"NGŨ
PHỤNG" XỨ QUẢNG
Khoa
thi năm Mậu Tuất 1898, niên hiệu Thành Thái thứ X, triều
đình Huế tuyển được 8 tiến sĩ (TS) cùng 9 phó bảng (PB).
Trong tổng số 17 vị này, nếu phân định theo sinh quán thì:
Thái Bình, Hà Nam, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị - mỗi tỉnh
có 1 người; Bắc Ninh và Thừa Thiên - mỗi nơi có 2 người;
Nghệ An có 3 người; đặc biệt tỉnh Quảng Nam có tới 5
người đỗ đạt. Dân Quảng tôn vinh thành tích đáng quý
kia bằng mấy chữ 五鳳齊飛 / ngũ phụng tề phi.
Vậy 5 nhân vật
ấy là ai? Thành tích và công trạng ra sao?
Về 5 vị đại
khoa đang xét, thư tịch bấy lâu ghi chép hoặc thiếu tường
minh, hoặc chưa thống nhất. Thậm chí ngay trong một cuốn
sách cũng chứa những mâu thuẫn đáng ngờ. Công trình sưu
khảo Khoa cử và các nhà khoa bảng triều Nguyễn do Trung
tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế chủ trì (NXB Thuận Hoá,
Huế, 2000) đều ghi "chưa rõ hành trạng" đối với hầu hết
nhân vật được gọi "ngũ phụng" xứ Quảng. Bộ sách Quảng
Nam - đất nước và con người do Nguyễn Q. Thắng biên
soạn (NXB Văn Hoá Thông Tin tái bản, Hà Nội, 2001) ghi rằng
thân phụ của TS Phạm Liệu là danh thần Phạm Hữu Nghi (tr.
490) và thân phụ của TS Phan Quang là cử nhân Phan Văn Thuật
(tr. 514), song lại viết rằng cháu nội của Phạm Hữu Nghi
là TS Phạm Liệu (tr. 226) và Phan Văn Thuật có cháu nội là
TS Phan Quang (tr. 236). Thật khó hiểu làm sao!
1.
TS Phạm Liệu
Tự là Tăng Phố
và Sư Giám. Sinh năm Quý Dậu 1873. Người làng Trừng Giang,
tổng Hoà Đa Thượng, huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn;
nay thuộc xã Điện Trung, huyện Điện Bàn. Năm Giáp Ngọ 1894,
thi đỗ cử nhân. Năm Mậu Tuất 1898, đỗ đệ tam giáp đồng
TS xuất thân và lưu lại Huế học tiếng Pháp tại quán Tứ
Dịch. Năm Tân Sửu 1901, được bổ làm tri huyện Đông Sơn
rồi tri phủ Nga Sơn ở Thanh Hoá. Năm Ất Tị 1905, làm chủ
sự Bộ Hình rồi chủ sự Quốc sử quán ở kinh đô. Năm
Mậu Thân 1908, niên hiệu Duy Tân thứ II, làm tri huyện Phù
Cát ở Bình Định. Năm Nhâm Tý 1912, làm viên ngoại phụ chánh
Viện Cơ mật, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Khoa thi TS năm
Quý Sửu 1913, làm quan duyệt quyển (1)
cùng với Nguyễn Thiện Hành - biện lý Bộ Học. Hai năm sau,
được thăng hàm Hồng lô tự khanh, làm phó chủ khảo trường
thi Hương tại Nghệ An. Trải qua nhiều chức trọng quyền
cao nơi triều chính, như tham tri Bộ Công và tham tri Bộ Lại,
đến năm Kỷ Tị 1929 còn được bổ làm thượng thư Bộ
Binh.
Năm Quý Dậu 1833,
vua Bảo Đại cải tổ nội các, bãi nhiệm cùng lúc 5 thượng
thư, gồm: Phạm Liệu - Bộ Binh; Nguyễn Hữu Bài - Bộ Lại;
Tôn Thất Đàn - Bộ Hình; Võ Liêm - Bộ Lễ; Vương Tứ Đại
- Bộ Công. Sự việc đó thường được dân chúng truyền
tụng qua bài thơ thất ngôn bát cú của Hoài Nam Nguyễn Trọng
Cẩn (1897-1947):
Năm trụ khi không
rớt cái ình!
Đất bằng sóng
dậy xứ Thần Kinh.
Bài không
đeo nữa, xin dâng Lại,
Đàn nỏ
ai nghe, khéo dở Hình.
Liệu thế
không xong Binh chẳng được,
Liêm đành
giữ tiếng Lễ đừng rinh.
