Tôi
đọc thấy trên nhật báo tin con voi biến mất khỏi chuồng
voi trong thành phố. Sáng hôm ấy, như thường lệ, tôi mở
mắt dậy theo tiếng chuông đồng hồ báo thức đã gài sẵn
ở 6 giờ 13 phút, ra bếp pha cà-phê, nướng bánh mì, mở đài
FM rồi vừa gặm bánh mì nướng vừa trải tờ nhật báo lên
bàn xem. Tôi có thói quen đọc báo theo thứ tự từ trang nhất
đọc đi, nên đã mất khá nhiều thì giờ mới đọc đến
cái ký sự con voi biến mất ấy. Trước tiên từ trang nhất
có ký sự về vấn đề ma-sát mậu dịch và chiến tranh không
trung SDI, qua đến trang chính trị trong nước, trang chính trị
quốc tế, trang kinh tế, trang thư độc giả, trang điểm sách,
trang quảng cáo bất-động-sản, trang thể thao, rồi đến
trang tin địa phương. Ký sự voi biến mất ấy nằm ngay đầu
trang tin địa phương. Tựa đề "Voi biến mất khỏi thành
phố " chữ đặc biệt lớn so với tựa đề thông thường
của các bản tin địa phương, nên đập ngay vào mắt tôi.
Lại có thêm hàng chữ nhỏ hơn phụ đề rằng "Dân chúng
thêm bất an. Có người đòi truy cứu trách nhiệm của ban
quản lý". Có cả hình chụp mấy người cảnh sát đang
kiểm kê chuồng voi trống không nữa. Chuồng voi trống không
là chuyện trái tự nhiên làm sao! Có vẻ trống vắng thẫn
thờ quá, cứ như là một sinh vật khổng lồ bị rút hết
ruột gan rồi phơi khô đi ấy.
Tôi gạt vụn bánh
mì rơi trên trang báo đi, chăm chú đọc ký sự ấy từng hàng
một. Bài báo cho biết rằng người ta bắt đầu để ý không
còn thấy voi ở đấy nữa là từ 2 giờ chiều ngày 18 tháng
5 (tức là hôm qua). Nhân viên của hãng cung cấp thực phẩm
(thực phẩm chính để nuôi voi là phần cơm thừa học trò
chừa lại ở trường tiểu học do thành phố lập nên) lái
xe tải mang thực phẩm nuôi voi đến như mọi ngày thì phát
hiện ra là chuồng voi trống không. Vòng sắt buộc chân voi
thì vẫn còn khoá kỹ mà nằm trơ ra đấy, cứ như là voi
đã rút được chân ra. Biến mất đi không chỉ có voi, mà
cả người nuôi voi, từ trước đến nay vẫn chăm sóc cho
voi, cũng đã biến mất theo.
Lần cuối cùng
người ta thấy hình dáng con voi và người nuôi voi là ngày
hôm trước (tức là ngày 17 tháng 5) khoảng sau 5 giờ chiều.
Năm em học sinh tiểu học đã đến trước sân voi để tập
vẽ voi, cho đến giờ ấy vẫn còn dùng bút chì màu để vẽ
hình voi. Các em học sinh ấy là những người chứng đã thấy
voi lần cuối cùng, sau đó không còn ai thấy hình dáng voi
nữa. Ký sự trên báo ghi như thế. Bởi ngay sau hồi còi 6
giờ chiều, người nuôi voi đã đóng cửa sân xem voi, không
còn người nào vào trong sân được nữa.
Cả 5 em học sinh
ấy đều cùng một lời rằng lúc bấy giờ hoàn toàn không
thấy có gì lạ ở voi hay người nuôi voi cả. Voi vẫn như
thường ngày, ngoan ngoãn đứng ngay giữa sân chơi, thỉnh thoảng
đong đưa mũi sang bên trái bên phải, hay nhíu đôi mắt đầy
nếp nhăn, thế thôi. Con voi này già quá nên ngay cả chuyện
cử động cũng đã khó khăn rồi; người nào nhìn voi này
lần đầu cũng cảm thấy lo lắng cho voi sắp sửa đổ ập
xuống đất mà tắt thở đi mất.
Con voi này được
thành phố (nơi tôi đang sống) lãnh về nuôi cũng từ lý do
đã già yếu đến thế. Khi vườn động vật nhỏ ở ngoại
ô thành phố phải đóng cửa vì kinh doanh khó khăn, các động
vật ở đấy đã qua sự dàn xếp của các hãng môi giới
động vật mà được phân tán đi các vườn động vật trên
toàn quốc, chỉ trừ mỗi con voi này vì đã già yếu quá nên
không tìm ra chỗ nhận nuôi. Vườn động vật nào cũng đã
có đủ số voi họ muốn, vả lại con voi già yếu, lúc nào
cũng như sắp đứng tim mà chết như thế thì chẳng có vườn
động vật nào đủ giàu và hiếu-sự đến muốn rước về
nuôi. Vì thế, sau khi tất cả các con thú bầu bạn của con
voi đã biến dạng không chừa một con nào, thì trong cảnh
hoang phế của vườn động vật ấy, chỉ còn lại mỗi mình
con voi già, chẳng có việc gì làm (nói thế thôi, chứ ngay
từ đầu cũng chẳng phải là có việc gì cho voi làm), trơ
trọi suốt 3, 4 tháng trời.
Tình huống này
làm nhức đầu cả phía vườn động vật lẫn thành phố.
Phía vườn động vật thì đã bán đất ấy cho công ty xây
nhà, công ty này đã định xây bin-đinh cao tầng làm chung-cư
ở đấy, và thành phố cũng đã cấp giấy phép xây cất cho
họ rồi. Xử trí chuyện voi càng chậm trễ lại càng phải
trả thêm tiền lời. Mà cũng không thể nào giết voi quách
đi được. Khỉ tay dài hay dơi thì chẳng nói làm gì, chứ
voi mà giết đi một con thì đâu có giấu được mắt người
ta; việc bại lộ ra là trở thành vấn đề lớn ngay. Do đó,
ba bên mới họp lại bàn tính, và ký kết hiệp định về
việc xử trí con voi già như sau:
[1] Voi được giao
lại miễn phí cho thành phố coi như tài sản của thành phố.
[2] Thiết bị thu
nạp voi do công ty xây nhà cung cấp miễn phí.
[3] Lương bổng
của người nuôi voi do vườn động vật chi cấp.
Đấy là nội dung
của hiệp định ba bên. Chuyện đúng một năm về trước
đấy.
Về vấn đề voi
ấy, cá nhân tôi vốn đã có quan tâm ngay từ đầu, nên đã
thu tập giữ lại các ký sự trên báo chí, không chừa một
chi tiết nào. Cả những kỳ họp của thành phố về chuyện
voi, tôi cũng đã đi nghe. Nhờ thế, bây giờ mới kể lể
giải thích song suốt chính xác được như thế này về diễn
tiến của vấn đề. Chuyện có phần dài dòng một tí, nhưng
vì tiến trình xử trí "vấn đề voi" có thể có quan hệ mật
thiết với việc voi biến đi mất, nên tôi phải ghi rõ ở
đây.
Thị trưởng đã
thoả-kết được hiệp định rồi, đến lúc thành phố sắp
sửa lãnh voi về thì xảy ra phong trào chống đối mà trung
tâm là đảng đối lập trong hội đồng thành phố (cho đến
lúc ấy, tôi không hề biết là có đảng đối lập trong hội
đồng thành phố đấy).
