Lương
Sinh, người Tú Thuỷ là một người nhát gan, nhưng hễ rượu
vào là trở nên mạnh dạn, không còn sợ sệt nữa.Bình nhật,
Sinh truyện trò với người quen thường rụt dè e lệ như
con gái chưa chồng. Nhưng rượu, hễ uống hơi quá chén một
chút, thì lập tức rút kiếm chém xuống mặt đất, cất tiến
hát rất là bi tráng khảng khái. Coi như không có ai bên cạnh.
Vì thế, người ta mới bảo
Sinh là một tay cuồng rượu.
Đến tuổi trung niên 中年,
vợ Sinh qua đời, Sinh phải ở goá, cũng tính muốn lấy người
vợ khác, nhưng gấp quá, chưa tìm được ai .
Một tối, Sinh cùng bạn bè
ăn nhậu, men ngà ngà hơi say, có người đùa bảo với Sinh
:
-Đệ nghe nói quan Thái Thú
có người con gái mới mười lăm tuổi mà bị chết yểu,
diện mạo rất xinh đẹp, đến nay quan tài vẫn còn quàn ở
trong miếu Ngũ Thánh Từ. Những đêm trăng thanh gió mát, cô
ta vẫn thường hiện lên, huynh goá vợ đã lâu,sao không tìm
đến mà xin cưới !
Sinh lúc đó cũng đã hơi chếnh
choáng, bèn đứng ngay dậy đáp " Xin tuân lệnh ! ", rồi cười
nói tiếp :
-Nhưng các huynh phải làm mối
đấy nhá. Đệ không từ chối đâu ! Mời các huynh ngày mai
mang rượu đến đó để chúc mừng hôn lễ.
Nói xong, đi ra.
Mấy người bạn đều vỗ
tay tán thưởng, cho rằng làm gì có chuyện người con gái
con quan Thái Thú hiện hình, Sinh có đến đó cũng chẳng hề
gì.
Sinh lần theo bóng trăng, nghiêng
nghiêng ngả ngả mà bước. Đến cửa miếu thì đã quá nửa
đêm, Sinh sợ bị người ông từ coi miếu bắt gặp, bèn leo
qua bức tường thấp mà vào. Vốn đã biết quan tài của người
con gái đặt ở phía tây hành lang, chàng thẳng bước đi tới.
Gió đêm lạnh buốt, như kim đâm vào cốt tuỷ, làm Sinh hơi
tỉnh men rượu. Trong bụng đâm ra sợ hãi. Lùi lại .Tính
tháo chạy. Thình lình, Sinh ngửi thấy mùi rượu thơm phức
bốc lên. Chàng lần theo hơi rượu đi tới.Chàng thấy ngay
dưới hành lang có một vò rượu mở nút đặt sẵn để đấy.
Chàng cầm lên. Tớp một tớp .Mùi rượu thơm phưng phức
.Bất giác say mèm. Trong cơn say, chàng chợt nhớ đến việc
đi hỏi vợ, bèn tiến đến chỗ hành lang có đặt quan tài
của người con gái, rồi dùng tay gõ lên quan tài gỗ, miệng
nói :
-Tẩu sinh là kẻ bất tài,
trung niên táng thê, chưa có đám nào, nghe nói nàng thường
xuất hiện rong chơi, xin cho kẻ hèn này gặp mặt một lần
được không ?
Sinh thấy trong quan tài vẫn
im ắng, lặng thinh, không ai trả lời.
Bèn cười , nói :
-Té ra, khanh đã hoá ra "
gỗ khô tro tàn " (枯 木死灰 khô mộc tử hôi) không sống
lại được nữa, ta cũng chẳng nên quyến luyến lâu ở đây
làm gì.
Rồi ,xoay người muốn bỏ
về.
Nhưng chân chàng bị mềm nhũn
ra, té khuỵu xuống, chợt nghe có nói dịu dàng, êm ái từ
trong quan tài phát ra :
-Lang quân ! Chờ thiếp một
chút đã.Thiếp ra ngay.
Tiếng nói chưa dứt, lại nghe
một âm thanh khác vang lên.
Đã thấy một người con gái
hiện ra đứng bên cạnh Sinh.Chàng thấy tướng mạo của người
con gái ấy, trông bệnh hoạn, vàng vọt như mầu đất, xương
xẩu gầy guộc, trông nhận không ra hình người.
Nàng quơ tay một như một tên
ma cà bông, ôm chắc lấy Sinh. Khí lạnh từ người nàng thấm
vào cơ thể chàng, buốt đến tận xương tuỷ.Trong cơn say,
Sinh chẳng sợ hãi gì, không tránh né, mà chỉ kêu to lên rằng
:
-Ôi ! Bằng hữu lừa ta rồi.
Khanh đâu có giống như lời họ nói.
Bèn hất tay đẩy mạnh người
con gái ra .
