt mài luân lưu. Dòng nước ẩn kín sâu thẳm
liên tục di động, xuyên suốt không gian xa lạ trong lòng trái
đất.
Nơi nào có
ruộng lúa thì mực nước luôn dâng trào lên miệng giếng.
Đó là luồng nước ngọt ngào từ các sông ngòi dài, rộng
thênh thang, làm xương sườn gầy dựng nên miền đồng bằng
phì nhiêu màu mỡ. Nước sông có đặc tánh là đi hoang, loang
tràn khắp nơi theo từng khe kẽ ruộng đồng. Cũng như, mạch
nước nho nhỏ âm thầm len lén vun đầy cái ao. Hoặc là, khi
gặp bất cứ cái giếng nào trên hành trình mình phiêu bồng.
Giếng lúc nào cũng êm thắm như cô nàng nhu mì, e thẹn mong
chờ anh Nước lãng tử từ miền xa xăm. Chàng trai yêu thiên
nhiên. ưa thích lang thang khắp bốn phương trời theo ước
nguyện, tang bồng hồ thỉ. Mỗi khi đi ngang qua vùng trời
nào đều ghé thăm cái bến đậu êm đềm. Cô nàng Giếng
ngoan hiền chờ đợi sẵn với nhiều gióng gánh treo móc đôi
thùng thiếc ở hai đầu. Người đứng bên trên vui cười,
thả
từng xô trống rỗng từ trên bờ đất cao.
Nước trong giếng sâu là lượng
nước ngọt ngào. Có nơi trong veo, có nơi pha chút phèn đục
do sình sệt hòa tan. Dân làng khi kéo xô nước lên, hai vai
oằn đôi gióng gánh, liền tất tả đi thoăn thoắt về đến
nhà. Vội vàng đổ ra, chứa trong thùng cao lớn, hoặc lu, hũ,
ảng bằng đất sét nung. Việc nấu nướng, tắm rửa, rất
cần lượng nước sạch trong. Họ thường dùng phèn chua, chà
sát vào vách ảng chứa để lóng phần sình ngầu đục này.
Lớp phèn vàng nâu từ từ lắng đọng dưới đáy, cho ta phần
nước sạch bên trên.
***
Dòng đời gẫy khúc bất chợt,
hàng trăm ngàn người trôi giạt xa quê, tưởng chừng xa luôn
cái giếng nước bình dị thân quen. Hình ảnh giếng nước
in sâu trong tâm khảm của những mảnh đời trốn chạy, rời
xa quê mẹ vào những đêm khuya thanh vắng mà không ai dám nói
lời từ giã. Cũng như không ai dám hẹn ngày trở về.
Nhưng may thay, khi đặt chân lên vòm trời tự do, tôi tìm thấy
cái giếng trên hòn đảo huyền thoại. Khúc quanh xa xứ đi
tìm vầng sáng cho tương lai, vài cái giếng nhân ái được
mọc lên trên đảo do thời cuộc. Giếng Bidong đã cho thuyền
nhân những xô nước ân tình trong thời gian quốc gia Mã Lai
mở cửa, dung chứa mấy trăm ngàn người rời xa quê hương
của mình. Họ chấp nhận mọi gian nguy, không ai biết được
ngày mai sống chết ra sao. Tấm thân tơi tả rã rời đến
xin tạm trú trên hòn đảo bao dung.
Những căn nhà sàn bằng cây
thô sơ, được dàn dựng sơ sài trong dáng vẻ xiêu vẹo. Tuy
ọp ẹp nhưng tình thâm luôn dành cho những con người được
trời cao cứu mạng, cho họ sống sót trong đường tơ kẽ
tóc, sau lần lặn hụp cưỡi sóng đại dương. Họ đã liều
mình trải qua một lần sinh tử, lênh đênh trên những cuộn
sóng bạc đầu. Chập chùng sóng vỗ ngày đêm, hung bạo gào
thét và luôn hăm he hù dọa nhấn chìm chiếc lá gỗ đầy
thương tích, tàn tạ tật nguyền. Quá thảm thương và tội
nghiệp!
