"Tỳ
bà hành" là bài hành nổi tiếng nhất trong văn học Trung Quốc.
"Hành" là gì?
Tra Đại từ điển tiếng
Việt, thấy đó là "bài thơ dài dùng làm lời cho bài
hát".(1) À, về kích thước thì quả "Tỳ bà hành" có đến
non 100 câu, "Yên ca hành" của Cao Thích 28 câu, "Lệ nhân hành"
của Đỗ Phủ 26 câu, "Binh xa hành" của Đỗ Phủ 35 câu, nhưng
các bài "Tòng quân hành" của Vương Xương Linh, "Trường Can
hành" của Thôi Hiệu, "Lũng Tây hành" của Trần Ðào, "Tòng
quân hành" của Lệnh Hồ Sở đều chỉ có bốn câu. Về mục
đích sáng tác, các bài hành dài dĩ nhiên đều là thơ cổ
phong, các bài ngắn thì có bài cổ phong có bài Đường luật,
nhưng bất kể làm theo thể nào thì cũng không thấy được
là có tiện làm lời cho bài hát hơn những bài thơ không phải
là hành.
Trang Mạng của Viện Hán Nôm
có đăng một bài nghiên cứu trong đó hành được hiểu hoàn
toàn khác. Đây tác giả cho rằng hành là bài thơ "thường
đề cập đến những vấn đề chung, những sự kiện mới
lạ, bất ngờ hay những đồng cảm tạo ấn tượng mạnh
mẽ; chủ thể trữ tình thường kể lại sự việc với tâm
trạng bức xúc, có thể bày tỏ thái độ, chính kiến; thể
thơ cổ phong thường được sử dụng để biểu đạt không
bị gò bó, ràng buộc".(2) Chúng tôi thấy ý kiến này xác
đáng.
*
"Tỳ bà hành" đứng đâu trong
cái định nghĩa rất dài vừa nêu? Nó sờ sờ ngay đằng sau
mấy chữ "đồng cảm tạo ấn tượng mạnh mẽ".
Nội dung của cái danh phẩm
ấy đại khái thế này: Một đêm thu mười mấy thế kỷ
trước ở đâu đó phía nam Trung Quốc, có một ông quan cưỡi
ngựa ra một cái bến sông tiễn một người bạn đã xuống
thuyền, sắp lên đường. Thời ấy bên Tàu bạn bè tiễn
nhau cẩn thận lắm. Tiễn gần, tiễn xa, bạn càng thân tiễn
càng xa. Điển hình, không phải người đi kẻ ở ngồi suông
với nhau, mà bày tiệc rượu, lý tưởng thì tiệc có cả
người đàn hát giúp vui. Nhưng vùng này rất đỗi quê mùa.
"Bác thông cảm vậy, ở đây chẳng tìm đâu ra ai biết đàn
biết hát". Hai người bạn ngồi uống rượu trong im lặng,
cũng đã say mà không thấy vui lên chút nào, bên ngoài thì
mặt sông mênh mông dầm trong ánh trăng bàng bạc, phút biệt
ly sắp tới buồn quá thể! Đúng lúc ấy, từ đâu bỗng vang
lại tiếng đàn tỳ bà! Tất nhiên là chủ khách lập tức
cho dời thuyền tìm đến đòi nghe. Nghe một hơi, mọi người
còn đang sững sờ vì hay quá, thì nghệ nhân đã lên tiếng
giãi bày tâm sự. Ông quan đi tiễn càng sững sờ: ôi, sao
mà đời nàng ta lại có nét giống đời mình vậy! Bèn xin
được nghe thêm. Thì đây thêm, mà lần này toàn một giọng
cực kỳ não nuột thôi, khiến quanh bàn tiệc ai nấy đều
vừa nghe vừa khóc. Khóc nhiều nhất, đến nỗi nước mắt
rơi ướt cả "áo xanh", là cái ông quan đã yêu cầu lượt
thứ hai.
