Sáng
hôm nay ngày Chúa Nhật. Chứ không phải Chủ Nhật sao? Nhưng
có thể là Tinh Kỳ Nhật 星期日 theo Hán việt giản
thể. Ngày đợi Cứu tinh. Nghe mỹ miều lại có vẻ
hân hoan vì chờ đợi.
Không biết hôm
nay có thể là Chủ Nhật buồn (theo nhạc sĩ phản chiến Tịnh
Công Sơn) không? Có thể không, vì trời dở dở ương ương.
Nắng chưa lên hoàn toàn tuy đã chín mười giờ. Mây không
biết mây chi, cũng ương ương giữa xanh và xám. Nhưng chắc
lúc ngọ nắng đem 80F đến, thật là nóng cho miệt biển.
Những nơi núi non sa mạc ở Cali thì nhiệt độ lên 100F-120F
hay nhiều hơn, dễ như chơi. Bên Tây Âu bây giờ ai cũng tự
xưng là Sinh thái học, ra ứng cử là có phiếu ngay,
những lúc trời "nổi nóng" như hôm nay, thì tha hồ mà la mà
hét. Ba Lê và các tỉnh khác nước Pháp nhiệt độ đang nổi
nóng, dân chúng phần thì Cô vít phải bịt mặt, phần thì
công sở nhà cửa bé không có máy điều hoà không khí, nên
các ông các bà Sinh thái học tha hồ mà vận động quần chúng.
Cho nên lòng người
không thể phơn phớn được ngay buổi sáng hôm nay. Ông phải
gió họ Trịnh có Chiều Chủ Nhật buồn lấy cớ làm nhạc
phản chiến, Hán việt nhiêu khê viết, bi thương tinh kì
thiên 悲伤星期天, có chữ thiên, tức trời Chủ Nhật
buồn, chứ Chủ Nhật không buồn.
Tôi lại đang u
ám nghĩ đến một ông bạn nối khố cách đây ít lâu có
imeo cho ông anh tôi.
"Sau khi Bảo đi
Tây (1964), không biết tại sao tôi gặp Anh Chị H. và anh chị
H. rủ và cho tôi đi ăn "cua rang muối", đi vào nhà hàng thứ
1 anh H. chê dở, ăn không được nên anh H. bỏ để đi qua
nhà hàng thứ 2, qua nhà hàng thứ 2 anh H. bảo ăn cũng được
nhưng không được lắm. Khi đứng dậy định đi về thì anh
Hoàng quyết định đi nhà hàng thứ 3. Đi nhà hàng thứ 3 thì
anh Hoàng mới tuyên bố thực sự "đã quá"!
Xin nhắc lại
anh H. cho vui và để chứng minh phần nào là cái ăn cũng là
một trong những cái khoái lạc trên Thiên Đàng Trần Gian này.
"
Đấy đấy, ông
bạn của tôi tuy có bệnh kếch xù, mà lạc quan, vẫn xem đời
là "cái mõm chó". Ông ta khi quen nhau từ thuở Thiên hữu học
đường, đã có chí khí của kẻ Hưởng lạc chủ nghĩa, Épicurien,
đồ đệ trung thành của cụ Épicure.
Vậy thì tuổi già
cũng đừng heo hắt, cứ theo chủ nghĩa hưởng lạc mà thấy
đời vẫn đẹp như hoa soan của thuở nào. Cứ thế trời
Chủ Nhật không buồn. Cái hưởng lạc nơi Lượng là trong
chí khí của y. Đương thời mua vui, lúc tra nghĩ chuyện xưa
mà còn vui lây. Thật là một hảo hán có khí phách vậy. Tôi
thương y, nên có lúc xa cách, buồn mà rướm mắt. Tình bằng
hữu mà.
Chuyện vui buồn
sáng chủ nhật đến đây chấm dứt thì không đặng. Đâu
có thể ngắn dài suông như thế được. Nên nghĩ đến những
chuyện vui mà tờ mờ sáng đã được hưởng. Hưởng lạc
như ông bạn của tôi.