Công danh
thôi thế là hưu hĩ,
Đại sự
xin nhường lớp hậu sinh.
Phạm Liệu về
hưu tại quê nhà và mất ngày 21/11/1936 nhằm ngày 8 tháng 10
năm Bính Tý. Sách Khoa bảng Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn
do
Phạm Ngô Minh và Trương Duy Hy hợp soạn (NXB Đà Nẵng, 1995)
ghi thời điểm TS Phạm Liệu lìa trần đúng ngày tháng vừa
kể, nhưng lùi lại một năm: Đinh Sửu 1937.
Một trong những
người con của TS Phạm Liệu là nhà thơ tài hoa bạc mệnh
Phạm Hầu (1920-1944) từng được Hoài Thanh và Hoài Chân giới
thiệu trong tập Thi nhân Việt Nam rằng: "Ở giữa đời,
Phạm Hầu là một cái bóng, chân đi không để dấu trên đường
đi".
2.
TS Phan Quang
Tự là Quế Nam.
Sinh năm Quý Dậu 1873. Người làng Phước Sơn Thượng, tổng
Xuân Phú Trung, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình; nay thuộc xã
Quế Châu, huyện Quế Sơn. Là bạn đồng niên, đồng môn,
đồng song, đồng khoa với TS Phạm Liệu: cùng học trường
Đốc tại Quảng Nam, cùng đỗ cử nhân năm Giáp Ngọ 1894
tại trường thi Thừa Thiên, cùng đỗ đệ tam giáp đồng
TS xuất thân năm Mậu Tuất 1898 rồi cùng lưu lại Huế luyện
Pháp văn tại quán Tứ Dịch. Năm Tân Sửu 1901, được bổ
làm tri huyện Lệ Thuỷ rồi tri huyện Bố Trạch ở Quảng
Bình. Sau nhiều năm làm quan luân chuyển qua các địa phương
duyên hải miền Trung, đến năm Bính Dần 1926 được điều
về kinh đô làm thị lang rồi tham tri Bộ Hình. Ấy là lúc
Bảo Đại vừa lên ngôi. Năm Canh Ngọ 1930, về hưu. Năm Kỷ
Mão 1939, mất tại quê nhà.
TS Phan Quang có 7
anh chị em ruột thì 4 anh em trai đều thuộc nòi thi thư: anh
là tú tài Phan Xáng, em là tú tài Pham Ấm và cử nhân Phan
Vĩnh.
Con trai của TS Phan
Quang có nhà giáo kiêm nhà sử học Phan Khoang (1906-1971) được
nhiều người biết qua tác phẩm Việt sử xứ Đàng Trong
(NXB
Khai Trí, Sài Gòn, 1969; NXB Văn Học tái bản, Hà Nội, 2001)
và nhà báo kiêm nhà văn Phan Du (1915-1983).
3.
TS Phạm Tuấn
Vốn tên Phạm Tấn,
sau đổi thành Phạm Trọng Tuấn, rồi Phạm Tuấn. Tự là
Hỷ Thần. Hiệu là Văn Luân. Sinh năm Nhâm Tý 1852. Người
làng Xuân Đài, tổng Phú Khương Thượng, huyện Diên Phước,
phủ Điện Bàn; nay thuộc xã Điện Quang, huyện Điện Bàn.
Năm Mậu Dần 1878, niên hiệu Tự Đức XXXI, đỗ tú tài và
năm kế tiếp đỗ cử nhân.
Theo Khoa bảng
Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn (sđd), từ năm Ất Dậu
1885, Phạm Tuấn đã ra Huế thi Hội rồi thi Đình đều trúng
cách, song chưa kịp truyền lô (lễ tuyên chỉ của hoàng đế
chính thức công nhận học vị) thì xảy ra sự biến thất
thủ kinh đô và vua Hàm Nghi xuất bôn. Chiếu luật lệ, kết
quả thi khoa ấy bị huỷ. Phạm Tuấn lĩnh chức bang tá phủ
Điện Bàn, rồi được bổ làm huấn đạo Quế Sơn quyền
nhiếp tri huyện Hà Đông (Tam Kỳ), đến năm Bính Thân 1898
thì làm giáo thụ phủ Thăng Bình ở tỉnh nhà. Cũng theo sách
vừa dẫn, năm Mậu Tuất 1898, Phạm Tuấn dự thi Hội lần
thứ nhì (?) và đỗ đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân
nên bà con gọi "ông nghè nhị khoa tiến sĩ". Bấy giờ, Phạm
Tuấn đã 46 tuổi, hơn Phạm Liễu và Phan Quang những 21 tuổi.