Trong nội dung vừa kể, có
đến ba sự ngẫu nhiên.
Thuyền hai người bạn sắp
chia tay đỗ gần thuyền người danh kỹ thất thế là một
sự ngẫu nhiên. Sự kế tiếp là trong hai người, có một
ông quan đang buồn bã vô cùng vì năm ngoái bị giáng chức,
từ triều đình phải ra làm Tư mã ở Giang Châu xa xôi, hẻo
lánh. Hai sự ngẫu nhiên này khiến đêm ấy, nơi cái bến
Tầm Dương đìu hiu, ngoài tâm sự của chính người đàn,
cả tâm sự của một người nghe cũng được vô tình đàn
lên! Bỗng nhiên nghe lòng sầu của mình hóa nhạc, ai mà khỏi
giọt dài giọt ngắn... Sự ngẫu nhiên cuối cùng: "ai" đó
chính là Bạch Cư Dị. Kết quả là bao nhiêu lệ rơi xuống
đã hóa thành vần bay lên, còn mãi trong thơ đến tận bây
giờ!
Nguyên văn
Tầm Dương giang đầu dạ
tống khách / Phong diệp địch hoa thu sắt sắt / Chủ nhân
há mã khách tại thuyền / Cử tửu dục ẩm vô quản huyền
/ Túy bất thành hoan thảm tương biệt / Biệt thời mang mang
giang tẩm nguyệt / Hốt văn thủy thượng tỳ bà thanh / Chủ
nhân vong quy khách bất phát / Tầm thanh ám vấn đàn giả thùy?
/ Tỳ bà thanh đình dục ngữ trì / Di thuyền tương cận yêu
tương kiến / Thiêm tửu hồi đăng trùng khai yến / Thiên hô
vạn hoán thủy xuất lai / Do bão tỳ bà bán già diện / Chuyển
trục tỳ bà tam lưỡng thanh / Vị thành khúc điệu tiên hữu
tình / Huyền huyền yểm ức thanh thanh tứ / Tự tố bình sinh
bất đắc chí / Ðê mi tín thủ tục tục đàn / Thuyết tận
tâm trung vô hạn sự / Khinh lung mạn nhiên mạt phục khiêu
/ Sơ vi Nghê Thường hậu Lục Yêu / Ðại huyền tao tao như
cấp vũ / Tiểu huyền thiết thiết như tư ngữ / Tao tao thiết
thiết thác tạp đàn / Ðại châu tiểu châu lạc ngọc bàn
/ Gian quan oanh ngữ hoa để hoạt / U yết tuyền lưu thủy há
than / Thủy tuyền lãnh sáp huyền ngưng tuyệt / Ngưng tuyệt
bất thông thanh tạm yết / Biệt hữu u tình ám hận sinh /
Thử thời vô thanh thắng hữu thanh / Ngân bình sạ phá thủy
tương bỉnh / Thiết kỵ đột xuất đao thương minh / Khúc
chung trừu bát đương tâm hoạch / Tứ huyền nhất thanh như
liệt bạch / Ðông thuyền tây phảng tiễu vô ngôn / Duy kiến
giang tâm thu nguyệt bạch / Trầm ngâm phóng bát sáp huyền
trung / Chỉnh đốn y thường khởi liễm dung / Tự ngôn: "Bản
thị kinh thành nữ / Gia tại Hà Mô lăng hạ trú / Thập tam
học đắc tỳ bà thành / Danh thuộc giáo phường đệ nhất
bộ / Khúc bãi thường giao thiện tài phục / Trang thành mỗi
bị Thu nương đố / Ngũ Lăng niên thiếu tranh triền đầu
/ Nhất khúc hồng tiêu bất tri số / Ðiền đầu ngân bề
kích tiết túy / Huyết sắc la quần phiên tửu ố / Kim niên
hoan tiếu phục minh niên / Thu nguyệt xuân phong đẳng nhàn