Số là tôi sáng
tinh mơ hôm nay, bỗng dưng đọc bài "Phạm thiên Thư, có
ngần ấy thôi". Bài phê bình của Nguyễn Đức Tùng trên
Nét Sông Hương.
Thú thật lâu lâu
tôi cũng hay đọc những bài viết tham khảo về thi ca viết
về Phạm thiên Thư. Tôi chưa đọc toàn bộ thi phẩm của
ông. Tôi phục và nể ông cũng vì các bài thơ của ông đều
là những lời ca. Thơ có âm thanh. Lúc Phạm Duy phổ nhạc
cũng chỉ là tiếp nối của những bài thơ.
Tôi nghĩ người
ta biết nhiều về Phạm thiên Thư qua những bài hát Phạm
Duy.
Bài của Nguyễn
đình Tùng hiện đại, đăng hôm 03/07/2020. Lý luận Phê bình
của ông cũng có dấu hiệu hiện đại. Nguyễn đình Tùng
cũng như Người nhà Trời Đặng Tiến, phê bình gia thi văn
mà cũng là cố tri, thương tiếc câu thơ "Rằng xưa có gã
từ quan". Câu thơ, mà cũng là câu hát quen thuộc nơi quần
chúng trong bài phổ nhạc Phạm Duy.
Ông Tùng có kể
" Tác phẩm thành công là do trời cho, không phải cố là
được" để nói về Phạm thiên Thư và Bùi Giáng. Cho nên
đã lâu tôi vẫn ca ông Đặng Tiến là người nhà trời. Ganh
tị thì cũng không bằng được ông ta. Thế mà có lúc sảng
khoái y lại nói: cho tớ đổi một đời của tớ lấy một
ngày của ông. Phải chi tôi ừ một cái, thì ôi thôi chúng
ta không có người nhà trời hôm nay.
Đến đây xin nhắc
đến một cố tri nối khố khác. Ông ta không đánh giá cao
thơ của Phạm thiên Thư. Ổng imeo tôi:
"… Tớ thấy nếu
không nhờ nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc vào thơ Phạm thiên
Thư với 2 bài: "Ngày xưa Hoàng Thị" và "Đưa em tìm động
hoa vàng" thì chắc cũng không có nhiều người biết đến
thơ của Phạm Thiên Thư.
Đọc nguyên bản
2 bài thơ được Phạm Duy phổ nhạc, với đôi tai không "thẩm
âm" của tớ, tớ chẳng nghe được chi là du dương là êm
ái, nói tóm lại là êm tai nhờ vào âm bằng, âm trắc sắp
xếp theo một quy luật hợp lý của từng thể thơ như Lục
bát, Song thất lục bát vv...
Tớ đọc đi đọc
lại nguyên bản bài "Em tan trường về", nghe trúc trắc, không
"thơ" chi mô hết, ngoài một vài từ ngữ "siêu" đối với
độc giả "bình dân học vụ". Nếu không biết tác giả là
Phạm Thiên Thư thì chắc không mấy ai đánh giá cao loại thơ
này.
Thơ tự do không
cần luật lệ, nhưng cũng có nhiều bài đọc lên êm tai như
có nhạc trong đó, chẳng hạn thơ Nguyên Sa, dù không phải
bài thơ nào của Nguyên Sa cũng hay, cũng êm tai.
Theo tớ, Thơ thì
phải là "thơ", nghĩa là êm ái, nhẹ nhàng, du dương, chứ
trúc trắc, dùi đục chắm mắm nêm thì không phải là thơ.
Loạn bàn cho vui chút thôi, trong mùa Đại dịch Corona
Virus."
Ông bạn này rất
sính thơ. Ông ta thường xuất khẩu làm thơ hay. Tôi nghĩ lão
này nói đúng trên phương diện "thổ âm". Tôi có viết, thơ
ông Thiên Thư rất Bắc kỳ, rất Hải phòng. Đọc thơ ông
thấy cộng hưởng, phù hợp, hoà âm cho những lỗ tai "Bắc
kỳ Hải phòng". Cái nhẹ nhàng êm ái du dương ở một thi
phẩm có lúc chủ quan. Nói ngay, thơ họ Phạm chỉ là một
gặp gỡ tình cờ thích thú ở cái cá tính thi sĩ đi tu tạm
bợ đem ít nhiều Phật lý vào thơ, và ở caí thổ âm nơi
sinh quán của ông ta. Tôi nghĩ Phạm Duy cũng gặp Phạm thiên
Thư ở hai điểm này để mà tri âm tri kỷ.
