The battle of White Mountain. Tranh Pieter Snayers
Trận đánh giữa Thiên Chúa Giáo và Tin Lành ở Bohemia
1618-1625
Hiện
đang xẩy ra nhiều biến động xã hội cho thấy hình như có
một nền văn hóa thù hận bao trủm một số quốc gia, nhất
là Âu Mỹ. Nhiều nơi có những phân biệt, kỳ thị, xung đột
gay gắt, trên các vấn đề: nữ quyền, đồng tính, Hồi giáo,
di dân, da trắng, da mầu, bạo lực cảnh sát, chênh lệch giầu
nghèo, dị biệt tôn giáo, bất đồng chính kiến... Những
biểu tình, phản kháng rất dễ thổi bùng thù ghét âm ỉ
thành cơn bão táp thù hận, gây nên đốt phá, bạo loạn,
phương hại mọi mặt cho xã hội. Xã hội nào cũng có trộn
lẫn thù ghét và yêu thương. Nhưng phải chăng văn hóa Tây
Phương thiên về thù hận nhiều hơn so với Đông Phương ?
Nhận
xét đầu tiên là trong suốt lịch sử tiến hóa của con người,
thì thời gian lâu dài thuở sơ khai con người sống hòa thuận
thương yêu nhau nhiều hơn: mẹ yêu con và cần hợp tác với
người nam để cùng sinh tồn và họp thành nhóm nhỏ để
giúp đỡ, bảo vệ nhau. Đến khi hết giai đoạn du mục, tập
trung thành làng, bộ tộc thì mới nẩy sinh đố kỵ, cạnh
tranh, ghen ghét, thù hằn. Ngày nay chỉ tại vài bộ tộc ở
Phi Luật Tân, Polynesia, Micronesia, New Guina, Rocky Mountains... hay
nước nhỏ như Bhutan thì xã hội mới có nhiều yêu thương,
hợp tác, rất ít bạo động, sát nhân, chiến tranh. Đời
sống hạnh phúc, thân thiện, tình dục phóng khoáng, không
bị dồn nén, ức chế, rất hiếm ghen tuông, xung đột tình
cảm...
Tuy
nhiên từ xưa tại một một số nơi khác như Aztecs (Mexico),
Jivaro (Ecuador), vài bộ tộc Úc, văn hóa thù ghét xuất hiện
với bầu không khí bất hòa, thù hận, bạo động, sợ hãi
vì xung đột dễ dẫn tới đánh nhau, chết chóc. Yêu thương
chỉ trong phạm vi nhỏ hep gia đình, thân thuộc, bộ tộc,
nhưng với bộ tộc khác thì lại hiếu chiến, xâm lăng. Tình
dục có tính chất chiếm đoạt, ít tin tưởng nhau, coi như
biểu thị thắng lợi, địa vị, hơn là yêu thương thực
sự. Phụ nữ và trẻ em không được tôn trọng. Dĩ nhiên
đời sống ít hạnh phúc, nhiều căng thẳng.
Văn
minh Tây Phương coi như bắt đầu khoảng 500 BC khi Hy Lạp thoát
khỏi cai trị của Ba Tư, thiết lập nền dân chủ đầu tiên
của nhân loại và kéo dài được khoảng 200 năm. Nhưng chiến
tranh sau đó với láng giềng tạo nên những tàn khốc dã man
như hạ sát hết địch nhân, bắt phụ nữ, trẻ em làm nô
lệ. Dân chủ Hy Lạp thực chất không có mấy vì dựa trên
nô lệ và áp bức phụ nữ, thiếu hẵn những tính chất dân
chủ như nhân ái, công bằng, yêu thương, nhân hậu, chăm sóc
người nghèo, trẻ em....Can đảm được đồng hóa với bạo
động, giết chóc. Các thần cũng hiếu chiến. Người và súc
vật coi như có bản tánh bạo động. Phụ nữ là đáng sợ,
bị thù ghét, trấn áp, bóc lột. Xã hội là của đàn ông,
và đàn ông phóng túng, lại còn được đồng tính luyến
ái với thiếu nam.