độ / Ðệ tẩu tòng quân ai di tử / Mộ khứ triêu lai nhan
sắc cố / Môn tiền lãnh lạc xa mã hy / Lão đại giá tác
thương nhân phụ / Thương nhân trọng lợi khinh biệt ly / Tiền
nguyệt Phù Lương mãi trà khứ / Khứ lai giang khẩu thủ không
thuyền / Nhiễu thuyền nguyệt minh giang thủy hàn / Dạ thâm
hốt mộng thiếu niên sự / Mộng đề trang lệ hồng lan can"
/ Ngã văn tỳ bà dĩ thán tức / Hựu văn thử ngữ trùng tức
tức / "Ðồng thị thiên nhai luân lạc nhân / Tương phùng hà
tất tằng tương thức / Ngã tòng khứ niên từ đế kinh /
Trích cư ngọa bệnh Tầm Dương thành / Tầm Dương địa tịch
vô âm nhạc / Chung tuế bất văn ty trúc thanh / Trú cận Bồn
giang địa đê thấp / Hoàng lô khổ trúc nhiễu trạch sinh
/ Kỳ gian đán mộ văn hà vật / Ðỗ quyên đề huyết viên
ai minh / Xuân giang hoa triêu thu nguyệt dạ / Vãng vãng thủ
tửu hoàn độc khuynh / Khởi vô sơn ca dữ thôn địch / Ẩu
á trào triết nan vi thinh / Kim dạ văn quân tỳ bà ngữ / Như
thính tiên nhạc nhĩ tạm minh / Mạc từ cánh tọa đàn nhất
khúc / Vị quân phiên tác Tỳ bà hành" / Cảm ngã thử ngôn
lương cửu lập / Khước tọa xúc huyền huyền chuyển cấp
/ Thê thê bất tự hướng tiền thanh / Mãn tọa trùng văn giai
yểm khấp / Tựu trung khấp hạ thùy tối đa / Giang Châu tư
mã thanh sam thấp!
Dịch nghĩa
Bến Tầm Dương, ban đêm tiễn
khách / Lá phong, hoa lau, hơi thu se sắt / Chủ nhân xuống ngựa,
khách đợi dưới thuyền / Cùng nâng chén muốn uống mà thiếu
tiếng sáo, đàn / Nên say mà không vui, cuộc chia tay buồn thảm
/ Phút ly biệt, ánh trăng dầm mặt sông mênh mang / Chợt nghe
tiếng tỳ bà văng vẳng trên mặt nước / Chủ nhân quên về,
khách cũng quên chuyện rời bến / Tìm đến chỗ có tiếng
đàn hỏi xem người đàn là ai / Tiếng tỳ bặt, người đàn
muốn nói mà còn ngần ngại / Bèn cho dời thuyền đến gần,
xin được gặp mặt / Rót thêm rượu, thắp lại đèn, mở
lại tiệc / Mời mãi người đàn mới bước ra / Tay còn ôm
đàn che bớt nửa mặt / Dời trục, đàn dạo mấy tiếng /
Chưa thành khúc điệu gì cả, mà nghe đã có tình / Rồi từng
dây ấm ức, từng tiếng trăn trở / Như kể lể những chuyện
không được như ý trong đời / Mặt cúi, tay gẩy liên tục
/ Nói ra hết những điều chất chứa trong lòng / Nắn nhẹ,
vuốt chậm, xóa đi rồi lại khêu lên / Bắt đầu khúc Nghê
Thường, tiếp đến khúc Lục Yêu / Tiếng dây lớn rạt rào
như mưa sầm sập tới / Tiếng dây nhỏ tỉ tê như lời nói
chuyện riêng / Rạt rào, tỉ tê chen lẫn vào nhau / Như vô
số hạt châu lớn bé đang rơi xuống mâm ngọc / Như chim oanh
học nói ríu rít trong khóm hoa / Suối chảy ngập ngừng, nước
vẫn đổ xuống ghềnh / Nước suối bỗng hóa băng, dây đàn
bỗng thôi rung / Dây thôi rung, tiếng đàn tạm im / Nhưng tình