Họ công kích thị
trưởng "Tại sao thành phố lại phải lãnh nuôi con voi ấy
chứ?". Chủ trương của họ thì như trong bảng liệt kê
sau đây (xin lỗi độc giả về chuyện đưa ra nhiều bản
liệt kê như thế này, nhưng tôi nghĩ như thế dễ hiểu hơn):
[1] Vấn đề voi
là vấn đề giữa các xí nghiệp tư nhân là vườn động
vật và công ty xây nhà chứ thành phố không có lý do gì để
dính dáng đến cả.
[2] Việc quản lý
hay nuôi voi tốn tiền quá.
[3] Vấn đề an
toàn cho dân chúng thì tính sao?
[4] Thành phố tự
nuôi voi thì có lợi điểm gì chứ?
Như thế đấy.
"Trước khi tính
chuyện nuôi voi gì đấy, chẳng phải là thành phố còn có
vô số chuyện cần làm như chỉnh bị hệ thống thoát nước
thải, mua thêm xe chữa lửa, ...... hay sao?". Họ dàn trận
trên lập trường như thế, và tuy không nói thẳng thừng,
cũng đã ám chỉ đến khả-năng-tính có sự móc nối giữa
thị trưởng và các công ty liên hệ.
Đối lại, phản
luận của thành phố là:
[1] Khi chung-cư cao
tầng được xây dựng nên, số tiền thuế đóng cho thành
phố sẽ tăng vọt lên, chi phí nuôi voi sẽ không còn là vấn
đề gì đáng kể, do đó thành phố tham gia vào một chương
trình trọng yếu như thế là điều tất nhiên.
[2] Voi đã già lắm
rồi, chẳng ăn hết bao nhiêu, mà cũng khỏi phải lo chuyện
voi làm hại gì đến người ta.
[3] Khi voi chết
thì miếng đất do công ty xây nhà cung cấp làm chỗ nuôi voi
sẽ trở thành tài sản của thành phố.
[4] Voi trở thành
biểu tượng tốt của thành phố.
Sau một chuỗi những
buổi tranh luận dài dòng, cuối cùng con voi đã được thành
phố thu nhận. Thành phố này tự ngày xưa đã là vùng đất
của các tư-gia giàu có nên dân chúng ở đây nói chung là
có mức sinh hoạt dư-dả, và tài chính của thành phố cũng
phong phú. Vả lại, người ta cũng có hảo cảm đối với
chuyện nuôi nấng con voi già không có chỗ nào khác để dời
đi. Rõ ràng là dân chúng đã có hảo ý đối với con voi già
ấy hơn là hệ thống thoát nước thải hay xe chữa lửa.
Chính tôi cũng đã
tán thành chuyện thành phố nhận nuôi con voi. Phải chịu nhận
một khu chung-cư cao tầng thì chán thật, nhưng thành phố mình
ở mà có một con voi thì cũng hay.
Thế là một khoảnh
rừng được dọn sạch, và khung nhà thể dục đã cũ của
trường tiểu học được dời vào đấy làm chuồng voi. Người
nuôi voi từ bao lâu nay ở vườn động vật cũng đã dời
vào ở đấy. Thức ăn thừa của học sinh trường tiểu học
được dùng để nuôi voi. Và voi được cho lên xe tải, đưa
từ vườn động vật đã phế bỏ ấy đến chỗ ở mới,
để sống nốt quãng đời còn lại.
Tôi đã đến xem
buổi lễ khánh thành chỗ ở mới của voi. Đứng trước con
voi, thị trưởng đọc diễn từ (về sự phát triển của
thành phố và việc xây dựng thêm các cơ sở văn hoá), đại
biểu học sinh trường tiểu học đọc cảm tác (voi ơi,
khoẻ mạnh và sống lâu với chúng em, vân vân), thi đua
phác hoạ voi (từ đấy, phác hoạ voi trở thành một tiết
mục không thể thiếu trong chương trình giáo dục mỹ thuật
cho học sinh tiểu học trong thành phố), hai cô gái trẻ mặc
áo đầm phất phơ trong gió (không phải là người đẹp gì
lắm), mỗi cô cầm một nải chuối cho voi ăn. Con voi hầu
như hoàn toàn bất động, gắng gượng chịu đựng những
nghi thức chẳng có ý nghĩa gì ấy -ít nhất thì hoàn toàn
vô nghĩa đối với nó-, với đôi mắt trống vắng đến như
hoàn toàn vô thức, nhồm nhoàm nhai những quả chuối đưa
tận miệng nó. Voi ăn hết chuối, người ta vỗ tay rào rào.
Chân sau bên phải
của voi mang một vòng khoá bằng sắt vững chắc và nặng
nề. Vòng sắt buộc vào một dây xích sắt to, kéo dài khoảng
mười thước, đầu dây xích gắn chặt vào một đế xi-măng.
Trông vòng khoá và dây xích sắt kiên cố thế, con voi có thu
hết sức suốt cả trăm năm cũng chẳng làm sao mà bứt ra
được.
Con voi có khó chịu
vì vòng xích ấy không thì tôi chẳng rõ. Nhưng ít nhất trên
bề mặt thì có vẻ con voi không để tâm gì đến khối sắt
cuộn vào chân mình. Lúc nào mắt voi cũng lờ đờ như đang
nhìn một điểm nào đấy xa vắng trong không gian. Khi gió thổi,
tai voi và những lông trắng trên mình voi ve vẩy phơ phất.
Người nuôi voi
là một ông lão nhỏ con, gầy ốm. Chẳng hiểu tuổi thật
là bao nhiêu. Có thể vào khoảng trên 60, mà cũng có thể khoảng
những năm cuối tuổi 70. Trên đời này có những người,
khi quá một mức tuổi nào đó thì ngoại hình không còn thay
đổi theo tuổi tác nữa. Ông ta là một người như thế. Da
ông, mùa hạ cũng như mùa đông, vẫn rám nắng đến đen đỏ;
tóc ông cứng và ngắn, mắt nhỏ. Khuôn mặt không có điểm
gì đặc biệt, ngoài đôi vành tai tròn như vòng cung hoàn hảo,
nhô thẳng ra, khiến người ta càng chú ý hơn từ vóc người
nhỏ thó ấy.
Ông chẳng phải
là người lãnh đạm, ai hỏi chuyện thì đáp lại nghiêm cẩn
với lối nói chững chạc. Ông cũng tỏ vẻ thân cận được
nếu thật tâm muốn lấy cảm tình của người khác, tuy có
ngượng ngịu đôi chút. Nhưng thường thì có vẻ là một
ông già cô độc ít nói. Dường như ông thích con nít; đám
trẻ con đến thì ông chịu khó ứng xử tử tế thêm. Nhưng
tụi trẻ con thì hình như không cởi mở lắm đối với ông.
Chỉ có con voi cởi
mở thân thiết với ông thôi. Người nuôi voi ăn ngủ trong
căn phòng tiền-chế nhỏ kê sát như dính vào chuồng voi, từ
sáng đến tối, theo sát để chăm sóc cho voi. Voi và người
nuôi voi ấy đã quen thân nhau từ hơn mười năm nay rồi, quan
hệ thân mật ấy chỉ cần nhìn thoáng qua cử chỉ hay ánh
mắt họ cũng đủ hiểu. Khi muốn con voi đang đứng ngẩn
ngơ thờ thẩn một chỗ ấy dời đi đâu, ông lão chỉ cần
đến bên voi, vỗ vỗ vào chân trước của voi mà thì thầm
gì đấy, là đủ. Con voi hiểu ý, chầm chậm dời tấm thân
nặng nề đến đúng chỗ ông muốn; khi đã đứng vào vị
trí chỉ định rồi, lại giương mắt đăm đắm nhìn vào
một điểm nào đấy trong không gian, như trước.