Văn
minh La Mã tiếp theo với các vua chúa như Claudius, Nero, Caesar...
chủ trương vui hưởng hiện tại (carpe diem) tha hồ dâm
dục, và đồng thời chè chén say sưa, truy hoan liên tục, bạo
động thả giàn. Thú vui tàn ác là xem các giác đấu (gladiator)
chém giết nhau, hoặc chống cự lại thú dữ để khỏi bị
ăn thịt. Xã hội đầy cảnh sát, điềm chỉ, nghi kỵ lẫn
nhau, thiếu yêu thương, nhân ái. Thống trị độc tài, quân
phiệt, phát sinh nhiều nổi loạn của nô lệ và khi đánh
dẹp thi tàn nhẫn hạ sát thẳng tay. Cộng hòa La Mã là một
xã hội thù hận, bạo động, bất trắc, không thanh bình.
Yêu thương chỉ là nặng về thỏa mãn nhục dục, phô trương
thắng lợi.
Năm
AD 312 Constantine cải đạo khiến Thiên Chúa Giáo trở thành
quốc giáo và ảnh hưởng rất lớn đến văn minh và lịch
sử Âu châu, mặc dù sau dó hợp tác của các giáo hoàng và
các hoàng đế có xung đột, gián đoạn một thời gian dài.
La Mã muốn chinh phục thế giới có lẽ đã gợi hứng cho
giáo hoàng có ý muốn đạo mình cũng phải được truyền
bá toàn cầu.
Đạo
Chúa với lý tưởng bác ái, yêu người, không bạo động
chém giết.... như là một phản ứng lại cái dã man, tàn ác
của La Mã trên thực tế không cải thiện được nhiều cho
xã hội. Bản thân bị tát nếu chìa thêm má kia ra thì chỉ
bị bức hại thêm. Tình yêu Chúa, yêu nhân loại rõ quá không
tưởng, nhất là tính dục bị hạn chế thật khó thực hiện
cho đạo cũng như đời. Và sau cùng giáo hội cũng phải chấm
dứt cái trò đạo đức giả (giáo sĩ âm thầm có bạn tình),
quy định muốn đi tu phải độc thân.
Trong
khi đó, bỗng nhiên được cấp đất đai và quyền lực, không
còn thuần túy tôn giáo như xưa, giáo hội bị cám dỗ bởi
tham sân si của con người, đã thỏa hiệp với đời thường,
tha hóa. Trong lịch sử dài tới khoảng AD1500 giáo hội đã
nhiều lúc sa đọa, tàn nhẫn với những bức hại giết chóc
các người cho là dị đoan, tà giáo.. Các thánh chiến (crusade)
chống Hồi Giáo, dị giáo, hoặc cùng thờ Chúa mà khác giáo
kiến.... đã giết hại hàng triệu người trong nhiều thế
kỷ, văn hóa thù hận bao trùm toàn Âu châu. Chưa kể các giáo
tòa (Inquisition) săn lùng phù thủy, bức hại, hỏa thiêu
biết bao phụ nữ vô tội. Tóm lại Thiên Chúa Giáo tuy rao
giảng yêu thương nhưng thực chất không ảnh hưởng nhiều
đến văn hóa thù hận ở Âu châu. Tillich cho rằng Roman Catholicism
nhiều tính Rome hơn là Catholicism.
Thế
kỷ XII Âu châu đâu đâu cũng bạo lực: chiến tranh, giết
chóc, lạm quyền... Giáo hội lo tiêu diệt kẻ thù của mình
hơn là cứu rỗi linh hồn. Có người đề xuất khẩu hiệu
"Bình an của Chúa" (Peace of God) để bảo vệ một
hạng người hoặc vật nào đó, sau nhân rộng ra cho nhiều
người, rồi cuối cùng cấm bạo động một số ngày. Có
người như Le Puy lập hội huynh đệ rao giảng hòa bình. Đặc
biệt xuất hiện phong trào bảo vệ và tôn sùng phụ nữ thường
là một phu nhân (lady), coi đây như một loại tình yêu lãng
mạn (romantic love). Phong trào xuất phát từ cung đình,
nhưng sau lan ra đại chúng. Đàn ông nhờ vậy bớt bạo động,
kiềm chế được tức giận, hiếu chiến trong nội tâm, lại
còn cảm thấy biết thương mẹ, chị em gái. Nhưng do phức
tạp tâm lý của đàn ông đối với đàn bà, nên sau này sùng
bái lại biến thành lo sợ, sinh ra trấn áp, rồi tuân theo
giáo hội đi săn lùng phù thủy, góp phần giết hại hàng
trăm ngàn phụ nữ vô tội.