sâu hận kín lại hiện ra / Lúc im tiếng này lại nhiều tình
tứ hơn khi có tiếng / Thình lình, như bình bạc vỡ, nước
tuôn tung tóe / Như thiết kỵ ở đâu xông ra, đao thương xoang
xoảng / Ðàn xong, rút gẩy, phẩy mạnh xuống giữa mặt đàn
/ Bốn dây vang lên một tiếng như xé lụa / Đông tây thuyền
mảng lặng phắc / Chỉ thấy trăng thu trắng ngời giữa lòng
sông / Người đàn thẫn thờ cài cái gẩy vào dây đàn / Xốc
sửa áo quần, khép nép đứng dậy / Kể lể: "Em vốn là con
gái chốn kinh thành / Nhà ở dưới gò Hà Mô / Mười ba tuổi
đã học thành thạo đàn tỳ bà / Tên đứng vào hàng đầu
trong phường hát / Cứ biểu diễn xong, các nghệ nhân khác
đều trầm trồ / Còn trang điểm xong, ả Thu thường phải
phát ghen / Bọn thiếu niên ở Ngũ Lăng tranh nhau tặng thưởng
/ Mỗi khúc đàn được tặng vô số tấm lụa hồng / Hoa vàng
lược bạc đem gõ nhịp gẫy tan / Chiếc quần lụa đỏ hoen
ố những vết rượu rơi / Cuộc vui kéo dài từ năm này qua
năm khác / Trăng thu gió xuân, lúc nào cũng thong dong / Bỗng
đâu người em phải đi lính, dì lại mất / Chiều qua sớm
lại, nhan sắc tàn phai / Trước cửa vắng người thưa xe /
Tuổi đã lớn, đành nhận lời làm vợ một khách buôn / Chồng
ham lợi, coi thường biệt ly / Tháng trước đã đi Phù Lương
mua chè / Một mình nơi cửa sông trông giữ chiếc thuyền trống
/ Quanh thuyền trăng sáng, sông nước lạnh lùng / Ðêm khuya
nằm chợt mơ lại tuổi xuân / Mộng rồi khóc, lệ ướt má
phấn, đỏ hoe mắt" / Ta nghe tiếng đàn đã muốn than thở
/ Giờ biết chuyện người đàn càng thấy ngậm ngùi: / "Ta
với nàng cùng cảnh bên trời lận đận / Gặp nhau đây, cứ
gì phải sẵn quen nhau / Ta năm ngoái từ giã kinh đô / Bị
giáng, nằm bệnh ở cái thành Tầm Dương này / Ðất Tầm
Dương hẻo lánh, làm gì có âm nhạc / Suốt năm ta không được
nghe tiếng sáo, đàn / Nhà ở gần sông Bồn, đất ẩm thấp
/ Quanh nhà chỉ có lau úa, tre rài / Ở đó sớm tối nghe những
thứ tiếng gì? / Nào tiếng cuốc khắc khoải, nào giọng vượn
nỉ non / Sớm hoa sông xuân nở, đêm trăng thu tròn / Thường
chỉ một mình nâng chén, dốc chén / Há chẳng có điệu ca
xứ núi, tiếng sáo đồng quê / Ngặt sao đều lô lô líu líu
khó nghe / Tối nay được thưởng thức tiếng tỳ của nàng
/ Chẳng khác nhạc tiên, làm tai như bừng mở / Xin đừng cáo
lui, hãy ngồi lại đàn thêm khúc nữa / Vì nàng ta sẽ viết
một bài hành lấy tên Tỳ Bà" / Cảm lời ta, người ấy đứng
lặng hồi lâu / Rồi ngồi xuống, lên dây đàn cách gấp gáp
/ Lần này tiếng đàn buồn bã khác hẳn lần trước / Khiến
ai nấy đều che mặt mà rơi nước mắt / Trong đám, ai rơi
nhiều lệ nhất? / Quan tư mã Giang Châu áo xanh ướt đẫm!