Cứ cuối tuần,
tôi lại đến chuồng voi, quan sát kỹ lưỡng những thao tác
như thế, nhưng chẳng làm sao hiểu được hai bên truyền tin
cho nhau dựa trên nguyên lý nào. Có thể con voi hiểu được
những tiếng nói đơn giản (bởi dù sao cũng đã sống lâu
năm với ông lão rồi), hoặc là hiểu được thông tin từ
cách ông lão vỗ vào chân voi. Hoặc không chừng con voi ấy
có năng lực đặc biệt kiểu thần-giao-cách-cảm, mà hiểu
được ý nghĩ của người nuôi voi. Có lần tôi đã hỏi ông
ấy "làm thế nào để truyền lệnh cho voi thế?". Ông
chỉ cười đáp "Quen với nó quá rồi mà" chứ không
giải thích gì thêm.
Cứ thế, một năm
trôi qua, không có chuyện gì lạ. Vậy mà đột nhiên con voi
biến mất.
Tôi vừa uống ly
cà-phê thứ hai vừa đọc lại ký sự trên báo một lần nữa,
thật chăm chú. Một ký sự rất ly kỳ. Loại ký sự mà Sherlock
Holmes hẳn là vừa vỗ ống điếu vừa nói "Bạn Watson này,
đọc đi. Có ký sự này ly kỳ quá chứ!"
Yếu tố quyết
định đã tạo cho ký sự ấy một ấn tượng ly kỳ đến
như thế, chính là sự hoang mang hỗn loạn của người ký
giả. Sự hoang mang hỗn loạn rõ ràng là đã phát xuất từ
tính cách bất-hợp-lý của trạng huống phát sinh sự kiện.
Ký giả đã khôn khéo tránh né tính cách bất-hợp-lý ấy,
cố hết sức viết một ký sự nhật báo có vẻ chân
thật, nhưng kết quả ngược lại, đã đẩy sự hoang
mang hỗn loạn của chính anh ta đến chỗ cùng cực.
Chẳng hạn, ký
sự ấy đã dùng biểu-hiện "voi đã trốn thoát";
nhưng chỉ cần đọc lướt qua bài viết thì đã quá rõ ràng
là voi đâu có trốn hay thoát gì đâu. Voi chỉ "biến
mất", thế thôi. Chính ký giả đã viết về điểm
tự-mâu-thuẫn đó rằng "Về chi tiết thì vẫn còn một
số điểm không rõ ràng". Nhưng tôi nghĩ rằng chẳng thể
nào thu vén gọn sạch được bài viết này bằng những từ
thông thường như "chi tiết" và "không rõ ràng".
Trước hết là
việc chân voi có khoá bằng vòng sắt. Mà vòng sắt để lại
vẫn còn nguyên khoá kín chứ không bị mở. Cách suy luận
có vẻ thoả đáng nhất là người nuôi voi đã dùng chìa khoá
mở vòng sắt ấy ra khỏi chân voi, xong khoá vòng sắt lại
bỏ đấy, rồi cùng voi trốn mất (tất nhiên, tờ báo nào
cũng bám riết khả-năng-tính này). Nhưng vấn đề là người
nuôi voi lại không có chìa khoá chân voi! Chỉ có hai chìa khoá
thì vì lý do an toàn tối đa, một chìa được giữ trong két
sắt của Sở Cảnh sát, chìa kia được giữ trong két sắt
của Sở Chữa lửa. Người nuôi voi -hay bất cứ người nào
khác- lấy trộm chìa khoá từ hai cái két sắt ấy là chuyện
không thể xảy ra. Mà giả thử vạn nhất có lấy được
chìa nào ra để mở khoá chân voi xong, cũng hoàn toàn chẳng
có lý do gì để phải tốn công trả chìa khoá ấy vào lại
trong két sắt. Vậy mà, sáng hôm sau khi voi biến mất, người
ta đã kiểm thấy hai chìa khoá vẫn còn nguyên trong hai két
sắt ở Sở Cảnh sát và Sở Chữa lửa.
Thế thì hoá ra
con voi đã không nhờ vào ai mở khoá mà lại rút chân ra khỏi
vòng sắt ấy được chăng? Đấy là điều tuyệt đối bất
khả, trừ phi dùng cưa mà cắt đứt chân voi đi.
Nan-đề thứ hai
là đường tháo chạy của voi. Chuồng voi và sân chơi của
voi được bao bọc bởi một tường rào vững chắc cao khoảng
ba thước. Vì khía cạnh an ninh an toàn của việc nuôi voi đã
được lôi ra bàn cãi om-sòm trong hội đồng thành phố nên
người ta đã phải thiết lập một thể chế cảnh bị có
thể nói là quá thừa như thế đối với một con voi già yếu.
Tường rào làm bằng trụ xi-măng và những cọc sắt to bản
(chi phí tất nhiên là do công ty nhà đất trả), chỉ có một
cửa vào, lúc xảy ra sự kiện thì vẫn còn khoá chặt từ
bên trong. Con voi chẳng thể nào trèo qua hàng rào kiên cố
đến như thành lũy pháo đài ấy mà thoát ra ngoài được.
Nan-đề thứ ba
là vết chân voi. Sau lưng chuồng voi là một sườn đồi dốc
thẳng lên, con voi già không thể nào leo dốc ấy nổi. Giả
thử bằng cách nào đấy, voi rút được chân ra khỏi vòng
sắt, rồi bằng cách nào đấy, đã vượt được tường rào
đi nữa, cũng chỉ có thể thoát chạy bằng con đường phía
trước chuồng mà thôi. Thế nhưng, trên mặt đường bằng
đất cát mềm ấy hoàn toàn chẳng có một dấu vết gì giống
vết chân voi cả.
Tóm lại, nhìn chung
cái ký sự nhật báo đầy những tu-từ gượng ép ngượng
nghịu khổ sở ấy, chẳng thấy được gì có thể xem là
kết luận hay bản chất của sự kiện cả, ngoài một sự
thật. Đó là: không phải con voi đã trốn thoát, mà sự thật,
voi đã biến mất.
Dù vậy, tất nhiên
khỏi nói cũng biết là cả tờ nhật báo và cảnh sát lẫn
thị trưởng, ít nhất thì trên bề mặt, tuyệt đối không
muốn thừa nhận sự thật ấy. Cảnh sát tiến hành điều
tra trên cơ sở rằng "có khả năng là voi đã bị trộm
mất, hay giải thoát một cách có kế hoạch bằng phương pháp
xảo diệu nào đấy", và tuyên bố dự đoán lạc quan rằng
"giấu giếm con voi to lớn như thế là chuyện vô cùng khó
khăn, do đó giải quyết vụ này chỉ là vấn đề thời gian
mà thôi". Và cảnh sát đã yêu cầu các hội săn bắn quanh
vùng cùng bộ đội xạ kích trong Tự Vệ Đội[1] giúp
sức, định khám xét khắp các vùng rừng núi quanh đây.
Thị trưởng mở
cuộc họp báo (được tường thuật không phải trên bản
địa phương mà ngay trên trang xã hội của bản phát hành
toàn quốc), tạ lỗi đã thiếu sót trong thể chế cảnh bị
của phía thành phố. Nhưng đồng thời, Thị trưởng cũng
nhấn mạnh rằng "thể chế quản lý cho voi của thành phố
nhất định không yếu kém hơn so với bất cứ vườn động
vật hay cơ sở tương tự nào trên toàn quốc. Thể chế quản
lý cho voi của thành phố này vạn toàn và kiên cố hơn cả
quy chuẩn luật định", và tuyên bố "đây là một hành
vi đầy ác ý, nguy hiểm, vô-nghĩa và phản-xã-hội, nhất
quyết không thể tha thứ được".