Nói thêm thơ ông
Thư không siêu, có thể chỉ là tầm thường, hào hoa một
thời thì có, hợp thời lúc đó thì có. Cái phù du do đó
cũng có. Đọc thơ họ Phạm thấy vui mà không thấy thấm
thía. Cho nên phục ông chỉ là chốc lát. Miệng thế gian khó
đo được, nói năng khi mẫn cán khi thô tục hoặc hay, lại
có khi siêu. Thơ cũng thế mà thôi. Và không thể ví thơ Phạm
thiên Thư với Bùi Giáng được. Đặng Tiến viết đúng …
"Thời
đại cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng
hơn. Nhưng đại thể vẫn vậy."
Nguyễn Đức Tùng
đưa ra nhận xét cấu trúc hư từ trong thơ Phạm thiên
Thư. Tỷ như:
Em tan trường
về ... Thôi thì thôi nhé ... Có ngần ấy thôi ...
Và kể Kiều: Ái
ân ta có ngần này mà thôi...
Tôi không hiểu
rõ ẩn ý của Nguyễn đình Tùng khi nói những câu thơ trên
là cấu trúc "hư từ, chẳng có nghĩa gì nhiều lắm."
Tôi không thấy
hư từ. Chỉ là những điệp vận, láy … viết thơ cũng như
ca dao, reo lên những nốt nhạc.
Bởi vì: Leo lên
cành bưởi rưng rưng. Đó là hứng thơ, cũng có thể trong
tiềm thức có câu ca dao Trèo lên cành bưởi ... không
hái hoa mà rưng rưng, nó anh ách nằm ở đó.
Nhóm "rưng rưng"
là điệp vận, nhưng không phải hư từ. Hình ảnh và thanh
âm không đủ, vì cụm từ tượng nghĩa, tượng hình và tượng
âm. Tất nhiên "rưng rưng" đứng yên hay trong các văn từ khác
có thể là hay, nhưng tài Trời cho thi gia Thư viết, trèo lên
cành bưởi để mà ... rưng rưng. Hiểu ngắn ngọn ở đây,
rưng rưng là rướm nước mắt, khi buồn xốn xang.
Chuyện ngang trái
hoặc oan uổng là tại sao phải leo lên cành bưởi để mà
rưng rưng? Những người ngoại quốc không thông hiểu nhiều
Ca dao VN sẻ nói, leo lên cành bưởi chỉ là giới thiệu
để cất cánh ca ... rưng rưng. Thơ Phạm thiên Thư có
các bài khác cũng rưng rưng.
Ông Tùng gọi cấu
trúc điệp vận này là "tu từ". Tôi không rõ nghĩa hai chữ
này.
Nhiều điệp vận
hay cụm điệp vận, tự nó đã là Thơ, tuỳ người hiểu
và hàm thụ được ẩn ý.
Nguyễn đình Tùng
nói Phạm thiên Thư là người đầu tiên đưa những từ Phật
giáo vào thơ. Tôi không chắc như thế. Những cụm vô lượng,
vô thường, giả tưởng, vv ... có thể đã hiện diện
trong thi ca trước ông Thư. Tôi nghĩ thơ siêu thoát đã có
từ đời Nguyễn Trãi.
Bài phê bình của
Nguyễn đình Tùng khá dài, có viết về Đạo ca, đưa
ra những suy nghĩ, nhiều khi không thuyết phục, đối với
tôi. Ông có viết về các tuyển tập mới của Phạm thiên
Thư sau 75, Trại hoa đỉnh đồi (1975), Những lời
thược dược (2007) và Hát ru Việt sử thi (2009).