Dịch thơ (3)
Ðêm thu bến nước tiễn
nhau
Rừng phong hiu hắt bãi lau
bơ sờ
Người xuống ngựa kẻ
ngồi chờ
Chung nâng hiềm nỗi lặng
trơ trường đình (4)
Say mong khuây khỏa, không
thành
Biệt ly sóng bạc trăng
dầm, buồn sao
Rẽ ràng chợt bắt buông
đâu (5)
Người đi kẻ ở trông
nhau ngỡ ngàng
Tỳ bà! Nghe những bàng
hoàng
Như mơ mà thật, hãy còn
tơ rung!
Thuyền dời tìm đến vui
chung
Ðèn khêu rượu rót mặt
mừng chờ hoa
Vị lời mời mọc thiết
tha
Cao bưng kín nửa đàn ra
bước hờ
Dây so mấy tiếng lưa thưa
Tứ cầm chưa giãi tình
tơ đã bày
Nhạc đâu, đời chính là
đây
Từng cung tấm tức, từng
dây nghẹn ngào
Nhập thần vẫy khúc chiêm
bao
Nhất sinh tâm sự tuôn trào
đầy không
Nhặt, khoan, bắt bắt, buông
buông
Lục Yêu tiếp đến Nghê
Thường liền tay
Khi to rào rạt mưa bay
Lại khi lất phất lay phay
mưa lòng
Nhỏ, to chen gẩy vào trong
Hạt châu lớn bé mâm bồng
đua rơi
Lúc oanh lo líu chẳng ngơi
Lúc khe nước hóa bọt sôi
cuối ghềnh
Rét đâu đông đứt dây
mành
Tơ đang rung bỗng chỉ tằm
trơ trơ
Ðàn im, hận khác vẻ đi
Không đàn, tình tứ hơn
khi có đàn!
Bỗng như bình bạc vỡ
tan
Bỗng như xung sát qua can
trận tiền
Khúc chung, tay phất mặt
đàn
Bốn dây một tiếng lụa
vang xé trời
Ðông tây thuyền mảng rụng
rời
Ðêm thu còn chỉ trăng ngời
giữa sông!
Gẩy cài thờ thẫn cáo
xong
Chỉnh trang khép nép cởi
lòng mấy câu:
"Đế đô xa cách đã lâu
Vốn xưa thị tứ hồng
lâu cũng gần
Tuổi mười ba học đã
thuần
Tỳ bà đệ nhất danh cầm
một phương
Đàn lên tài tử đều kiêng
Điểm trang xong, mặt chị
em trĩu hờn
Bốc rời công tử đòi
cơn
Lụa tung kín đất kim ngân
lóa trời
Quỳnh tương rót rót vơi
vơi
Hồn xiêu dáng ngả ngớn
rơi ố hồng
Mai gió mát, tối trăng trong
Xuân đi ai ngỡ xuân không
trở về
Dì, em bỗng chốc chia lìa
Nhớ thương hôm sớm lụy
bề dung nhan
Héo hoa ai kẻ ngó ngàng
Trăm năm kiếm chút bạn
đàng cho xong
Chồng tham buôn bán tây
đông
Vợ đang lòng để bên sông
dật dờ
Thuyền đơn bóng lẻ chơ
vơ
Nước trôi trăng dõi gối
trơ lạnh lùng
Trở trăn mơ lại tuổi
xuân
Lệ trong mộng ứa rơi lăn
má đời"
Tiếng tỳ nghe đã than ôi
Giờ thêm chuyện kể rã
rời lòng ai:
"Cùng thân đất khách lạc
loài
Dẫu chưa quen biết cũng
coi cựu tình
Ta từng quan chốn đế kinh
Sa cơ phải giáng náu mình
Tầm Dương
Một thân nằm bệnh viễn
phương
Ðàn hay sáo ngọt vấn vương
thôi đành
Nhà ta lau úa mọc quanh
Tre gầy mấy bụi chẳng
xanh chẳng vàng
Sớm chiều rặt tiếng kêu
than
Lúc quyên khắc khoải khi
mang lạc bầy
Xuân hoa thu nguyệt hằng
khi
Chén nâng chén cạn cũng
thì mình thôi
Hát ca kể cũng có người
Lô lô líu líu vắng thời
lại hơn
Hữu duyên kỳ ngộ diệu
âm
Nhiệt tình danh kỹ cảm
ân muôn vàn
Ban rồi liệu nữa lại
ban?