Nhóm nghị viên
của đảng đối lập thì, như một năm về trước, đòi truy
vấn "trách nhiệm của thị trưởng không suy xét thấu đáo,
đã kết cấu với công ty tư nhân mà lôi kéo dân chúng vào
vấn đề xử lý con voi này".
Có một bà mẹ
37 tuổi, bày tỏ với vẻ mặt lo lắng rằng "thế này thì
chẳng còn an tâm mà cho con trẻ ra ngoài chơi nữa".
Tờ nhật báo đăng
bài tường thuật đầu đuôi chuyện thành phố nhận nuôi
con voi, và đăng cả hình vẽ phối trí khu vực chuồng voi.
Có cả tiểu sử con voi, và chi tiết về người nuôi voi (Watanabe
Noboru, 63 tuổi), đã cùng voi biến mất. Người nuôi voi Watanabe
Noboru xuất thân từ thành phố Tateyama huyện Chiba, đã lâu
năm làm việc nuôi nấng các loài động vật có vú của vườn
động vật, "do hiểu biết phong phú về các loài động
vật này, cùng với tính tình ôn hoà, hiền hậu và thành thực,
đã được mọi người liên hệ hoàn toàn tin tưởng".
Con voi này được gửi đến từ Đông Phi châu 22 năm trước
đây, nhưng tuổi voi chính xác là bao nhiêu thì không ai biết,
mà tâm tính ra sao cũng không rõ.
Phần cuối bài
viết ghi rằng cảnh sát kêu gọi mọi người trong vùng cung
cấp bất cứ thông tin nào về voi. Tôi vừa uống ly cà-phê
thứ hai, vừa suy nghĩ một hồi về điều ấy, nhưng cuối
cùng không gọi điện thoại đến cảnh sát. Một phần cũng
vì chẳng muốn dính líu đến cảnh sát, phần khác, thông
tin mình cung cấp chắc cảnh sát cũng chẳng tin cho. Họ đã
không chịu suy nghĩ nghiêm cẩn về khả-năng-tính con voi biến
mất, thì có nói gì với họ đi nữa cũng vô ích thôi.
Tôi lôi cuốn tập
kẹp giấy rời từ tủ sách xuống, kẹp vào đấy các mẩu
tin tức, ký sự cắt trong báo về chuyện con voi, xong rửa
ly đĩa rồi đi làm.
Buổi tối, chương
trình tin tức lúc 7 giờ của đài truyền hình quốc gia NHK
cho thấy cảnh người ta lùng kiếm trên rừng. Đám thợ săn
lăm lăm những khẩu súng săn to lớn nạp sẵn đạn thuốc
mê, cùng với lính Tự Vệ Đội, cảnh sát và lính chữa lửa,
vạch từng bụi cỏ vòm cây, lùng quét khắp vùng rừng núi
gần thành phố; trên trời có vài chiếc trực thăng quần
thảo liên hồi. Tiếng là rừng núi, chứ gần ngay bên khu
vực nhà-ở ngoại vi Tokyo, nên chẳng rộng lớn gì bao nhiêu.
Đến chừng đó người tụ tập lại thì chỉ càn quét một
ngày là kiểm hết, vả lại, kẻ bị lùng kiếm đâu phải
là kẻ sát nhân tí hon gì, mà là một con voi Phi châu to tướng.
Những chỗ con voi ấy có thể ẩn núp được tất nhiên là
chẳng có mấy. Thế mà họ lùng kiếm đến chiều tối cũng
chẳng thấy gì. Trên màn hình TV, ông Cảnh sát trưởng nói
"Cuộc lùng kiếm vẫn còn tiếp tục". Người phóng viên
truyền hình kết luận "Ai đã làm cách nào để voi tẩu
thoát được, đang giấu voi ở đâu, và vì lý do gì? tất
cả vẫn còn bao trùm trong màn bí mật mịt mùng".
Sau đó, họ còn
tiếp tục lùng kiếm thêm mấy ngày nữa, nhưng rốt cuộc
cũng không tìm ra voi, mà nhà đương cuộc cũng chẳng tìm thấy
được chút gì đáng gọi là manh mối cả.
Mỗi ngày, tôi đọc
kỹ lưỡng tin tức trên nhật báo, có ký sự nào lọt vào
mắt là cẩn thận cắt ra cho vào cuốn tập kẹp giữ lại.
Giữ cả đến những bức hí-hoạ về chuyện voi nữa. Thế
rồi cuốn tập ấy không mấy chốc đã đầy ứ, phải ra
tiệm bán dụng cụ văn phòng mua cuốn tập kẹp mới. Thế
nhưng, mặc dù số lượng các tin tức, bài viết đã nhiều
đến như thế, vẫn chưa thấy viết tí gì về sự thực mà
tôi muốn biết. Báo chí cứ viết những là "Vẫn biệt
tích như trước", hay "Ban điều tra càng ngày càng khổ
não thêm", hay "Có phải tổ chức bí mật nào đó đang
ẩn mặt phía sau?", toàn những chuyện đâu đâu vô-nghĩa
như thế thôi. Khoảng một tuần sau khi voi biến mất, những
ký sự về voi dần dần giảm thiểu trông thấy, rồi cuối
cùng hầu như không còn thấy trên mặt báo nữa. Các tạp
chí lúc đầu cũng đăng những ký sự giật gân để câu khách,
có bài viết còn lôi cả thầy bói vào nữa, nhưng rồi cũng
chấm dứt không kèn không trống. Có vẻ thiên hạ đã muốn
nhét chuyện voi này vào loại sự kiện bao lâu nay đã tích
tụ rất nhiều dưới cái tên là "những bí ẩn không giải
minh được". Một con voi già cùng với một ông lão nuôi
voi có biến mất đi từ mảnh đất này, cũng hoàn toàn chẳng
ảnh hưởng gì đến xu-thế của xã hội cả. Quả đất tiếp
tục vòng quay đơn điệu, chính-trị-gia tiếp tục phát biểu
những tuyên bố chẳng thể nào tin được, người ta tiếp
tục ngáp dài trên đường đến sở làm, trẻ em tiếp tục
mài miệt học thi. Trong lớp sóng tạt vào dạt ra không ngừng
của đời thường, hứng thú về chuyện một con voi mất tích
không thể nào nuôi giữ mãi được. Và cứ thế, những ngày
tháng đơn điệu bình lặng trôi qua, như đám tàn quân mệt
mỏi lê bước thoáng qua bên ngoài cửa sổ.
Thỉnh thoảng, khi
có giờ rảnh, tôi lại đến chuồng voi cũ, đứng ngắm chỗ
ở của voi nay đã không còn bóng dáng con voi ấy nữa. Cửa
vào nơi tường rào sắt ấy nay đã có vòng xích sắt to bản
khoá lại, không cho ai vào nữa. Nhìn qua kẽ tường rào lại
thấy cửa chuồng voi cũng bị khoá bằng vòng xích sắt như
thế. Có vẻ cảnh sát muốn bù lại mối hận đã không tìm
ra voi bằng cách siết chặt việc cảnh bị chuồng voi đến
quá mức cần thiết như thế này, sau khi voi đã đi mất. Chung
quanh hoàn toàn im vắng không một bóng người. Trên mái chuồng
voi chỉ thấy có đám bồ câu đang nghỉ cánh. Sân chơi của
voi không ai chăm sóc, cỏ tạp mùa hè như gặp được dịp
tốt, tha hồ mọc xanh um. Vòng xích sắt khoá cửa chuồng voi
trông giống như con rắn lớn cuồn cuộn giữ cửa một vương
cung đã hoang phế điêu tàn trong rừng thẳm. Voi chỉ vắng
đi có vài tháng mà nơi này đã hoang tàn đến mức tưởng
như là một định mệnh, phảng phất không khí ngột ngạt
như mây đen tích tụ sắp nổ thành giông bão.