***
Chiều chiều trên đảo xa xăm,
nhiều người túm năm tụm ba chung quanh miệng giếng. Người
thì xách nước lên xối tắm sau một ngày lặn lội bắt cá,
bán cho người quen loanh quanh, kiếm chút tiền mua tem thơ gởi
về gia đình. Nhiều chị gái ngồi giặt quần áo, không ngừng
xí xô và kể lể cho nhau nghe những chuyến ghe vừa cập bến
với những câu chuyện đầy thương tâm. Cũng như tình trạng
định cư của mình…
Nhắc đến hình ảnh chiều
tà trên Bidong, tôi chưa quên mẩu chuyện nho nhỏ về một
anh ở Nha Trang. Nhờ cách phát âm, tôi có thể đoán, vì anh
không có chất giọng Sài Gòn. Anh xăng xái kéo nước và mang
vào căn lều của anh đang trú ngụ. Thấy tôi đứng loay hoay,
chờ anh xong để tới phiên mình mượn cái thùng. Hơn nữa,
có lẽ anh nhìn thấy bộ dạng lá cỏ của tôi, chắc không
kham nổi thùng nước nặng trình trịch này đâu, khi phải
cần sức kéo lên. Anh lẹ làng cười giòn tan, và nói:
-
Chị cần nước không? Tôi xách cho chị vài thùng.
Tôi đang lơ ngơ nhìn bâng quơ,
bỗng nghe anh nói mà mừng trong bụng. Vì từ ngày lên đảo
tới giờ, tôi may mắn được các em trẻ ở chung chòi, xách
nước đầy lu cho tôi xài hoài. Hôm nay là lần đầu tiên,
tôi lui cui xách thử, xem sao.
-
Thiệt hả anh? Cám ơn anh nhiều nghe. Tôi chưa bao giờ
xách nước giếng lần nào trong đời hết.
Tôi ngồi gần cái bàn lụp
xụp trước căn lều, chăm chú coi anh kéo thùng nước lên.
Khi đổ đầy cái thùng lớn trong chòi của tôi xong, anh đứng
loanh quanh gần cái bàn. Trên gương mặt tươi vui in hằn nét
rạng rỡ, anh tía lia kể chuyện, anh bắt cá ra sao. Anh hâm
hở khoe:
-
Hôm nay tôi bắt nhiều cá lắm, kiếm được chút đỉnh dằn
túi. Tôi giữ lại hai con, chị đem một con về nấu ăn đi.
-
Anh biết bắt cá. Sao giỏi vậy? Nhưng tôi không biết
làm cá anh ơi!
-
Chị đừng lo, tôi làm sạch hết rồi. Tôi ở miền biển
mà chị. Ngày nào cũng tắm biển và bắt cá nên quen rồi.
Cũng nhờ tào lao chuyện trời
mây nước nên tôi mới biết anh ở Nha Trang. Cám ơn đời
cho tôi gặp những con người hiền lành, tánh tình cởi mở
vui vẻ với trái tim hiền hòa. Những ngày hít thở không khí
tự do trên hòn đảo nhân ái, hình như mọi người đã từng
trải qua cơn sinh tử với trùng khơi, đều có góc nhìn nhân
sinh quan quãng đại. Họ luôn trân quí bầu trời tự do, toại
nguyện mơ ước là mình khoác vào kiếp nhân sinh mới. Nhất
là, được uống từng giọt mật tình người chân thật.
Bề trên, trời cao linh thiêng
ban phước lành đã dang tay cứu mạng cho những con người
tay không tấc sắt, dám liều lĩnh cưỡi sóng đại dương
đi tìm tương lai. Biết bao quốc gia nhân ái cho chiếc ghe cây
bé nhỏ, có cơ hội hồi sinh, đổi đời. Thật là vô giá
và muôn vàn tri ân.
Cuộc đời không phải là
một cuộc đua. Nó là một hành trình để
chúng ta từng bước chiêm nghiệm ý nghĩa cuộc sống. Điều quan trọng không phải
là phần thưởng khi chúng ta đến đích mà chính là những
gì chúng ta cảm nhận được trên từng chặng đường đi
qua.
Xin chân thành cám ơn lời nói
ý
nghĩa,
quá tuyệt vời này !