Vì ai xin viết nên trang
Tỳ Bà"
Muốn rời, chạnh cảm lòng
ta
Trục xoay dây đọ nghe ra
cấp kỳ
Tơ rung khéo não nuột chi
Khắp quanh chiếu tiệc lệ
thi ứa giàn
Đau lòng nhất, một ông
quan
Áo xanh hứng lụy chan chan,
ướt đầm!
Bản dịch thơ khác
Bến Tầm Dương canh khuya
đưa khách
Quạnh hơi thu, lau lách đìu
hiu
Người xuống ngựa, khách
dừng chèo
Chén quỳnh mong cạn, nhớ
chiều trúc ti
Say những luống ngại khi
chia rẽ
Nước mênh mông đượm
vẻ gương trong
Ðàn ai nghe vẳng bên sông
Chủ khuây khỏa lại, khách
dùng dằng xuôi
Tìm tiếng sẽ hỏi ai đàn
tá?
Dừng dây tơ nấn ná làm
thinh
Dời thuyền ghé lại thăm
tình
Chong đèn, thêm rượu, còn
dành tiệc vui
Mời mọc mãi, thấy người
bỡ ngỡ
Tay ôm đàn che nửa mặt
hoa
Vặn đàn mấy tiếng dạo
qua
Dẫu chưa nên khúc, tình
đà thoảng hay
Nghe não nuột mấy dây buồn
bực
Dường than niềm tấm tức
bấy lâu
Mày chau tay gẩy khúc sầu
Dãi bầy hết nỗi trước
sau muôn vàn
Ngón buông, bắt khoan khoan
dìu dặt
Trước Nghê Thường sau
thoắt Lục Yêu
Dây to nhường đổ mưa
rào
Nỉ non dây nhỏ khác nào
chuyện riêng
Tiếng cao thấp lựa chen
lần gẩy
Mâm ngọc đâu bỗng nẩy
hạt châu
Trong hoa oanh ríu rít nhau
Nước tuôn róc rách, chảy
mau xuống ghềnh
Nước suối lạnh, dây mành
ngừng đứt
Ngừng đứt nên phút bặt
tiếng tơ
Ôm sầu, mang giận ngẩn
ngơ
Tiếng tơ lặng ngắt, bây
giờ càng hay
Bình hạc vỡ tuôn đầy
dòng nước
Ngựa sắt giong, xô xát
tiếng đao
Cung đàn trọn khúc thanh
tao
Tiếng buông xé lụa, lựa
vào bốn dây
Thuyền mấy lá đông tây
lặng ngắt
Một vầng trăng trong vắt
lòng sông
Ngậm ngùi đàn bát xếp
xong
Áo xiêm khép nép hầu mong
giãi lời
Rằng: "Xưa vốn là người
Kẻ Chợ
Cồn Hà Mô trú ở lân la
Học đàn từ thuở mười
ba
Giáo phường đệ nhất
chỉ đà chép tên
Gã Thiện Tài sợ phen dừng
khúc
Ả Thu Nương ghen lúc điểm
tô
Ngũ Lăng, chàng trẻ ganh
đua
Biết bao the thắm chuốc
mua tiếng đàn
Vành lược bạc gẫy tan
dịp gõ
Bức quần hồng hoen ố
rượu rơi
Năm năm lần lữa vui cười
Mải trăng hoa chẳng đoái
hoài xuân thu
Buồn em trảy, lại lo dì
thác
Sầu hôm mai đổi khác hình
dong
Cửa ngoài xe ngựa vắng
không
Thân già mới kết duyên
cùng khách thương