Các
đạo Thiên Chúa, Hồi giáo, Do thái giáo đều tôn thờ một
đấng Tối Cao và không thiện cảm, hay đúng hơn, thù ghét
kẻ ngoại đạo. Ba tôn giáo đều rao giảng hòa bình, nhân
ái, nhưng lại cạnh tranh nhau truyền đạo, sinh ra thù nghịch
và xung đột đẫm máu như lịch sử đã ghi lại. Thành thử
trên thực tế ba tôn giáo này không đóng góp được nhiều
trong giải tỏa căng thẳng, thù ghét có trong văn hóa Âu Mỹ.
Gần đây nhóm Thiên Chúa căn bản cực hữu (fundamentalist
right) ở Mỹ muốn trở lại nắm quyền như Giáo hội trước
kia, có cả một hệ thống truyền thông khổng lồ, một bộ
máy chính trị điều hợp chặt chẽ, một hệ thống giáo
dục độc lập tích cực. Mục tiêu của họ là Thiên Chúa
hóa toàn quốc, nắm giữ các vị trí trong chính phủ, chiếm
lĩnh quyền lực, giảng dạy giáo lý như khoa học tại các
trường, quy định sống thế nào là có ý nghĩa, và cuối
cùng là cải đạo, điều hướng mọi người trên quả đất,
tất cả đều nhân danh Chúa. Một giáo lĩnh hung hăng như thế
chẳng thể nào làm dịu thù hận trong xã hội.
Hai
tôn giáo ôn hòa là Nho giáo và Phật giáo, không thờ đấng
Tối Cao mà chú trọng nhiều đến tu thân, sống hòa thuận,
bớt tham sân si, không nhiều tín hữu ở Tây Âu; tuy nay cũng
tạo được một ảnh hưởng nhỏ nhưng không đủ mạnh để
làm giảm bớt thù hận.
Bên
cạnh những cải cách tôn giáo, còn có nhiều cải cách của
các nhà xã hội như Saint Simon (Pháp), Noyes (Cộng Đồng Oneida
Mỹ) đề cao chủ nghĩa xã hội, muốn cho xã hội tốt đẹp
hơn. Tuy nhiên chỉ hiệu quả bước đầu ở quy mô nhỏ, không
thể thực hiện nếu mở rộng. Cũng vậy, nhiều cuộc cách
mệnh (Pháp 1789, Nga 1917...) với những khẩu hiệu rất hấp
dẫn về bình đẳng, công lý, xã hội chủ nghĩa, cộng sản
chủ nghĩa... nhưng thực tế sau đó cho thấy luôn luôn lại
xuất hiện một giai cấp mới cũng bóc lột, đàn áp như trước
đó. Chưa kể hai cuộc Thế Chiến mà các nước khởi sự
(Đức, Nhật, Ý) hứa hẹn đem lại thịnh vượng cho quốc
gia liên hệ, đã sát hại triệu triệu người trên thế giới,
gieo rắc bao hận thù. Không chỉ Âu Mỹ, mà thế giới ngày
nay luôn luôn bị bao trùm bởi bầu không khí nghi kỵ, thù
nghịch.
Nhờ
phong trào tình yêu lãng mạn, phụ nữ trở nên tâm điểm
phát khởi nghiên cứu về tình yêu, tình dục sau này của
các nhà tâm lý như Freud, cũng như gây nên cách mạng tình
dục và giới tính. Muốn sống hạnh phúc không thể không
có tình yêu là chỗ trốn lánh cuộc sống nghiệt ngã ngoài
đời. Thực tế, đây là hòa hợp tình và dâm (love and sex)
của nam nữ, có thế mới đạt hạnh phúc, chứ không phải
sống gượng ép theo giáo lý, đưa đến ức chế, bất ổn
tâm thần, khó hòa thuận. Nhưng mặt khác phong trào nữ quyền
lại làm nổi cộm xung đột phái tính trên nhiều vấn đề
(sách nhiễu tình dục, bạo hành gia đình, bất công làm việc
cũng như lương bỗng...) không làm cho xã hội hòa thuận hơn.