Tôi cho rằng sự
kiện này cần xem xét lại. Bởi các trường hợp trúng tuyển
khoa thi Ất Dậu 1885 đều được đặc cách cho vào thi Đình
ngay khoa kế tiếp, gồm khoa Kỷ Sửu 1889 và khoa Nhâm Thìn
1892. Tại sao Phạm Tuấn chẳng ứng thí? Giả thuyết vì lý
do nào đó trở ngại, mãi 13 năm sau mới tái đăng khoa, tất
ông
cũng được miễn thi Hội mà chỉ thi Đình.
Năm Kỷ Hợi 1899,
Phạm Tuấn được bổ làm thừa biện Bộ Lễ. Năm Nhâm Thân
1902, làm thị giảng học sĩ. Năm Mậu Thân 1908, làm đốc
học Hà Tĩnh, hàm Quang lộc tự thiếu khanh. Năm Quý Sửu 1913,
về hưu, được thăng hàm Hồng lô tự khanh. Năm Tân Tị 1917,
tạ thế tại quê nhà.
4.
PB Ngô Truân
Còn gọi Ngô Chuân,
Ngô Trân và Ngô Lý. Chào đời năm Quý Dậu 1873. Quê làng
Mông Lãnh, tổng Phú Xuân, huyện Quế Sơn, phủ Thăng Bình.
Do gia cảnh bần hàn, cha lại mất sớm, nên phải cùng thân
mẫu qua ngụ cư làng Cẩm Sa, tổng Thanh Quýt, huyện Diên Phước,
phủ Điện Bàn; nay thuộc xã Điện Nam, huyện Điện Bàn.
Năm Giáp Ngọ 1894,
đỗ cử nhân. Năm Mậu Tuất 1898, đỗ PB. Kế đó, được
bổ làm tri huyện Thạch Hà ở Hà Tĩnh. Thế nhưng, chẳng
may lâm trọng bệnh, Ngô Truân yểu tử lúc đương chức vào
năm Kỷ Hợi 1899. Trong tập I Những con chim phụng đất
Quảng (Hội Khuyến học Quảng Nam - Đà Nẵng ấn hành,
1992), nhà giáo ưu tú Huỳnh Trảng viết rằng Ngô Truân nguyên
là học trò của hoàng giáp Phạm Như Xương (1844-1917) và Ngô
Truân mất khi làm tri huyện Can Lộc ở Hà Tĩnh, được nha
môn tẩm liệm tử tế, đoạn tức tốc đưa về làng Cẩm
Sa để mai táng.
5.
PB Dương Hiển Tiến
Sinh năm Bính Dần
1866. Người làng Cẩm Lậu (còn gọi Cẩm Lũ), tổng Thanh Quýt,
huyện Diên Phước, phủ Điện Bàn; nay thuộc xã Điện Phong,
huyện Điện Bàn. Năm Tân Mão 1891, đỗ cử nhân. Năm Mậu
Tuất 1898, đỗ PB. Năm 1907, Dương Hiển Tiến lâm bệnh thương
hàn và mất ở quê nhà.
MẤY
NHẬN XÉT
Nhìn lại sự kiện
"ngũ phụng tề phi", nhà cách mạng nổi tiếng của Quảng
Nam là Huỳnh Thúc Kháng (2)
đã tỏ ý tiếc rẻ vì 5 vị đại khoa kia không lưu lại sự
nghiệp chính trị, quân sự, kinh tế hoặc văn hoá sáng giá
cho đời.
Nối tiếp quan điểm
của tiền nhân, "nhà Quảng Nam học" Nguyễn Văn Xuân bày tỏ
ý kiến trong cuốn Quảng Nam - Đà Nẵng xưa và nay (NXB
Đà Nẵng, 1996): "Ba TS, hai PB cùng đỗ một khoa thi thì cũng
đúng là 'năm con phượng cùng bay'. Nhưng trong việc học, bằng
cấp cao đến đâu cũng chỉ đánh dấu sự khởi đầu. (...)
Điều quan trọng nhất của việc học hành, chính là đậu
để làm gì? Năm nhà đại khoa đó có sự nghiệp chính trị,
văn hoá, học thuật nào? Tôi không thấy. Vậy ta nên coi đó
là giai thoại giúp cho các bạn trẻ phấn chấn hơn trong việc
học hành. Học giỏi, đậu cao, phụng sự đất nước, có
sự nghiệp xứng đáng là điều đáng quý, đáng trân trọng,
noi gương".