Đặc biệt tập
Việt
sử thi dựa trên những biến cố lịch sử của sách Việt
Nam Sử Lược của cụ Trần trong Kim, chứ không theo những
sách giáo khoa của Xã hội chủ nghĩa, theo đó Lê Duẫn nói
không có Điện biên phủ và Võ nguyên Giáp trong lịch sử
VN cận đại.
Trong Những lời
thược dược:
Ai biết đất
nói chi
Trong những lời
thược dược
Đóa hoa như
giọt nước
Lóng lánh hồn
thiên thâu
Và ông cũng
kín đáo "cách mạng" trong bài Ngày mai. Nhưng thơ cách
mạng tuyên truyền thì ít khi hay.
Em đem bình minh
Về từng mắt
trẻ
Anh tưởng tượng
thôi
Đã rưng nghẹn
lệ
Yêu em vô kể
Cô giáo ngày
mai
Con đường tương
lai
Phạm gia có thể
không phải nằm vùng, sau tú tài 1, ông đi học Vạn Hạnh
và đi tu để trốn quân dịch. Khoảng 1973-1974 ông cởi áo
hoàn tục. Sau 1975, Xã Hội Chủ Nghĩa không biết đến ông,
không đánh không hận ông. Sau 75 ông đi làm việc tàm nham
kiếm sống, kể cả nghề mở tiệm Cà phê Hoa Vàng.
Mở ngoặc, kể
thêm chuyện Cô Ngọ trong bài thơ Ngày xưa Hoàng thị,
mới nghe tưởng như chuyện xửa xưa vú em ca ru ngủ. Không
đâu, cô Ngọ thật là Hoàng thị Ngọ.
Du tử Lê viết:
Như bài "Ngày
Xưa Hoàng Thị" với linh hồn là nhân vật Hoàng Thị Ngọ,
theo xác nhận của tác giả thì cũng chỉ là một nhân vật
xuất hiện thoáng qua trong những ngày còn cắp sách đến trường,
được nhà thơ nhớ lại…
Ông đi học tại
trường Trung Học Văn Lang, cách nơi ở chừng non một cây
số. Và, đó là nơi ông để ý tới một cô bạn học cùng
lớp tên là Hoàng Thị Ngọ, quê gốc Hải Dương, ở gần
nhà ông. Nhưng chỉ để ý thôi, không dám ngỏ lời. Hằng
ngày, khi xếp hàng vào lớp, Hoàng Thị Ngọ đứng đầu hàng
nữ, nổi bật với, mái tóc dài xõa vai mảnh dẻ, Phạm Thiên
Thư ngồi cuối hàng nam, chỉ im lặng ngắm nhìn. Rồi khi tan
trường, ông lẽo đẽo theo sau…
Rõ hơn, họ Phạm
tâm sự: "Cô ấy ôm cặp đi trước, tôi đi theo nhưng không
dám lên tiếng. Trong bóng chiều tà, ánh nắng hắt qua hàng
cây, cô ấy lặng lẽ bước, gây cho tôi những cảm xúc bâng
khuâng khó tả. Cứ thế, tôi chỉ biết lặng lẽ đi theo sau
cô ấy hàng ngày, giấu kín những cảm xúc của mình không
cho bất cứ ai biết".
Phải chăng chính
vì tính mơ hồ của linh hồn bài thơ, đã khiến nhiều người
đề quyết đó là người này. Hoặc là người kia, như một
thứ huyền thoại
Phạm Thiên Thư
và Du Tử Lê cùng được trao giải thưởng văn chương
toàn quốc VNCH năm 1973, về bộ môn thơ (chính xác là Du Tử
Lê về thơ, Phạm Thiên Thư về trường thi). Hình như, đây
là giải thưởng toàn quốc cuối cùng. Như điềm báo hiệu:
Cuối xuân ta
lại tìm qua
Tiểu thư chi
mộ thềm hoa dại tàn
Sớm thu ta đánh
đò sang
Bên đường
cỏ mộ lại vàng cúc hoa
Đóng ngoặc. Nhà
thơ Thư cũng là nhà tu cắc cớ, ở chùa mà vẫn viết, để
mở đầu của tập Động hoa vàng:
Mười con nhạn
trắng về tha
Như lai thường
tụ trên tà áo xuân
Vai nghiêng nghiêng
suối tơ huyền
Đôi gò đào
nở trên miền tuyết thơm
Hay:
Tiếng em hát
giữa giáo đường
Chúa về trong
những thánh chương bàng hoàng
Thi ngữ của Phạm
thiên Thư rất bắc kỳ, có khi rất Hải phòng, sinh quán của
ông. Thơ ông không ngọng và không lai, không gò bó, đọc suôi
như nước chảy.