Tôi gặp nàng vào
khoảng cuối tháng Chín. Hôm ấy mưa suốt từ sáng đến tối.
Mưa đơn điệu, hạt nhỏ và mềm, như vẫn thường có trong
mùa thu. Rửa trôi dần dần đi ký ức rám nóng của mùa hạ.
Tất cả ký ức ấy trôi theo luồng nước mà hoà chung vào
những cống rãnh, những dòng sông trôi ra biển sâu thẳm mịt
mùng.
Chúng tôi gặp mặt
nhau trong bữa tiệc vận-động quảng cáo do hãng tôi tổ chức.
Tôi làm việc trong bộ môn quảng cáo của một hãng lớn chế
tạo đồ điện dùng trong nhà, đúng vào lúc ấy, đang đảm
đương việc quảng cáo trên báo chí cho một loạt sản phẩm
điện-khí-hoá dùng trong nhà bếp dự định bán ra đúng vào
mùa cưới mùa thu và thời kỳ phát tiền thưởng mùa đông.
Công tác của tôi là thương lượng để đăng những ký sự
quảng cáo trên các tờ báo phụ nữ. Công việc chẳng đòi
hỏi đầu óc gì mấy, nhưng cần phải làm sao cho họ đăng
được cho mình những bài viết mà người đọc không ngửi
thấy mùi quảng cáo. Để đền đáp lại, hãng tôi sẽ đăng
quảng cáo trên tạp chí của họ. Ở đời phải có đi có
lại như thế.
Nàng là người
biên tập của một tạp chí nhắm vào phụ nữ trẻ, đến
dự tiệc để tìm tài liệu viết bài quảng cáo như thế.
Đúng vào lúc tôi có thì giờ nên đã tiếp nàng, và giải
thích cho nàng về những tủ lạnh màu sắc hoa-mỹ được
thiết kế bởi một nhà vẽ kiểu nổi tiếng người Ý, cùng
những máy pha cà-phê, lò vi-ba, máy làm nước trái cây.
-"Điểm quan trọng
nhất vẫn là tính thống nhất". Tôi nói. -"Dù kiểu mẫu có
tuyệt đẹp đi nữa, mà không giữ được quân bình với môi
trường chung quanh thì cũng chìm chết đi mất. Tính thống
nhất về màu sắc, kiểu mẫu, cơ năng, là điểm tất yếu
quan trọng nhất trong nhà bếp hiện đại. Kết quả điều
tra cho biết là người nội trợ hiện đại dành nhiều thì
giờ nhất trong ngày vào việc làm bếp. Nhà bếp hiện đại
là sở làm của người nội trợ, mà cũng là phòng văn và
phòng khách. Thế nên người nội trợ ngày nay cố gắng làm
cho nhà bếp trở thành một nơi thoải mái cho mình. Bề rộng
không quan hệ gì. Cho dù rộng hay hẹp, nguyên tắc của một
nhà bếp ưu tú vẫn giống nhau thôi. Tức là giản tiện, hiệu
quả và thống nhất. Loạt sản phẩm mới này của chúng tôi
đã được thiết kế và thực hiện dựa trên ý niệm ấy.
Ví dụ, xin nhìn bản nướng thịt này xem ... vân vân ...
vân vân ..."
Nàng gật đầu
và ghi chép vào cuốn sổ tay nhỏ. Nàng chẳng đặc biệt hào
hứng gì về chuyện tìm tài liệu viết bài như thế, mà tôi
cũng chẳng có quan tâm đặc biệt gì đến bản nướng thịt.
Chúng tôi chỉ làm cho trọn công việc của mình thôi.
-"Anh rành chuyện
bếp núc quá nhỉ". Nàng nói sau khi tôi thuyết minh xong.
-"Công việc của
tôi mà". Tôi đáp với nụ cười nghề nghiệp. -"Tuy thế,
ngoài công việc ra, tôi cũng thích nấu nướng. Những thức
đơn giản thôi, nhưng tôi vẫn nấu mỗi ngày đấy chứ".
-"Bếp núc mà cần
tính thống nhất thật sao?". Nàng hỏi.
-"Không phải bếp
núc, mà là nhà bếp đấy chứ". Tôi đính
chính. -"Gọi là gì cũng thế thôi, nhưng dù sao thì hãng cũng
đã định như thế rồi".
-"Xin lỗi anh. Nhưng
mà, nhà bếp ấy cần tính thống nhất thật sao? Xin anh cho
biết ý kiến cá nhân".
-"Ý kiến cá nhân
của tôi thì phải tháo cà-vạt ra rồi mới nói được". Tôi
cười đáp. -"Nhưng hôm nay đặc biệt, xin nói ra như thế
này: tôi nghĩ rằng trước khi nói đến tính thống nhất,
chắc hẳn là nhà bếp còn cần có một số yếu tố khác
nữa. Tuy nhiên, những yếu tố ấy trước nhất là không thể
làm thành thương phẩm được, mà trong cái thế giới đòi
hỏi tiện nghi này, những yếu tố không thương-phẩm-hoá
được thì chẳng có ý nghĩa gì cả".
-"Thế giới hiện
tại được thành lập trên tiện nghi thật sao anh?"
Tôi lấy thuốc
lá trong túi ra gắn lên môi, bật quẹt châm lửa.
-"Chỉ là một cách
nói thôi". Tôi đáp. -"Nói như thế thì dễ hiểu được nhiều
điều, và công việc của tôi cũng song suốt. Giống như trò
chơi điện tử vậy. Tha hồ giải thích nhiều cách: tiện
nghi từ bản chất, hay bản chất là tiện nghi, đều nói được
cả; và nếu suy nghĩ được như thế thì sẽ không gây ra
tranh cãi, hay tạo ra vấn đề gì phức tạp cả".
-"Em nghĩ đó là
một ý kiến đặc sắc". Nàng nói.
-"Cũng không đặc
sắc lắm đâu. Ai cũng có thể nghĩ ra được cả thôi". Tôi
nói. -"À, mà đang có thứ champagne khá ngon, cô có muốn uống
một tí không?"
-"Cảm ơn anh. Xin
anh". Nàng nói.
Sau đó, tôi và
nàng vừa nhắp champagne ướp lạnh vừa nói chuyện thiên hạ,
qua câu chuyện mới biết là chúng tôi quen biết vài người
bạn chung. Giới làm nghề của chúng tôi vốn không rộng lớn
gì lắm nên cứ ném viên sỏi ra thế nào cũng trúng nhằm
một hai người gọi được là "người quen biết chung".
Lại nữa, tình cờ mà em gái tôi lại xuất thân từ cùng
một đại học với nàng. Chúng tôi dựa vào những tên người
quen biết chung như thế mà chuyện trò tương đối tương đắc
dài dòng.