Dẫu sao, "ngũ phụng
tề phi" là chuyện hoàn toàn có thật và mang ý nghĩa giáo
dục tích cực nhất định. Ngay sau khoa thi năm Mậu Tuất 1898,
tỉnh
Quảng Nam hân hoan đón 5 tân khoa thì riêng phủ Điện Bàn
đã sung sướng rước 4 vị.
Vấn đề đặt
ra: thực chất, khoa thi ấy có gì cần chú ý?
KHOA
THI NĂM MẬU TUẤT 1898
Công trình nghiên
cứu Khoa bảng Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn (sđd)
viết về Phạm Liệu: "Đặc biệt trong kỳ thi khoa Mậu Tuất
1898, ông là người đứng thứ nhì trong toàn khoa, đứng thứ
nhất trong bảng danh sách đệ tam giáp, đứng đầu danh sách
trong 5 sĩ tử Quảng Nam đỗ đại khoa". Cũng sách ấy viết
về Ngô Truân: "Trong khoa thi Hội này, ông đứng thứ 9/17 đối
với toàn khoa, nhưng là người đứng đầu danh sách, tức
1/9 PB".
Lối diễn đạt
như thế e dễ gây hiểu lầm về trình độ học lực của
17 tân khoa thuở nọ. Để nắm chính xác vấn đề, thiết
tưởng bạn đọc thời nay nên biết vài quy định được
áp dụng trong khoa cử tại nước ta kể từ Thành Thái nguyên
niên, tức năm Kỷ Sửu 1889.
Phần đông thí
sinh đã thi Hương đỗ cử nhân, cùng hàng ngũ cống sinh, ấm
sinh, tôn sinh (3) đã đỗ
tú tài rồi được giáo quan Quốc tử giám sát hạch và xếp
hạng (ưu hoặc bình) thường nô nức lều chõng trẩy kinh
vào các năm triều đình mở thường khoa, ân khoa, hoặc chế
khoa (4). Thi Hội gồm bốn
trường. Từng sĩ tử được định đỗ hay hỏng sau khi ban
giám khảo xét duyệt toàn bộ bốn quyển thi theo tiêu chí:
- Tổng điểm cả
bốn trường từ 8 trở lên là chánh trúng cách.
- Tổng điểm cả
bốn trường từ 7 trở xuống mà không trường nào bất cập
phân (bị điểm liệt, tức dưới 1 điểm) là thứ trúng cách.
Nếu có một trường bất cập phân nhưng tổng điểm ba trường
đạt 8 trở lên cũng thứ trúng cách.
Chánh lẫn thứ
trúng cách đều được tập trung ở nhà Tả và Hữu Vu, hai
bên điện Cần Chánh, để tham dự điện thí, còn gọi thi
Đình. Kết quả đỗ điện thí được phân làm 6 hạng từ
cao xuống thấp:
1. Đệ nhất giáp
TS cập đệ đệ nhất danh: 10 điểm.
2. Đệ nhất giáp
TS cập đệ đệ nhị danh: 9 ~ 8 điểm.
3. Đệ nhất giáp
TS cập đệ đệ tam danh: 7 ~ 6 điểm.
4. Đệ nhị giáp
TS xuất thân: 5 ~ 4 điểm.
5. Đệ tam giáp
TS xuất thân: 3 điểm.
6. PB: 2 ~ 1 điểm.
Với những quyển
tuy chấm 1 hoặc 2 điểm, nhưng sau khi ráp phách, nếu xét thấy
văn tạm ổn thì có thể nâng lên hàng đệ tam giáp TS xuất
thân. Thông thường, trường hợp may mắn này hay dành cho thí
sinh đã chánh trúng cách. Còn quyển nào quá kém phải loại
ra hạng bất cập phân, đánh hỏng.
Ở khoa thi Mậu
Tuất 1898, quan duyệt quyển gồm thị lang Tôn Thất Thiểm
và tế tửu Quốc tử giám Khiếu Năng Tĩnh, quan độc quyển
gồm đông các điện đại học sĩ Trương Quang Đản và hiệp
tá đại học sĩ Hoàng Hữu Xứng.
