Đây
là một trong "tứ đại danh lâu" ở Trung Quốc (ba tòa kia là
Đằng Vương các, Nhạc Dương lâu, Bồng Lai các).
Tục truyền xưa có một đạo
sĩ tu đắc đạo thành tiên, đã lên trời rồi nhưng vẫn
thi thoảng cưỡi hạc vàng về thăm lại cõi trần. Tiên Phí
Văn Vi đặc biệt ưa cảnh Trường Giang hùng vĩ ngoạn mục
nhìn từ một điểm cao gần bờ sông ở phía tây nam thành
Vũ Xương.(1) Năm 223, nơi đây dựng lên một cái lầu đặt
tên là Hoàng Hạc lâu.
Trong mười tám thế kỷ từ
bấy tới nay, đã xảy ra mười hai lần lầu bị thiêu hủy
rồi được phục dựng, thường mỗi lần xây lại, mỗi thêm
tầng, cao hơn. Do việc bắc chiếc cầu đầu tiên qua sông
Dương Tử năm 1957, Hoàng Hạc lâu hiện nay đứng cách vị
trí cũ khoảng một cây số.
Xét riêng vị trí trong văn
học cổ điển Trung Quốc thì giữa bốn tòa vừa nói, lầu
Hoàng Hạc là nổi bật nhất, nhờ đã có không biết bao nhiêu
văn thi nhân xưa tới thăm viếng. Trong vô số thơ đề vịnh,
phổ biến rộng rãi hơn cả là tác phẩm của Thôi Hiệu (704-754).
Lại tục truyền, một bận Lý Bạch (701-762) tới thăm lầu,
đã toan sáng tác nhưng đọc bài "Hoàng Hạc lâu" rồi vất
bút không làm.(2)
Trong "bức tranh" phong cảnh
đặc sắc của Thôi Hiệu có diễn biến thời gian. Lúc thi
nhân mới lên lầu, có lẽ đang là buổi trưa, trời xanh mây
trắng. Lúc nào đó, trời mưa, rồi mưa tạnh, cây cỏ còn
nước đọng rực rỡ hẳn lên dưới nắng xế. Thi nhân ngồi
mãi, ngồi đến tận khi nắng tắt, trên mặt nước hoàng
hôn dợn sóng đã thấy khói bay... Ngoại cảnh thay đổi đến
đâu, tâm trạng người ngắm chuyển theo đến đấy. Thoạt
tiên, ngước mắt trông mây nhớ tiên (vào thời điểm ấy
tiên coi như đã biệt tích). Rồi hạ tầm mắt ngắm cây bờ
cỏ bãi, có lẽ không nhớ gì. Rồi trông sóng khói trên sông,
chợt nhớ quê nhà, mắt thịt vẫn mở nhưng bây giờ chính
mắt lòng mới đang thấy nhiều hơn!
Nguyên văn
Tích nhân dĩ thừa hoàng
hạc khứ / Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu / Hoàng hạc
nhất khứ bất phục phản / Bạch vân thiên tải không du du
/ Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ / Phương thảo thê
thê Anh Vũ châu / Nhật mộ hương quan hà xứ thị / Yên ba
giang thượng sử nhân sầu.
Dịch nghĩa
Người xưa cưỡi hạc vàng
bay đi rồi / Nơi đây nay chỉ còn tòa lầu Hoàng Hạc / Hạc
vàng một bay không trở lại / Nghìn năm mây trắng vẫn lửng
lơ giữa trời / Sông tạnh nom rõ hàng cây trên đất Hán Dương
/ Cỏ thơm xanh tốt trên bãi Anh Vũ / Chiều xuống, quê nhà
không biết ở phương nào / Trên sông khói tỏa sóng gợn khiến
lòng buồn bã.
Dịch thơ
Bản 1:
Người xưa cưỡi hạc đi
rồi
Lầu xưa còn đứng giữa
đời, chơ vơ
Hạc về, chăng chỉ trong
mơ
Nghìn năm mây trắng xa đưa
chốn nào
Mưa ngưng, xinh quá một
bầu! (4)
Kìa cây "thắp nến", nọ
mầu cỏ tươi (5)
Hoàng hôn, lại nhớ quê
thôi
Bày chi sóng khói sông ơi,
não người!
Bản 2:
Hạc vàng vút tự muôn xưa
Lầu xây đón hạc còn trơ
chốn này
Hạc đi, về chẳng hẹn
ngày
Nghìn năm mây trắng vẫn
đầy bầu không
Tạnh mưa, "thắp nến" cây
sông
Bãi xa chen chúc xanh um cỏ
tràn
Chiều buông, sông khói mơ
màng
Lòng ai chợt thắt, bàng
hoàng: quê đâu!
Bản 3:
Lên tiên ai cưỡi hạc vàng
Trần gian để đứng lầu
Hoàng Hạc đây
Chẳng về đâu nữa, hạc
bay
Bầu không vẫn lửng lơ
mây như thời...
Sau mưa cây bến rạng ngời
Bãi xa biếc thắm vun đầy
cỏ thơm
Quê hương chạnh nhớ chiều
hôm
Sương giăng sóng dợn, sầu
lên ngút lòng!
Bản dịch thơ khác
Hạc vàng ai cưỡi đi đâu
Mà nay Hoàng Hạc riêng lầu
còn trơ
Hạc vàng đi mất từ xưa
Nghìn năm mây trắng bây
giờ còn bay
Hán Dương sông tạnh cây
bày
Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ
non
Quê hương khuất bóng hoàng
hôn
Trên sông khói sóng cho buồn
lòng ai. (Tản Đà)
Người xưa cưỡi hạc đã
lên mây
Lầu hạc còn suông với
chốn này
Một vắng hạc vàng xa lánh
hẳn
Ngàn năm mây bạc vẩn vơ
bay
Vàng gieo bên Hán, ngàn cây
hửng
Xanh ngắt châu Anh, lớp
cỏ dày
Trời tối quê nhà đâu
tá nhỉ?
Đầy sông khói sóng gợi
niềm tây! (Ngô Tất Tố)
Xưa hạc vàng bay vút bóng
người
Nay lầu Hoàng Hạc chút
thơm rơi.
Vàng tung cánh hạc đi đi
mãi
Trắng một màu mây vạn
vạn đời
Cây bến Hán Dương còn
nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai
chơi
Gần xa, chiều xuống, đâu
quê quán?
Đừng giục cơn sầu nữa
sóng ơi! (Vũ Hoàng Chương)
__________
(1) Thuộc Đông Ngô thời Tam
Quốc, nay là một quận trong thành phố Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc.
(2) Tuy không làm thơ vịnh lầu,
nhưng không biết vào dịp này hay dịp nào khác, Lý Bạch có
sáng tác "Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quản Lăng"
là một bài thơ chia tay bạn.
(3) Trong ba bản dịch thì hai
bản đầu dịch năm 2007 và sửa tháng 6/2020, còn bản thứ
ba là bản mới dịch thêm tháng 6/2020.
(4) Bích Câu kỳ ngộ:
"Cỏ hoa góp lại một bầu xinh sao!".
(5) "Nắng thủy tinh" của Trịnh
Công Sơn: "Ngàn cây thắp nến lên hai hàng...".
|