Nàng và tôi đều
độc thân. Nàng 26, tôi 31 tuổi. Nàng mang thấu-kính mỏng
dán vào mắt, tôi đeo kính. Nàng khen màu sắc của chiếc cà-vạt
tôi mang, còn tôi khen bộ áo vét nàng mặc. Chúng tôi nói về
giá thuê phòng trọ của nhau, và cả những phàn nàn bất mãn
trong nội dung công việc hay lương bổng. Nghĩa là chúng tôi
đã trở nên thân mật lắm rồi. Nàng là một phụ nữ rất
quyến rũ mà không quá tọc mạch. Tôi đứng đấy nói chuyện
với nàng suốt 20 phút, không thấy có gì ngăn cản mình ôm
ấp hảo-ý đối với nàng.
Lúc tiệc tan, tôi
rủ nàng vào quán rượu trong cùng khách sạn ấy để tiếp
tục câu chuyện đang vui. Qua khung cửa sổ lớn nhìn thấy
mưa đầu mùa thu bên ngoài. Mưa vẫn còn rơi âm thầm; sâu
trong màn mưa, ánh đèn phố đêm vẽ nên những thông-điệp
nhạt nhoà. Quán vắng, hầu như không có khách nào khác, bao
trùm một không khí yên lặng mướt hơi nước. Nàng gọi daiquiri
lạnh, tôi gọi scotch nước đá.
Chúng tôi ngồi
uống thức uống mình gọi, nói những chuyện mà các cặp
trai gái gặp nhau lần đầu nhưng thân mật phần nào vẫn
thường nói với nhau. Chuyện thời đại học, chuyện thích
loại âm-nhạc nào, chuyện thể thao, chuyện thói quen thường
ngày, ... những chuyện như thế.
Rồi tôi nói đến
chuyện con voi. Tại sao thình lình lại chuyển sang chuyện con
voi, tôi chẳng nhớ nổi. Có lẽ nhân nói đến chuyện gì
đấy về động vật mà nói sang chuyện voi ấy. Cũng có thể
trong vô thức, tôi đã mong có dịp nói lên suy nghĩ của mình
về chuyện con voi biến mất ấy, với ai đấy, một người
mà mình có thể giãi bày song suốt được. Mà có khi chỉ
đơn giản là tôi đã quá chén mà nói tràn sang chuyện voi
không chừng.
Thế nhưng, liền
sau khi nói chuyện con voi ấy ra, tôi chợt để ý ngay rằng
mình đã lôi ra một chuyện hoàn toàn không thích hợp với
trạng huống hiện tại. Đúng là tôi đã chẳng nên lôi chuyện
voi ấy ra nói làm gì. Bởi chuyện ấy, nói sao nhỉ, có vẻ
là một câu chuyện đã khép lại không còn gì để nói nữa.
Vì thế, tôi muốn
dứt ngang chuyện voi lại ngay, thế nhưng chẳng may, nàng lại
có quan tâm lạ thường đối với sự kiện con voi biến mất.
Nghe tôi nói là đã thấy con voi ấy nhiều lần, nàng liên
tiếp dồn cho tôi nhiều câu hỏi. Con voi ra làm sao? Anh nghĩ
voi đã thoát đi như thế nào? Thường thường voi ăn những
gì? Không nguy hiểm cho người ta sao chứ? ... những câu
hỏi như thế.
Tôi đành phải
đối đáp bằng những giải thích thông thường chung chung
như báo chí đã đăng. Nhưng có vẻ nàng cảm nhận được
vẻ lãnh đạm gượng ép trong giọng nói của tôi. Từ xưa
đến nay, tôi vốn không quen che giấu.
-"Nghe tin voi biến
mất hẳn là anh kinh ngạc lắm phải không?". Nàng vừa nhấm
nháp ly daiquiri thứ hai, vừa hỏi như chẳng có gì quan trọng.
-"Chứ có ai dự tưởng được cả một con voi to lớn thế
mà biến đi mất đâu nhỉ?".
-"Ừm, có lẽ thế
thật" Tôi nói, tay nhón lấy một miếng bánh quy xoắn trong
đĩa thủy tinh, bẻ làm hai, ăn một mảnh. Cậu hầu bàn đến
thay đĩa gạt-tàn-thuốc.
Nàng nhìn mặt tôi
chăm chú, tỏ vẻ quan tâm lắm. Tôi lại ngậm điếu thuốc
và châm lửa hút. Đã kiêng thuốc được ba năm rồi đấy,
nhưng từ ngày con voi biến mất, đã hút trở lại mất.
-"Anh nói Có lẽ
thế thật, có nghĩa là chuyện con voi biến mất ấy phần
nào anh đã dự tưởng được hay sao?" Nàng căn vặn.
-"Làm sao mà dự
tưởng được". Tôi cười, nói. -"Thình lình voi biến mất,
chuyện chưa từng xảy ra, mà cũng chẳng thiết yếu phải
xảy ra. Không hợp lý tí nào cả mà".
-"Thế mà cách nói
của anh lại rất là dị thường. Này nhé, khi em hỏi: có
ai dự tưởng được cả một con voi to lớn thế mà biến
đi mất đâu nhỉ?, anh đã trả lời là: có lẽ thế
thật. Thông thường có ai lại trả lời như thế. Thường
thì người ta đáp là: Đúng thế, hoặc là Chẳng
hiểu nổi, kia chứ".
Tôi hướng về
phía nàng, nghiêng đầu một cách lửng lờ, rồi đưa tay gọi
hầu bàn đến bảo cho một ly scotch khác. Trong khi chờ ly scotch
nước đá mới, tôi tạm thời im lặng.
-"Này anh, em thật
chẳng hiểu". Nàng nói, nhẹ nhàng. -"Trước đấy thì anh nói
chuyện thật bình thường. Cho đến khi có chuyện voi. Thế
nhưng đến chuyện voi thì cách nói của anh đột ngột khác
lạ hẳn đi. Em chẳng hiểu anh thật lòng muốn nói gì nữa,
sao thế anh? Chuyện con voi ấy có gì không tốt? hay chẳng
lẽ tai em bị gì rồi hay sao?"
-"Tai em chẳng bị
gì cả đâu". Tôi nói.
-"Thế thì vấn
đề là ở phía anh rồi".
Tôi cho ngón tay
vào khuấy nước đá vòng vòng trong ly. Tôi thích nghe tiếng
nước đá chạm vào thành ly scotch.
-"Chẳng có gì trầm
trọng đến phải gọi là vấn đề". Tôi nói. -"Chỉ là một
điểm nhỏ thôi. Chẳng phải muốn giấu giếm gì ai, chỉ
vì anh không có tự tín có thể nói rõ ra được hay không
đấy thôi. Bởi nói là chuyện kỳ dị, thì quả đúng là
kỳ dị thật rồi".
-"Kỳ dị như thế
nào chứ?".
Tôi đành chịu
thua, uống một ngụm whisky rồi nói:
-"Anh vẫn bận tâm
về một điều rằng có lẽ anh mới là người cuối cùng
thấy con voi ấy. Anh thấy voi lúc quá 7 giờ tối ngày 17 tháng
5, mà người ta phát giác ra voi không còn đó nữa vào khoảng
quá trưa ngày hôm sau; trong khoảng thời gian ấy, không có
ai thấy voi cả. Bởi cứ đến 6 giờ tối là cửa chuồng
voi đã đóng lại rồi".
-"Chuyện nghe khó
hiểu quá". Nàng nói, mắt nhìn sâu vào mắt tôi. -"Cửa chuồng
voi đã đóng lại rồi thì làm sao mà anh nhìn thấy voi được
chứ?"
-"Sau lưng chuồng
voi là một dốc núi nhỏ. Không biết chủ nhân là người
nào nhưng chẳng có ai làm đường đi trên đấy cả. Trên
dốc núi ấy có một địa điểm từ đấy có thể dòm thấu
vào chuồng voi. Biết được chỗ ấy, có lẽ chỉ mỗi mình
anh mà thôi".