Sau bốn trường
thi Hội năm Mậu Tuất 1898, duy nhất cử nhân Nguyễn Tự Như
(gốc Quảng Trị) đạt 8 điểm, đủ tiêu chuẩn chánh trúng
cách. Thấy vậy, quan trường bèn tâu xin và được vua đồng
ý gia ân cho 2 thí sinh đạt 7 điểm xếp vào loại chánh trúng
cách: Nguyễn Văn Trình (Hà Tĩnh) cùng Phạm Tuấn. Trường
hợp đặc biệt là Bùi Thức (Hà Nam) bị bất cập phân một
trường, song tổng điểm ba trường lại đạt 11 điểm dẫu
có một bài thơ... lạc vận! Theo tài liệu Khoa cử và các
nhà khoa bảng triều Nguyễn (sđd), Bùi Thức được phép
điện thí nhưng bị đặt riêng một quy chế ngặt nghèo: "Nếu
thi Đình được 3 hoặc 4 điểm thì chỉ cho xếp hạng PB;
nếu đỗ 5 hoặc 6 điểm mới đỗ hạng chánh bảng; còn nếu
quyển thi chỉ được 1 điểm thì phải trở về nguyên tịch
cử nhân".
Rốt cuộc, thi Đình,
trong loại chánh trúng cách, Nguyễn Văn Trình được 2 điểm,
Nguyễn Tự Như và Phạm Tuấn mỗi người 1 điểm. Cả ba
đều lọt vào chánh bảng, hạng đệ tam giáp đồng TS xuất
thân. Trong loại thứ trúng cách, Bùi Thức vẫn giành điểm
cao nhất: 6 điểm. Tuy nhiên, xem kỹ quyển thi, thấy dòng "thần
cẩn đối" cuối bài bị sơ ý bỏ sót chữ "cẩn" nên họ
Bùi đành chịu xếp cuối hạng đệ tam giáp tiến sĩ xuất
thân. Nhiều người thuở ấy lấy làm tiếc cho Bùi Thức vì
lẽ ra ông xứng đáng đỗ thủ khoa với hạng đệ nhất giáp
tiến sĩ cập đệ đệ tam danh – tương đương học vị thám
hoa thời Lê. Bởi thế, vị trí đình nguyên thuộc về người
có số điểm cao thứ nhì là Đào Nguyên Phổ (Thái Bình):
5 điểm, hạng đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân, tục gọi
hoàng giáp.
Cũng trong loại
thứ trúng cách, Nguyễn Quý Song (Nghệ An) cùng Phạm Liệu
và Phan Quang mỗi người đều được 3 điểm nên đỗ đồng
hạng đệ tam giáp TS xuất thân. Nguyễn Viết Tuyên (Nghệ
An) và Ngô Truân mỗi người được 2 điểm, cùng đỗ PB.
Bảy trường hợp còn lại, mỗi người được 1 điểm, đều
xếp hạng PB, gồm: Nguyễn Duy Thắng (Quảng Bình), Nguyễn
Thiện Kế (5) (Bắc Ninh),
Nguyễn Đạo Quán (Hải Dương), Nguyễn Văn Đàm (Thừa Thiên),
Nguyễn Đức Đàm (Nghệ An), Trần Đình Bá (Thừa Thiên) và
Dương Hiển Tiến.
Từ khoa thi này,
nhờ tấu trình của đại thần Cao Xuân Dục (1842-1923), vua
Thành Thái phê chuẩn việc ban áo mão và cấp ngựa trạm cho
các vị PB vinh quy bái tổ. Riêng điển chế có từ đời Minh
Mạng là không khắc danh tính PB vào bia TS dựng ở Văn Miếu
thì vẫn được giữ. Do đó, ngày nay tham quan di tích lịch
sử - văn hoá ở Huế mà dân chúng cố đô quen gọi Văn Thánh,
du khách thấy tấm bia đá Hoàng triều Thành Thái thập niên
Mậu Tuất khoa TS đề danh bi chỉ khắc tên tuổi 8 vị
chánh bảng – từ Đào Nguyên Phổ đến Bùi Thức – mà thôi.
"MIỀN
NGŨ PHỤNG" LÀ TỈNH THÀNH NÀO?
Sách Khoa cử
và giáo dục Việt Nam do Nguyễn Q.Thắng biên soạn (NXB
Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1993) cho rằng: "Khoa Mậu Tuất 1898
tỉnh Quảng Nam có 5 thí sinh đều trúng kỳ thi Hội và thi
Đình nên được vua Thành Thái (1979-1854) ban tấm biển ghi
4 chữ Ngũ phụng tề phi (Năm con phụng cùng bay) nhằm chúc,
tặng cho các sĩ tử nói chung và học trò đất Quảng thuở
ấy học giỏi".