Nền phía sau thơ
Phạm thiên Thư phần nhiều là Hoa, nhất là Hoa vàng. Với
ông Đặng Tiến, ông chỉ phê bình tập thơ Thiên Thư qua tập
Động hoa Vàng mà thôi. Về Động Hoa Vàng của Phạm thiên
Thư, bài viết năm 2011-2014 vào dịp Giáng sinh, có đăng
trên Nét Sông Hương.
Đọc phê bình của
Đặng Tiến là hồ hởi. Y viết nghĩa rõ ràng, chấm câu chính
xác.
Đặng Tiến: "Nhà
thơ Phạm Thiên Thư là một tác giả dồi dào, đã in ra hằng
vài ba trăm ngàn câu thơ, có lẽ kỷ lục về số lượng trong
nền văn chương tiếng Việt, vượt xa Bùi Giáng.
Nhưng câu thơ được
biết nhất, trước sau vẫn là :
Rằng xưa có
gã từ quan
Lên non tìm động
hoa vàng ngủ say
… Bình thường
không ai gọi ông quan bằng " gã ". Và " gã " đây là ai? Suốt
tập thơ Động hoa vàng, bốn trăm câu, ta không biết. Muốn
biết, ta phải đọc Đoạn trường vô thanh, phổ biến năm
sau, nhưng có lẽ sáng tác cùng lúc. Câu 621:
Học đòi theo
gã Từ quan
Bên chùa cởi
áo chuộc nàng dưới hoa
Mái chèo lãng
đãng yên ba
Thần Phù xõa
tóc la đà rong chơi
Rõ là chuyện Từ
Thức trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, học trò
giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, thời Mạc"
Thấy chưa Đặng
Tiến viết chính xác. Không tai vách mạch rừng. Y viết như
thoi như đấm vào tim vào gan vào cật. Không phải phê bình
khơi khơi. Đọc thơ ông Thư mà không biết gã từ quan là
ai!
Đặng Tiến:
"Trong tùy bút
Ngã pháp mây nổi, 1969, Phạm Thiên Thư đã ca ngợi : " Giấc
ngủ say, giấc ngủ mệt thiếp, giấc ngủ chết lịm, giấc
ngủ của đạo gia. Giấc ngủ của kẻ đau nhừ thất bại
và hoan hỷ trong sự thành công mỹ mãn nhất (…) ; một giấc
ngủ không tham vọng, không chấp chặt vì tất cả đều thất
bại (…). Một giấc ngủ không tịch, gối đầu, duỗi chân
trên hai đỉnh tuyệt vô cùng ".
Dĩ nhiên, giá trị
của giấc ngủ chỉ hiển hiện sau khi chúng ta đã tỉnh dậy
và nhận thức, như trong thơ vua Trần Nhân Tông, vị tổ sư
của phái Thiền Việt Nam :
Thụy khởi khải
song phi
Bất tri xuân
dĩ quy
Nhất song bạch
hồ điệp
Phách phách sấn
hoa phi
Dịch :
Thức giấc mở
song mây
Xuân về, lòng
chưa hay
Song song đôi
bướm trắng
Phất phới cạnh
hoa bay
Tôi không hiểu
tâm phách của Đặng Tiến khi dài dòng về chuyện ngủ của
Phạm thiên Thư, không giây mơ rễ má gì đến Động hoa vàng,
nếu không phải để miên man con cà con kê đến bài thơ Xuân
hiểu của Trần Nhân Tông, thơ bằng Hán tự, mà nhà họ Đặng
có chuyển âm Việt ngữ. Xin đồng hành với y đôi chút.