Tôi tìm thấy chỗ
ấy hoàn toàn tình cờ. Một buổi chiều chủ nhật đi tản
bộ trên núi ấy, tôi đã đi lạc, rồi khi mò mẫm tìm đường
về đã tình cờ mà phát hiện ra chỗ ấy. Ngay đấy có một
khoảng đất trống nhỏ bằng phẳng chỉ vừa đủ cho một
người nằm phục xuống, từ đấy nhìn xuống, xuyên qua kẽ
lá cây rậm rạp thì thấy đúng vào mái chuồng voi. Phía dưới
mái một tí có ống thông hơi thật lớn, từ đó có thể
nhìn thấy rõ ràng bên trong chuồng voi.
Từ ngày ấy, thỉnh
thoảng tôi lại đến chỗ ấy, ngắm con voi đi vào chuồng
buổi tối, lâu dần thành thói quen. Nếu có ai hỏi tại sao
phải làm chuyện rắc rối thế thì tôi chẳng trả lời song
suốt được. Chỉ vì tôi muốn nhìn thấy hình dáng voi trong
giờ phút riêng tư của nó đấy thôi. Ngoài ra, chẳng có lý
do sâu kín nào cả.
Lúc nào bên trong
chuồng voi tối thì quả là chẳng thấy được hình dáng con
voi, nhưng những lúc mới vừa tối thì người nuôi voi bật
đèn sáng để săn sóc voi, nên tôi xem được tận tường.
Trước nhất, tôi để ý thấy rằng khi không có ai khác thì
voi và người nuôi voi có vẻ thân mật với nhau hơn nhiều,
so với lúc voi phải ra ngoài cho người ta xem. Chỉ cần nhìn
những cử chỉ nhỏ nhặt của cả hai cũng đủ biết. Cứ
như là ban ngày họ cố gắng kềm giữ tình cảm để người
ngoài không để ý đến tình thân mật giữa họ, để dành
lại cho đêm tối khi chỉ có họ với nhau. Nói thế chứ chẳng
phải họ làm gì đặc biệt trong chuồng voi ấy đâu. Voi vào
chuồng kín thì cũng vẫn thơ thẩn lơ đãng như thường lệ,
mà người nuôi voi cũng vẫn làm những thao tác đương nhiên
phải làm như lấy bàn chải lớn lau rửa thân voi, quét dọn
những đống phân voi to tướng trên sàn, dọn dẹp thức ăn
cho voi, thế thôi. Thế nhưng, không sao bỏ qua được vẻ nồng
nàn đặc biệt toát ra từ tình cảm tin tưởng gắn bó hai
bên với nhau. Trong khi người nuôi voi quét dọn sàn phòng,
con voi ve vẩy chiếc mũi, đánh nhẹ "tưng tưng" lên lưng
ông ta. Tôi rất thích nhìn dáng voi trong động tác ấy.
-"Anh vốn thích
voi từ trước rồi à? Nghĩa là chẳng cứ gì con voi này?".
Nàng hỏi.
-"Ừm, anh cũng nghĩ
thế". Tôi nói. -"Voi là loài động vật có gì đấy khích
động lòng anh. Có cảm tưởng như từ xưa đã thế rồi.
Tuy anh chẳng hiểu tại sao".
-"Thế rồi, hôm
ấy, lúc chiều tàn, anh đã leo núi ấy mà xem voi một mình
chứ gì?". Nàng nói. -"Ừm ... tháng 5 và ..."
-"Ngày 17". Tôi nói.
-"Tháng 5 ngày 17, khoảng 7 giờ tối. Nhằm mùa ấy thì ngày
dài lắm, giờ ấy vẫn còn một tí hoàng hôn. Nhưng mà, bên
trong chuồng voi thì đèn mở sáng choang".
-"Lúc ấy thì cả
voi lẫn người nuôi voi đã chẳng có gì khác lạ cả chứ
gì?"
-"Khác lạ thì nói
không có gì cũng đúng, mà nói có gì, cũng đúng. Anh chẳng
nói chính xác được. Dù gì đi nữa cũng chẳng phải chuyện
thấy ngay gần mắt mình. Nhân chứng kiểu này thì độ tin
chẳng cao bao nhiêu".
-"Thế đã có chuyện
gì xảy ra à?"
Tôi uống một ngụm
whisky đã nhạt đi vì nước đá tan ra. Ngoài khung cửa sổ,
mưa vẫn còn rơi. Không lớn hơn, cũng không nhẹ hơn. Trông
cứ như là màn mưa liên tục vĩnh viễn in hình vào phong cảnh
ngưng đọng không thay đổi.
-"Cũng chẳng phải
đã có chuyện gì xảy ra". Tôi nói. -"Voi và người nuôi voi
vẫn làm những chuyện thường lệ. Quét dọn, ăn, hay đùa
cợt tí chút thật thân mật, thế thôi. Những chuyện ngày
nào cũng làm ấy. Duy có điều anh bận tâm một tí, đó là
vẻ thăng bằng của họ đêm ấy".
-"Thăng bằng gì
kia?"
-"Nghĩa là thăng
bằng về kích thước đấy mà. Thăng bằng tương đối giữa
kích thước thân thể của voi và người nuôi voi đấy. Anh
có cảm giác có chút gì khác lạ trong sự thăng bằng ấy.
Khác với mọi ngày, đêm ấy, cách biệt về kích thước thân
thể giữa voi và người nuôi voi có vẻ nhỏ bớt đi".
Nàng nhìn đăm đăm
vào ly daiquiri trên tay một hồi. Nước đá tan chảy như luồng
nước biển len lỏi giữa các khe hở của rượu pha mà chìm
xuống đáy ly.
-"Nghĩa là thân
thể voi nhỏ bớt đi, phải thế không?"
-"Hoặc là thân
thể người nuôi voi to lớn thêm, hoặc là cả hai chuyện ấy
đồng thời xảy ra, thế đấy".
-"Anh không báo cáo
điều ấy cho cảnh sát chứ gì?"
-"Tất nhiên rồi".
Tôi nói. -"Chuyện như thế có báo cáo, cảnh sát chắc chắn
cũng chẳng tin cho, mà còn thêm nguy cơ mình trở thành người
bị tình nghi nữa, vì đã leo núi sau lưng chuồng voi mà xem
voi để làm gì vào giờ đó".
-"Nhưng mà, thăng
bằng ấy khác hẳn mọi ngày thường, là điều anh chắc chắn
chứ?".
-"Có lẽ thế".
Tôi nói. -"Anh chỉ nói được là có lẽ thế thôi. Không có
chứng cớ gì, mà như đã nói lắm lần là anh đã chỉ dòm
thấy qua ống thông hơi mà thôi. Nhưng mà, anh đã vài chục
lần nhìn ngắm voi và người nuôi voi ấy trong cùng một điều
kiện như thế rồi, nên chuyện mất thăng bằng về kích thước
của họ thì không thể nói là anh đã nhìn nhầm được".