Sách Khoa bảng
Quảng Nam dưới thời nhà Nguyễn (sđd) thì viết: "Cả
5 ông (Phạm Liệu, Phan Quang, Phạm Tuấn, Ngô Trân, Dương Hiển
Tiến) được tổng đốc Quảng Nam lúc bấy giờ là Đào Tấn
và đốc học Quảng Nam là Trần Đình Phong tặng cho bức trướng
có 4 chữ Ngũ phụng tề phi và cũng từ đó người ta ưu ái
gọi Quảng Nam là miền ngũ phụng".
Cùng một sự kiện,
soạn giả của hai cuốn sách đều là người Quảng Nam mà
đã trình bày khác hẳn nhau và chẳng hề nêu chứng cứ cụ
thể. Hỏi người đọc biết tin sách nào?
Ví bỏ công truy
tầm, hậu thế sẽ biết rằng "ngũ phụng tề phi" nguyên là
điển cố xuất phát tại Trung Hoa thời nhà Đường (618-907).
Hán
Việt từ điển của Đào Duy Anh ghi vắn tắt: "Đời Đường
thi tiến sĩ, có một khoa nọ, bảng tiến sĩ từ thứ nhất
đến thứ năm đều là người văn tài trỗi hơn cả nước,
người đời tán tụng cho là 5 con chim phụng cùng bay với
nhau".
Cũng có tài liệu
ghi rằng "ngũ phụng tề phi" là tích từ thời nhà Tống (960-1279),
xuất phát bởi câu thơ Ngũ phụng tề phi nhập hàn lâm
do
Hồ Mông sáng tác để mừng 5 người cùng quê quận Lư Lăng
được đồng thời nhậm chức hàn lâm học sĩ.
Linh hoạt vận dụng
điển cố kia để ngợi ca địa phương có 5 sĩ tử cùng lúc
đỗ đại khoa, nếu chỉ giới hạn phạm vi trong lịch sử
khoa cử Việt Nam giai đoạn vương triều Nguyễn – xét từ
khoa thi tiến sĩ đầu tiên vào năm Nhâm Ngọ 1822 đời Minh
Mạng đến khoa thi tiến sĩ cuối cùng vào năm Kỷ Mùi 1919
đời Khải Định – thì tôi cũng chứng minh được rằng:
"ngũ phụng tề phi" quả là thành tích quý song chẳng...
hiếm lắm. Trải nhiều kỳ thi Hội lẫn thi Đình, bao tỉnh
thành trên đất nước ta không chỉ "ngũ phụng tề phi" mà
mấy phen còn xuất sắc "lục phụng tề phi", thậm chí cả
"thất phụng tề phi" nữa.
Chẳng hạn niên
hiệu Thiệu Trị thứ nhất, khoa Tân Sửu 1841, Hà Nội có
4 thí sinh đỗ TS gồm Ngô Điền, Bùi Tuấn, Trần Vỹ, Vũ
Văn Lý, cùng 1 thí sinh đỗ PB là Vũ Tá An (người huyện Gia
Lâm, trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, nay thuộc ngoại thành Hà
Nội). Niên hiệu Thiệu Trị thứ IV, khoa Giáp Thìn 1844, Thừa
Thiên đỗ 2 TS Huỳnh Công Thịnh và Trần Hữu Thuỵ cùng
4 PB Lê Văn Phổ, Lê Thiều, Phạm Văn Tường, Trần Công Soạn.
Niên hiệu Tự Đức thứ IV, khoa Tân Hợi 1851, Thừa Thiên
tiếp
tục đỗ 3 TS Thân Trọng Tiết, Nguyễn Thế Trâm, Hoàng Văn
Tuyển, cùng 2 PB Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Đình Tuân. Niên
hiệu Tự Đức XVIII, thường khoa lẫn chế khoa Ất Sửu 1865,
Hà
Nội lại đỗ 1 TS Nguyễn Tuyên, 1 nhã sĩ Nguyễn Phiên,
3 PB Thành Ngọc Uẩn, Bùi Văn Quế và Bùi Văn Tự (6).
Niên hiệu Tự Đức XVIII, khoa Ất Hợi 1875, Nghệ An đỗ
4 TS Đỗ Hữu Chính, Đinh Nho Điển, Đinh Văn Chất, Phan Du,
cùng 1 PB Hồ Bá Ôn. Niên hiệu Thành Thái thứ nhất, khoa Kỷ
Sửu 1889, cũng Hà Nội đỗ 3 TS Nguyễn Viết Bình, Nguyễn
Trung Khuyến, Nguyễn Khuê, cùng 2 PB Nguyễn Tích Trù và Nguyễn
Hoan (7)(thời ấy huyện Bình
Lục thuộc tỉnh Hà Nội, nay thuộc tỉnh Hà Nam). Niên hiệu
Thành Thái thứ VII, khoa Ất Mùi 1895,
Nghệ An đỗ 5 PB
Hoàng Mậu, Đặng Nguyên Cẩn, Vương Đình Trân, Nguyễn Văn
Chấn và Cao Xuân Tiếu (8).