春曉
Xuân hiểu
睡起啟窗扉,
Thụy khởi khải song phi,
不知春已歸。
Bất tri xuân dĩ quy.
一雙白蝴蝶,
Nhất song bạch hồ điệp,
拍拍趁花飛。
Phách phách sấn hoa phi.
Sáng sớm mùa xuân.
Ngủ dậy mở hai cánh cửa sổ, đâu biết mùa xuân đã về.
Một đôi bướm trắng, vỗ vỗ đuổi theo hoa bay. Viết theo
kiểu cắt ngang:
Ngủ dậy mở
hai cánh cửa sổ,
đâu biết mùa
xuân đã về.
Một đôi bướm
trắng,
vỗ vỗ đuổi
theo hoa bay
Trong thơ Vua dùng
hai chữ phách phách, tượng nghĩa tượng âm. Nguyễn Trãi:Xuân
vũ thiêm lai thủy phách thiên 春雨添來水拍天 (Trại
đầu xuân độ), nghĩa: Lại thêm mưa xuân, nước vỗ vào
nền trời.
Tiếc là khi chuyển
ngữ, Đặng Tiến không diễn được hai chữ phách phách. Tôi
có có đọc những bản chuyển ngữ khác, cũng chỉ vậy thôi.
Và ông thêm hai
chữ song song ở câu 3 là ngoại ý của nguyên bản. Song
đây nói đôi chim, lượng từ song có nghĩa đôi hay cặp. Diễn
Việt ngữ song song đôi bướm là không chuẩn. Ngoài ra ta ít
thấy đôi bướm bay song song. Thêm nữa ông viết
song song
đôi bướm cạnh hoa bay thật không đúng hẳn. Sấn 趁
trong nguyên bản là động từ, nghĩa đi, đi theo, đuổi
theo hay tìm kiếm. Thôi nói Đặng Tiến phỏng dịch vậy.
Vua cũng dẫn Hàn
Dực: Xuân thành vô xứ bất phi hoa 春城無處不飛花,
thành xuân không nơi nào là không có hoa bay.
Ngày xưa trên
giậu vàng hoa
Chiều chiều
kê chõng nằm ra ngó trời
(…)
Gây giàn thiên
lý vàng hoa
Lên non cắt
cỏ lợp nhà tụ mây
Xuống đầm
tát cá xâu cây
Bới khoai vùi
lửa nằm dài nghe chim.
Khách xa nhớ
đến nhau tìm
Lên đồi trẩy
một giỏ sim làm quà
Hứng nước
suối thết bình trà
Hái bầu nấu
bát canh hoa cười khàn
(khúc 89-97-98)
Đặng Tiến: Đây
chỉ là cảnh tưởng tượng mà thôi. Thực tế chưa bao giờ
thi vị, nhất là lý tưởng như thế. Người xưa có thể
kê chõng, gây giàn thiên lý, cắt cỏ, tát cá, bới khoai vùi
lửa… nhưng khó bề nằm dài nghe chim…
Ở đây xin bất
đồng ý với Người nhà Trời. Tại sao Đặng Tiến lại muốn
Thơ về với thực tế? Viết thơ là mơ là mộng. Viết thơ
lãng mạn không phải là sự giải phóng khỏi những ràng buộc
của câu thơ mà thôi, mà còn là mong muốn khám phá những
khả năng của nó để làm giàu sức biểu cảm của thơ Phạm
thiên Thư không viết thơ cho người xưa đọc.
Cú pháp của ông
thông qua việc sử dụng các phép cắt ngang những câu thơ
lục bát, để khi đọc thơ ông cứ như là ca một bài hát.
Đặng Tiến có
lúc viết: Thì không ai biết cô nàng mặc áo màu gì. Thậm
chí nàng có thực hay không, hoặc nàng chỉ là ảo ảnh của
thiên nhiên, thường xuyên thay áo.
… Người đọc,
nhất là người nghe nhạc, chú ý đến những câu thơ tình.