Người con gái chưng hửng,
mặt đỏ lên e lệ, một hồi lâu mới nói :
-Chàng vốn là kẻ háo sắc,thiếp
chỉ có vò rượu ngon, tặng không, mời chàng uống !
Nói xong hậm hực bỏ đi. Trong
quan tài lại nghe có tiếng kêu như bò rống.
Sinh sợ toát mồ hôi, không
cần phải dùng nước lạnh rửa mặt mà cũng tỉnh lại, lật
đật tháo chạy. Về đến nhà thì mệt đừ, vào giường
nằm.
Sáng hôm sau, các bạn bè của
Sinh đem rượu đến thăm, hỏi xem hôn lễ có của chàng có
vui không.
Sinh bối rối, xua tay ngăn lại,
nói :
-Xin các huynh đừng nhắc lại
nữa, các huynh suýt giết đệ vì chuyện đó.
Rồi đem việc xẩy ra, cặn
kẽ thuật lại cho bạn bè nghe. Nhưng bạn bè chẳng ai chịu
tin, hò nhau kéo đến ngôi miếu để kiếm nghiệm lại hư
thực.
Khi đến nơi, họ thấy chiếc
áo quan người con gái Thái Thú bị nứt ra khoảng chừng một
thốn. Nhìn kỹ. Quả nhiên đúng như lời Sinh kể.
Họ đều sợ hãi. Lè lưỡi.Quay
trở về.
Sinh từ đấy, cũng thôi không
uống rượu, nhờ thế, không còn điên cuồng nát rượu như
trước nữa.
(Paris ngày 17 tháng 01 năm
2017-lúc 10h16-Phạm Xuân Hy)
CHÚ THÍCH
Trường Bạch Hạo Ca Tử
長白浩哥子
Cũng còn gọi là Hạo Ca
Tử,là một tác giả gốc Mãn Châu đời Càn Long, tên họ
thật và đời sống bất tường.Nhưng theo "Bát Kỳ Nghệ Văn
Biên Mục" ghi chú thì Huỳnh Song Dị Thảo do Khánh Lan người
Mãn Châu soạn.
Khánh Lan tên chữ là Tự
Thôn,là một văn sĩ nghèo,từng giao thiệp với văn học gia
nổi tiếng đương thời là Viên Mai.Tuy sống âm thầm không
được ngừơi đời biết đến,nhưng phụ thân ông là Doãn
Kế Thiện là một đại thần nổi tiếng của Thanh triều,lịch
nhậm các chức Tuần Phủ,Tổng Đốc, sau đến Văn Hoa Điện
Đại Hoc Sĩ kiêm Quân Cơ Đại Thần.
Tác phẩm "Huỳnh Song Dị
Thảo" gồm có một trăm ba mươi tám truyện ngắn,viết theo
lối văn ngôn.
Mặc dầu mô phỏng theo phong
cách của Bồ Tùng Linh trong Liêu Trai Chí Dị, nhưng Huỳnh
Song Dị Thảo không phải là không có nhưng tác phẩm ưu tú,tư
tưởng và nghệ thuật tương đối cao.Cốt truyện thường
có khuynh hướng đề cao nam nữ tự do luyến ái,và đả kích
cái lễ giáo của phong kiến hủ bại,nên từ lâu đã được
độc giả hoan nghênh ưa thích.
Một số truyện trong Huỳnh
Song Dị Thảo đã được chúng tôi phiên dịch và in trong Hậu
Liêu Trai và Thiếp Bạc Mệnh trước đây.
Thái Thú
太守
Tên gọi một chức quan.
-Nhà Tần đặt chức Quận
Thú, trông chủ quản mọi việc hành chánh trong một quận..
-Đến đời Cảnh Đế nhà
Hán, thì đổi Quận Thú là Thái Thú, là vị quan đứng đầu
coi việc hành chánh một quận, trật nhị thiên thạch.( Thái
Thú đầu tiên của quận Giao Chỉ là Thạch Đới, do Hán Võ
Đế phái đến).
(Đời Thuận Đế nhà Đông
Hán, toàn quốc có 105 quận, số huyện của mỗi quận không
đều nhau)
-Đời nhà Tùy đổi quận
ra là châu, đặt quan Thứ Sử đứng đầu coi một châu.
-Đời Đường lại đổi
châu thành quận, thì vị trưởng quan là Thái Thú.Sau đó lại
đổi là châu, thì lại goị là Thứ Sử.
-Đời Tống đổi quận làm
phủ hoặc là châu, vì thế cũng gọi là tri phủ, hay tri châu,
là thái thú.
Trung niên
中年
Trung niên chỉ người ở
tuổi khoảng 40 đến 50. Ở lớp tuổi này phần nhiều là
người đã kết hôn, và có con cái, kinh nghiệm từng trải,
trí thức phong phú.
-Tuy thế, không có giới
hạn tuổi nhất định để chỉ tuổi trung niên .Người Tàu
có câu " Trung niên táng thê " là chỉ người ở vào tuổi
40 đến 50 bị goá vợ.