Niên hiệu Thành Thái thứ IX, khoa Đinh Mùi 1907, Nghệ An
đỗ
2 TS Nguyễn Đức Lý, Trần Đình Tuấn, cùng 3 PB Nguyễn Thúc
Doanh, Nguyễn Thạc Tính, Phan Duy Phổ. Niên hiệu Duy Tân thứ
IV, khoa Canh Tuất 1910, Nghệ An lại đỗ 2 TS Vương Hữu
Phu, Bùi Hữu Tuỵ, cùng 5 PB Lê Trọng Phan, Nguyễn Thúc Hiên,
Nguyễn Cừ, Lê Xuân Mai, Phan Vũ.
Rõ ràng, Nghệ An
là tỉnh độc chiếm 2 kỷ lục: 4 đại khoa với số người
thi đậu từ 5 trở lên, trong đó có lần 7 sĩ tử đỗ đạt
cùng lúc. Như thế, có thể nói:
* Miền ngũ phụng:
Hà Nội và Quảng Nam.
* Miền lục phụng:
Thừa Thiên.
* Miền thất
phụng: Nghệ An.
Ắt một số bạn
đọc "hơi bị" ngạc nhiên trước những cứ liệu nêu trên.
Có thể do bạn ít tài liệu tham khảo, hoặc tham khảo tài
liệu nhưng ít quan tâm thống kê và đối chiếu. Gặp dịp
về Huế thăm di tích Văn Thánh để xem pho "sách đá" gồm
32 tấm bia TS (9), hay chỉ
cần tra cứu vài ấn phẩm liên quan được công bố gần đây
như Các nhà khoa bảng Việt Nam do Ngô Đức Thọ chủ
biên (NXB Văn Học, Hà Nội, 1993), Khoa cử và các nhà khoa
bảng triều Nguyễn (sđd), v.v., bạn dễ dàng kiểm chứng
loạt thông tin mà tôi vừa trưng dẫn.
Qua đó, mọi người
hẳn nhất trí nhận định: cùng với đất Quảng, trên toàn
quốc còn nhiều tỉnh thành xứng đáng là "miền ngũ phụng".
Sẽ không ngoa khi phát biểu:
- Nếu biết tích
cực phát huy truyền thống hiếu học và học giỏi, rộng
hơn nữa là chu đáo phát hiện, bồi dưỡng và trọng dụng
nhân tài, thì cả Việt Nam hoàn toàn đủ khả năng cất cánh...
"đa phụng tề phi". ♥
____________
(1)
Mỗi
kỳ thi Đình, hệ thống quan trường gồm nhiều người, trong
đó có 2 viên quan độc quyển (đọc bài thi). Từ năm Bính
Tuất 1826, niên hiệu Minh Mạng thứ VII, lại có thêm 2 viên
quan duyệt quyển. Bài thi sau khi rọc phách, quan duyệt quyển
chấm trước, quan độc quyển chấm sau.
(2)
Huỳnh
Thúc Kháng (1876-1947) còn có tên Huỳnh Hanh, tự Giới Sanh,
hiệu Mính Viên, quê làng Thạnh Bình, nay thuộc huyện Tiên
Phước. Huỳnh Thúc Kháng cùng Nguyễn Đình Hiển, Phan Châu
Trinh, Lê Bá Trinh là 4 thí sinh gốc Quảng Nam đỗ đầu bảng
kỳ thi Hương năm 1900, niên hiệu Thành Thái XII, nên được
dư luận khen là "tứ tuyệt". Sau đó, Huỳnh Thúc Kháng đỗ
tiến sĩ khoa Giáp Thìn 1904, niên hiệu Thành Thái XVI.
(3)
Cống sinh: học trò giỏi các tỉnh xét hạch đạt kết quả
tốt và cấp lương ăn học để thi tiến sĩ. Ấm sinh: con
quan lại. Tôn sinh: họ hàng với vua.
(4)
Ân
khoa: kỳ thi được tổ chức không theo thời gian quy định
trước, mà mở nhân trong nước có chuyện mừng. Chế khoa:
kỳ thi với đề do vua ban, nhằm kén chọn nhân tài đặc biệt.
(5)
Em
ruột của Nguyễn Thiện Thuật.