Ái tình ở đây chỉ làm đề tài cho thơ hồi tưởng. Những
cô áo hồng, áo xanh phơ phất, cho dù có mang một ít sắc
màu ký ức, cũng chỉ là đề tài thi ca, kết hợp nhuần nhuyễn
với toàn bộ tập thơ. Tình yêu ở đây là mơ mộng, trắc
trở, xa cách, nhớ nhung.
Ngày xưa em chửa
theo chồng
Mùa xuân em mặc
áo hồng đào rơi
Mùa thu áo biếc
da trời
Sang đông em
lại đổi dời áo hoa
…
…
Từ hôm em bỏ
theo chồng
Áo trắng em
cất áo hồng em mang
Đấy đấy, Thơ
là rứa đó sao Đặng Tiến lại hà tiện không cho Phạm thiên
Thư nằm dài nghe chim?
Về những điệp
vận, Đặng Tiến không sáng sủa:
"Phạm Thiên Thư
vẫn có thể làm được câu thơ hay:
Thôi thì em chẳng
yêu tôi,
Leo lên cành
bưởi nhớ người rưng rưng
Có lúc chữ nghĩa
gây nên tình cảm thê thiết :
Thì thôi tóc
ấy phù vân
Thì thôi lệ
ấy còn ngần dáng sương
Thì thôi mù
phố xe đường
Thôi thì thôi
nhé đoạn trường thế thôi
Ý thơ dàn trải,
không có gì cao siêu. Nhưng lời thơ da diết chỉ vì những
thì thôi, thế thôi, luyến láy, dằn vặt."
Thứ nhất thơ PT
Thư không có kinh điển, "cổ điển", Người Việt ta Ca dao
cũng là ngôn ngữ dân gian mà thành, nên nghĩ hay kể và
làm thơ kiểu ca dao cũng là thông thường không phải là
điển cố.
Thứ hai thơ không
bắt buộc phải cao siêu mới hay, thứ ba những điệp vận
da
diết thì những người đi trước đã xử dụng, Truyện
Kiều, Cung oán Ngâm khúc là những thí dụ. Đó là đặc điểm
của ngôn ngữ Viêt. Cái hay ở đây, tiếng Việt dùng chữ
viết la tinh, vẫn dễ dàng với những điệp vận, nháy (luyến
láy) hay trùng vận.
Đây lại nói Đặng
Tiến viết: Có lúc chữ nghĩa gây nên tình cảm "thê
thiết".
Ta thường nghe tha
thiết, không hiểu ông muốn viết thê thiết hay nhầm chính
tả tha thiết chăng. Tự Nôm thê thiết ít gặp, nhưng
cũng có nghĩa của nó.
Một đằng, tha
thiết hay thiết tha 切磋 là tỉ dụ đau thương cùng cực.
Vương Dật: tâm nội thiết tha 心內切磋, trong lòng
đau thương biết bao.
Thiết là cắt,
bổ hoặc thái, ta có cụm như thiết như tha, như khắc như
mài, ý nói học vấn cũng phải nghiến ngấu kỹ, như thợ
làm sừng khắc lại mài cho bóng. Tự kép thiết tha là hai
tự
nổi, có thể theo ẩn ý hay dụng ý của người viết.
Bên kia, thê thiết
có nhữ thê 淒, lạnh lẽo như thê lương 淒涼, thê nhiên
thê thảm. Trần Nhân Tông: Cổ tự thê lương thu ái ngoại,
chùa cổ lạnh lẽo trong khí mây mùa thu. Tự kép thê thiết
mạnh hơn tha thiết một ít (!) có nghĩa đau đớn lạnh lẽo.
Thế nhưng qua Việt
ngữ, không nhất thiết, thiết tha hay thê thiết là đau thương
cùng cực hay đau đớn lạnh lẽo. Chàng có khi nói với nàng,
anh
thiết tha yêu em. Như thế không hẳn là anh đau đớn yêu
em. Thiết tha đây là 2 tự hình, kèm theo tự âm, để tải
một ý nghĩ … thiết tha! Thật đúng là ăn tục nói phét.