Khách trọng lợi khinh đường
ly cách
Mải buôn chè sớm tếch
nguồn khơi
Thuyền không, đậu bến
mặc ai
Quanh thuyền trăng dãi, nước
trôi lạnh lùng
Ðêm khuya, sực nhớ vòng
tuổi trẻ
Chợt mơ màng dòng lệ đỏ
hoen"
Nghe đàn ta đã chạnh buồn
Lại rầu nghe nỗi nỉ non
mấy lời:
"Cùng một lứa bên trời
lận đận
Gặp gỡ nhau lọ sẵn quen
nhau
Từ xa kinh khuyết bấy lâu
Tầm Dương đất trích gối
sầu hôm mai
Chốn cùng tịch lấy ai
vui thích
Tai chẳng nghe đàn địch
cả năm
Sông Bồn gần chốn cát
lầm
Lau vàng trúc võ âm thầm
quanh hiên
Tiếng chi đó nghe liền
sớm tối
Cuốc kêu sầu, vượn hót
véo von
Hoa xuân nở, nguyệt thu
tròn
Lần lần tay chuốc chén
son ngập ngừng
Há chẳng có ca rừng, địch
nội
Giọng líu lo, buồn nỗi
khó nghe
Tỳ bà nghe dạo canh khuya
Dường như tiên nhạc gần
kề bên tai
Hãy ngồi lại gẩy chơi
khúc nữa
Sẽ vì nàng soạn sửa bài
ca"
Ðứng lâu dường cảm lời
ta
Lại ngồi lựa phím đàn
đà kíp dây
Nghe não nuột khác tay đàn
trước
Khắp tiệc hoa sướt mướt
lệ rơi
Lệ ai chan chứa hơn người?
Giang Châu Tư Mã đượm
mùi áo xanh. (Phan Huy Vịnh hay Phan Huy Thực)
__________
(1) Nguyễn Như Ý (chủ biên),
Đại
từ điển tiếng Việt, nxb. Văn Hóa – Thông Tin, 1999.
(2) Triều Nguyên, "Ý nghĩa của
ca, ngâm, hành, từ, khúc trong nhan đề thơ cổ", trang hannom.org.vn.
(3) Chúng tôi dịch thơ năm
2007. Tháng 4-2020, đọc lại, có sửa mấy câu ở phần mở
đầu. Câu 3-10 vốn dịch như sau: "Người xuống ngựa kẻ
dừng đò / Chung nâng muốn cạn ngại trơ trường đình / Biệt
ly vắng tiếng phách sênh / Đìu hiu trăng dãi mông mênh sóng
sầu / Rẽ ràng chợt bắt buông mau / Kẻ đi người ở trông
nhau ngỡ ngàng / Tỳ bà! tiếng ấy đâu sang? / Tay tiên ai gẩy
nên vàng tơ rung...". Chẳng biết sửa có hơn không?!
(4) "Trường đình" là cái trạm
cách mười dặm. Tiễn nhau mà đến trường đình là tiễn
xa. Bến Tầm Dương chắc khá xa nhà quan Tư mã, có thể xem
là một thứ trường đình. Khách ra đó trước, chủ ra sau,
cũng như khi Vương Duy tiễn Mạnh Hạo Nhiên (bài "Tống biệt"
2).
(5) "Rẽ ràng" là "nhỏ nhẹ,
nhưng rành mạch". Đây chúng tôi hình dung trong đêm thanh vắng,
tiếng đàn tuy không lớn nhưng nghe rất rõ. |