(6)
Bùi
Văn Tự còn gọi Bùi Văn Dị tức Bùi Ân Niên (1833-1895) về
sau được đặc cách sắc tứ học vị đệ tam giáp đồng
tiến sĩ xuất thân vào năm Canh Dần 1890, niên hiệu Thành
Thái thứ II. Từng làm phó tổng tài Quốc sử quán, thuợng
thư bộ Lại, phụ chính đại thần. Khi Bùi Văn Tự mất,
bạn ông là Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835-1909) phúng
điếu bằng cặp đối hóm hỉnh thâm trầm:
Ngư ky cựu phố,
hoa sơ lạc;
Long bảng tân
bi, thạch vị đài.
Tạm dịch:
Bến cá bàn xưa,
hoa đã rụng;
Bảng rồng bia
mới, đá chưa rêu.
(7)
Con của thi sĩ Nguyễn Khuyến.
(8)
Con
của đại thần Cao Xuân Dục, thân phụ của giáo sư Cao Xuân
Huy, ông nội của giáo sư Cao Xuân Hạo.
(9)
Kết
quả 2 khoa tiến sĩ Mậu Tuất 1898 và Tân Sửu 1901 được
khắc chung 1 bia, dựng trong khuôn viên di tích Văn Thánh ở
Huế. Về khoa Mậu Tuất, bia ghi:
Hoàng triều Thành
Thái thập niên Mậu Tuất khoa tiến sĩ đề danh bi
Tứ đệ nhị giáp
tiến sĩ xuất thân nhất danh
Đào Nguyên
Phổ
Toạ giám cử
nhân. Niên canh Tân Dậu, tam thập bát tuế. Thái Bình tỉnh,
Thái Ninh phủ, Quỳnh Côi huyện, Đồng Trực tổng, Thượng
Phán xã
Tứ đệ tam giáp
đồng tiến sĩ xuất thân thất danh
Phạm Liệu
Tòng tỉnh cử
nhân. Niên canh Quý Dậu, nhị thập lục tuế. Quảng Nam tỉnh,
Điện Bàn phủ, Diên Phước huyện, Đa Hoà Thượng tổng,
Trừng Giang xã
Phan Quang
Tòng tỉnh cử
nhân. Niên canh Quý Dậu, nhị thập lục tuế. Quảng Nam tỉnh,
Thăng Bình phủ, Quế Sơn huyện, Xuân Phú Trung tổng, Phước
Sơn Thượng xã
Nguyễn Quý
Song
Giáp Ngọ khoa
cử nhân. Niên canh Giáp Tý, tam thập nhị tuế. Nghệ An tỉnh,
Anh Sơn phủ, Nam Đàn huyện, Xuân Liễu tổng, Xuân Liễu xã
Nguyễn Văn
Trình
Toạ giám ấm
sinh cử nhân. Niên canh Nhâm Thân, nhị thập thất tuế. Hà
Tĩnh tỉnh, Đức Thọ phủ, Can Lộc huyện, Độ Liêu tổng,
Kiệt Thạch xã, Kỳ Trúc thôn
Phạm Tuấn
Thăng Bình phủ
giáo thụ. Cử nhân xuất thân. Niên canh Nhâm Tý, tứ thập
thất tuế. Quảng Nam tỉnh, Điện Bàn phủ, Diên Phước huyện,
Phú Khương Thượng tổng, Xuân Đài xã
Nguyễn Tự
Như
Tuy An phủ Dực
thiện. Cử nhân xuất thân. Niên canh Canh Thân, tam thập cửu
tuế. Quảng Trị tỉnh, Triệu Phong phủ, Do Linh huyện, An Xá
tổng, Hà Thượng xã
Bùi Thức
Bính Tuất khoa
cử nhân. Niên canh Kỷ Mùi, tứ thập tuế. Hà Nam tỉnh, Lý
Nhân phủ, Thanh Liêm huyện, Mễ Tràng tổng, Châu Cầu xã
Đã
đăng tạp chí Thế Giới Mới
số
510 (28/10/2002) & 511 (4/11/2002)
Văn
Thánh Miếu ở TP Hội An, tỉnh Quảng Nam.
Ảnh:
Phanxipăng
Bia
2 khoa tiến sĩ Mậu Tuất 1898 và Tân Sửu 1901
tại
Văn Thánh / Văn Miếu ở Huế.
Ảnh:
Phanxipăng
Phanxipăng
viếng mộ TS Phạm Liệu
tại
thôn Xuân Đài, xã Điện Quang, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam.
Ảnh:
Phan Thanh Đà Hải
|