Mà đúng thế, lúc
ấy tôi cũng nghĩ có thể là ảo tưởng thị giác, nên đã
nhiều lần nhắm mắt lại, lắc mạnh đầu rồi nhìn kỹ
lại, nhưng có nhìn đi nhìn lại bao nhiêu lần đi nữa, vẫn
thấy kích thước con voi có vẻ là-lạ như thế. Quả thật
tôi đã thấy con voi như đã rút nhỏ bớt. Đến nỗi lúc
đầu tôi tưởng là thành phố đã mang đâu về một con voi
mới nhỏ hơn. Thế nhưng tôi đã chẳng bao giờ nghe nói chuyện
có voi mới cả -gì chứ chuyện voi thì tôi không bao giờ bỏ
sót một tin tức nào trên đài hay báo chí-. Thế thì, chỉ
có thể nghĩ được rằng con voi già ấy đã vì lý do gì đấy
mà thình lình rút nhỏ lại mất, chứ không còn cách suy nghĩ
nào khác nữa. Mà nhìn cho kỹ thì cử chỉ của con voi thu
nhỏ ấy hoàn toàn giống y chang cử chỉ thường ngày của
con voi già. Lúc được lau rửa, voi có vẻ vui thích, chân phải
giậm giậm lên mặt sàn và chiếc mũi có phần rút gọn bớt
ấy xoa xoa lên lưng người nuôi voi.
Thật là một quang
cảnh kỳ dị. Từ khung cửa ống thông hơi chăm chú dòm vào
bên trong như thế, tôi có cảm tưởng cứ như là chỉ bên
trong chuồng voi ấy có một dòng thời gian riêng đang trôi
đi lành lạnh trên da. Và voi cùng người nuôi voi hoan hỉ buông
thả cho cái thứ nguyên mới ấy đang gắng sức bao cuốn cả
hai vào trong -mà thật cũng đã bao cuốn được một phần
của họ rồi-.
Tôi nghĩ là toàn
bộ thời gian tôi đã ngắm bên trong chuồng voi lúc ấy là
khoảng không đến 30 phút. Đèn trong chuồng voi đêm ấy tắt
sớm hơn lệ thường nhiều, lúc 7 giờ 30 đã tắt ngúm hết,
từ đấy tất cả bao trùm trong bóng đêm. Tôi vẫn còn nán
lại đấy, chờ xem đèn trong chuồng voi được bật sáng lên
trở lại chăng, nhưng không thấy.
Đấy là lần cuối
cùng tôi nhìn thấy con voi ấy.
-"Vì thế nên anh
nghĩ là voi đã cứ thế tiếp tục nhanh chóng rút nhỏ lại
rồi chui lọt qua kẽ rào mà thoát ra mất, hoặc là rút nhỏ
đến biến tiêu đi mất, phải thế không?"
-"Anh không rõ".
Tôi nói. -"Anh chỉ gắng nhớ lại càng chính xác càng tốt
những gì mà mắt mình đã thấy được, thế thôi. Những
gì hơn thế nữa thì anh hầu như không nghĩ đến. Những gì
thấy được đã cho anh ấn tượng quá mãnh liệt, nên thành
thật mà nói thì anh không sao nghĩ ra được chuyện gì hơn
thế, như là từ đấy mà suy đoán ra thêm điều gì khác".
Đấy là trọn bộ
những điều tôi có thể nói về chuyện con voi biến mất.
Như tôi đã dự tưởng từ đầu, câu chuyện này quá đặc
thù và tự nó cũng quá hoàn-kết để có thể dùng làm đề
tài nói chuyện giữa một đôi thanh niên nam nữ vừa mới
quen biết nhau. Tôi kể chuyện xong, cả hai im lặng một hồi
rõ lâu. Sau câu chuyện con voi biến mất hầu như chẳng cho
thấy chút manh mối gì cả ấy, cả tôi lẫn nàng đều bối
rối không biết nên đưa ra loại đề tài nào để chuyện
trò tiếp với nhau. Nàng miết ngón tay lên thành ly rượu pha,
tôi đưa mắt đọc đi đọc lại hàng chữ trên miếng lót
tròn dưới ly, khoảng 25 lần. Quả thật, đáng lẽ tôi đừng
đem chuyện voi gì đấy ra nói thì hơn. Bởi chẳng phải là
chuyện có thể thổ lộ được với người nào.
-"Ngày xưa, có lần
con mèo nhà em nuôi đã biến đi đâu mất". Một lúc rõ lâu
sau, nàng nói. -"Nhưng mà, con mèo biến mất, với con voi biến
mất, chuyện lại khác nhau đến như thế".
-"Khác nhau hẳn
chứ. Kích thước đã khác nhau đến không so sánh được kia
mà". Tôi nói.
30 phút sau, chúng
tôi chia tay ở cửa khách sạn. Nàng chợt nhớ ra là đã bỏ
quên cây dù trong quán rượu, nên tôi lên thang máy đi lấy
cho nàng. Cây dù màu gạch có tay cầm to bản.
-"Cảm ơn anh". Nàng
nói.
-"Ngủ ngon nhé".
Tôi nói.
Từ đó, tôi không
còn gặp nàng nữa. Chỉ có một lần nói chuyện qua điện
thoại về chi tiết bài viết quảng cáo thôi. Lần ấy, tôi
đã rất muốn mời nàng đi ăn hay gì đấy nhưng cuối cùng
đã không rủ. Bởi trong lúc nói chuyện qua điện thoại, tôi
chợt cảm thấy chuyện mời mọc ấy thì sao cũng chẳng sao
cả. Cảm tưởng như thế tôi thường có từ khi có chuyện
con voi biến mất. Mỗi khi định làm thử việc gì, tôi lại
không còn thấy được sự khác biệt giữa hai kết quả tất
yếu, từ sự thực hiện việc định làm, với sự trốn tránh
không làm việc ấy. Thỉnh thoảng, tôi cảm thấy có vẻ sự
vật chung quanh mình đã mất đi sự thăng bằng chính đáng
cố hữu của chúng. Cũng có thể đó chỉ là ảo giác của
tôi. Từ khi có chuyện con voi biến mất, bên trong tôi đã
có gì đấy mất thăng bằng, vì vậy mà sự vật bên ngoài
phản ảnh vào mắt tôi kỳ dị như thế không chừng. Trách
nhiệm ấy có lẽ ở phía tôi.
Tôi vẫn như thường
lệ, tiếp tục rao bán quanh quất những tủ lạnh, máy nướng
bánh mì, máy pha cà-phê, ... dựa trên những hình tượng tiện
nghi thực dụng còn sót lại của ký ức trong một thế giới
chuộng tiện nghi thực dụng. Tôi càng gắng tỏ ra thực dụng
thì càng bán được nhiều sản phẩm -đến nỗi cuộc vận
động khuyến mãi của chúng tôi đã thành công vượt cả
mức dự tưởng lạc quan nhất của chúng tôi-, tôi lại càng
được nhiều người mời đón hơn. Có lẽ thiên hạ đòi
hỏi tính thống nhất gì đấy trong cái nhà bếp khổng lồ
là thế giới loài người. Thống nhất về kiểu mẫu, màu
sắc, cơ năng.
Tờ nhật-báo hầu
như không còn đăng ký sự gì về chuyện con voi nữa. Có vẻ
mọi người đã quên đi mất chuyện ngày trước, thành phố
của họ đã có một con voi. Sân voi cũ, cỏ mọc dày đã héo
khô, chung quanh đã bảng lảng hơi hướm mùa đông.
Voi và người nuôi
voi đã biến mất rồi, họ không còn trở lại nơi này lần
nào nữa.
Chú thích:
[1] Tự Vệ Đội: Theo
Hiến pháp hiện hành được lập nên từ chiến bại
trong Thế chiến thứ Hai, Nhật Bản chỉ có Tự Vệ Đội
thay vì Quân đội chính quy.
Truyện ngắn "Con voi biến mất - Zô no Shometsu" đã đăng
trên tập san "Bungakkai - Văn Học Giới" số tháng 8 năm 1985,
là truyện thứ 7 trong tập truyện "Đom
Đóm" từ Nhà xuất bản Ðà Nẵng, quý 1 năm 2006. |