Tuy nhiên sau cùng nhiều người phải công nhận dẫu sao định
chế gia đình vẫn là chỗ dựa tốt nhất cho đời sống hạnh
phúc hòa thuận, thỏa mãn tình dục, bảo vệ phụ nữ, trẻ
em, và là tiền đề để tiến tới một xã hội tốt đẹp
hơn.
Nhìn
lại lịch sử ta thấy nhiều cố gắng của tôn giáo cũng
như tổ chức văn hóa xã hội hoặc nhà cải cách xã hội
đều không mấy hiệu quả để con người bớt thù ghét và
thương yêu nhau hơn. Lấy Tây Phương làm điển hình vì nơi
đây nhiều cột mốc văn minh loài người, hiện tượng thù
ghét có mức độ cao hơn, rõ hơn, đa dạng hơn, chứ thực
tiễn đâu đâu cũng xuất hiện ít nhiều cái đặc tính này.
Thành thử người ta tự hỏi: phải chăng con người bản tính
ác nên khó cải thiện?
-Có
thể con người chưa bỏ hết được thói rừng rú của thủy
tổ là khỉ, nên có tính bạo động, hiếu sát.
-Có
thể từ khi lọt lòng, được thỏa mãn đủ thứ, cái "tôi"
to đùng; khi lớn lên không phải luôn luôn được như ý, sinh
ra tức giận, ghen ghét đố kỵ người hơn mình. Ngay trong
Kinh Thánh, Cain giết anh là Abel chỉ vì ghen ghét.
-Có
thể muốn chứng tỏ không phải yếu đuối, phi độc bất
trượng phu, làm trai phải cứng rắn bạo động mới chứng
tỏ can đảm.
-Có
thể tự cao, tự đại, coi thường, khinh ghét người kém hơn
mình.
-Cũng
có thể chỉ vì khác mình về điểm này điểm nọ mà ta ghét
họ....
Rất
nhiều nguyên do, đôi khi khó giải thích.
Vậy
thì đành bó tay không hy vọng cải thiện hay sao? Tuân Tử
cho rằng người tính vốn ác, nhưng ông bảo "Nhân chi tính
ác, kỳ thiện giả ngụy dã". Bản tính người là ác,
nhưng bản thân đó có thể cải tạo được nhờ cái thiện
do con người tạo ra - cái thiện đó là sản phẩm của giáo
dục, lễ nghĩa và hình phạt... Hình phạt thì không có vấn
đề, nhưng giáo dục và lễ nghĩa xét theo hiện tại xem ra
có vẻ lỏng lẻo, thiên hạ chỉ chú ý đến nhồi nhét kiến
thức, kiếm được job tốt, học vài phép lịch sự để dễ
giao tiếp, suốt ngày dán mắt vào iphone, ngay tình cảm gia
đình giữa vợ chồng, con cái, ông bà cũng thật nhạt nhẽo,
xa lạ với đạo lý luân thường, trở nên vô cảm, khó có
thể với tay ra người ngoài nói chi đến thương yêu.
Thiết
tưởng mỗi người nên thức tỉnh, bớt nô lệ kỹ thuật
để khỏi trở thành người máy vô cảm, và phải tự mình
tu tâm dưỡng tánh, có lòng bao dung nhân hậu, chuộng sự công
bằng, sống hòa thuận với mọi người. Mặt khác, chủ nghĩa
xã hội và cộng sản là sai lầm không tưởng, nhưng hệ lụy
của chủ nghĩa tư bản thì vẫn còn và trầm trọng hơn ngày
trước, cho dù đã được che đậy tinh vi. Ngày nay chênh lệch
quá lớn giữa thiểu số người giầu và đại đa số người
nghèo đã tạo nên bất mãn, thù ghét âm ỉ, chỉ chờ dịp
là bùng lên qua đốt phá, bạo loạn. Cho nên đang có những
nghiên cứu để tái phân phối lợi tức một cách công bằng
hợp lý hơn. Hy vọng rằng nhờ tất cả những cố gắng của
cá nhân và tổ chức công quyền cũng như tư nhân, trong tương
lai sẽ có một xã hội bớt thù nghịch và tốt đẹp hơn.