Tuỳ theo sự trưởng thành
và suy lão, lại có những định nghĩa, cùng giới hạn về
tuổi trung niên khác như :
-Tuổi " ấu niên " khoảng
0 tuổi đến 3 tuổi.
-Tuổi " đòng niên " từ
4 đến 9 tuổi.
-Tuổi thiếu niên từ 10
tuổi đến 19 tuổi
-Tuổi thanh niên từ 20 đến
40 tuổi
-Tuổi tráng niên từ 41 tuổi
đến 50 tuổi.
-Tuổi trung niên từ
51 đến 65 tuổi ;
-Cao niên từ 65 đến 74 tuổi.
Tẩu Sinh
鲰生
1-Cá tép, cá riu.
Chỉ người không có tài,
hoặc ý kiến bỉ lậu kém cỏi.
2-Văn sĩ tự xưng một cách
khiêm tốn,tự ví mình tài năng kém cỏi, nhỏ bé, như tép
riu, tương tự như chữ "tệ nhân".
Một âm nữa là Tưu.
Khanh
卿
1-Ngày xưa vộ chồng
gọi nhau là khanh.
2-Đến nhà Đường, thiên
tử gọi đại thần là "khanh".
3-Thời cổ, Khanh là tước
vị hoặc xưng vị của cao cấp quan lại.
-Đến thời Tây Chu và Xuân
Thu, vương triều nhà Chu và các chư hầu đều có đặt ra
chức Khanh và chia ra làm ba cấp Thượng Khanh, Trung Khanh, và
Hạ Khanh
-Đến thời Chíên Quốc,
Khanh là một trong những tước vị, có Thượng Khanh và Á
Khanh.
-Đến thời Tần và Hán,
trong triều có các chức quan như Phụng Thường(Hán gọi là
Thái Thường, Phụng Thường), Lang Trung Lệnh (Hán gọi là
Quang Lộc Huân), Vệ Uý, Thái Bộc, Đình Úy, Điển Khách (Hán
gọi là Đại Hông Lô), Tông Chính, Trị Túc Nội Sử, (Hán
gọi là Đại Tư Nông) là những trưởng quan của Cửu Tự
đều gọi là Khanh cả.
-Nhà Bắc Nguỵ, bên dưới
Khanh đặt ra chức Thiếu Khanh.
Các các triều đại sau đặt
ra Cửu Khanh, nhưng danh xưng của Cửu Khanh lại không nhất
chí, nắm quyền coi việc có lớn có nhỏ.
-Đầu đời nhà Tống, tuy
có chức Cửu Khanh, nhưng là phẩm trật của quan lại, không
có chức quyền. Đến năm Nguyên Phong nguyên niên , khi thay
đổi chế độ quan lại, thì mới là thực chức nắm quyền.
-Nhà Minh, cửu khanh gồm
có lục bộ Thượng Thư, và Đô Sát Viện Đô Ngự Sử, Đại
Lý Tự Khanh, Thông Chính Ty Sứ
-Nhà Thanh thường dùng Lục
Bộ Cửu Khanh gọi chung với nhau.
Âm Hôn
陰 婚
Người Tầu xưa có tục
"âm hôn-lấy ma",cũng còn gọi là " Minh Hôn冥昏 ", là một
tập tục hôn nhân cổ xưa, tức hai gia đình có con trai, và
con gái đã chết nhưng chưa từng lấy vơ lấy chồng, liên
hôn với nhau. Đời nhà Chu đã thấy lưu truyền tục lệ này,
phía chính quyền đã có lệnh ngăn cấm và gọi đó là là
" Giá Thương ".Gia đình người chết lấy nhau, đem hai người
này chôn chung một chỗ. Nhưng lệnh cấm không được thực
hành tuyệt đối.
-Đến cuối thời Đông Hán,
con út Tào Tháo là Tào Xung chết năm 13 tuổi từng lấy người
con gái đã chết, người họ chết, và được hợp táng.
-Đời nhà Đường, người
em đã chết của Vi Hòang Hậu tên là Vi Tuần từng làm " minh
hôn " với con gái đã chết của Tiêu Chí Tông và được hợp
táng, đủ cho thấy rằng tục " minh hôn " ở thời đó rất
được thịnh hành.
-Đến thời Tống, người
chuyên làm " mai " cho những nam nữ đã chết lấy nhau để
kiếm tiền, gọi là " Quỷ Môi Nhân 鬼媒人- Người
làm mối cho ma", tục lệ này phản ánh cái quan niệm linh hồn
bất diệt, và tưởng tượng ra một thế giới u minh khác,
nếu không cho con cái chết mà chưa lấy vợ lấy chồng thì
sẽ bị linh hồn của người chết quấy phá, và cũng nhân
đó nẩy sinh ra cái phong tục " âm hôn ".
Ở nông thôn, tàn dư của
phong tục này vẫn chưa hết. |