Giáo sư Đặng Tiến
phê: "Khi tình yêu chỉ là điển cố văn chương, như mượn
ý ca dao, Phạm Thiên Thư vẫn có thể làm được câu thơ hay"
Này nhé, sao tôi
cảm phục Người nhà Trời:
… "Thời đại
cho phép một ngôn ngữ mới, ngông nghênh, phóng túng
hơn. Nhưng đại thể vẫn vậy.
Đánh giá một
tác phẩm, cần đặt nó vào thời điểm xuất phát. Khoảng
1970, chiến tranh lan tràn khốc liệt, xã hội đảo điên.Thịnh
hành là lối thơ thân phận, nói lên tâm trạng, hoàn cảnh
tang tóc, bi thương. Không ai làm thơ chơi chơi, khơi khơi,
như Phạm Thiên Thư :
Có con cá mại
cờ xanh
Bơi lên nguồn
cội tắm nhành suối xuân
Nửa giòng cá
gặp phù vân
Hỏi sao mây
bỏ non thần xuống chơi.
Dĩ nhiên người
ta có thể thích hay không thích, chấp nhận hay không chấp
nhận một lối sáng tác "vô lập trường" như thế.Ngày nay
ta thường dùng từ phản ánh theo nghĩa thông thường : quy
chiếu lại hình ảnh của thực tại, theo phép hiện thực
hay cách điệu. Nhưng ta có thể dùng ngược lại : phản ánh
là quy chiếu những cảm nghĩ trái chiều với thực tế, như
bề mặt, bề trái, của một đồng tiền. Như giấc mơ thanh
bình đối lập với thực tại bom đạn.
Một đêm nằm
ngủ trong mây
Nhớ đâu tiền
kiếp có cây hương trời
Cây bưởi trắng
ngát hương đời
Nụ là tay Phật
chỉ người qua sông.
Và Đặng Tiến
khe khắt tuyên án.
"Tác giả Phạm
Thiên Thư còn sáng tác nhiều thi phẩm khác, nhưng không thành
công bằng tập Động hoa vàng. Có lẽ tác giả đã vơi nguồn
thi hứng đích thực, bớt khả năng cô đúc tình cảm, tập
trung tư duy sáng tạo, cho nên những thi phẩm về sau – rất
dồi dào – phải nép vào ngôn ngữ tài hoa. Mà tài hoa thì
không đảm bảo được một hành trình sáng tạo lâu dài.
Nhưng chỉ một thi tập Động hoa vàng cũng đánh dấu một
thời đại trong thi ca, đồng thời thăng hoa khả năng thẩm
mỹ và diễn đạt diệu vợi của thể thơ lục bát cổ truyền."
Phê bình như thế
là tuyệt. Ngữ phạm của Đặng Tiến viết văn xuôi cũng
như làm thơ hay vẽ một bức tranh. Ông khẳng định Mà
tài hoa thì không đảm bảo được một hành trình sáng tạo
lâu dài. Mozart đã có hành trình sáng tạo nhanh và đẹp
trong thời gian tương đối dài vì ông khởi đầu từ lúc
năm sáu tuổi, công trình của ông đều là những thiên tác,
rồi chết yểu. Nhe Đặng Tiến, lại nêu ra nghi vấn, liệu
Mozart sống lâu hơn có thể viết những tác phẩm hay hơn?
Nếu tài hoa là phù du, thì nó không hưởng được cái trường
tồn. Ngoài Mozart cùng các thiên tài thật.
Bất
Tiếu Nguyễn Quốc Bảo
Ngày
tân mão tháng quý mùi năm canh tý
16
tháng 8 năm 2020
Chú thích
1) "Phạm thiên
Thư, có ngần ấy thôi". Bài phê bình của Nguyễn Đức
Tùng trên Nét Sông Hương.
http://tapchisonghuong.com.vn/tin-tuc/p0/c7/n29140/
Pham-Thien-Thu-co-ngan-ay-thoi.html.
2) Du tử Lê Phạm
Thiên Thư và Hoàng Thị Ngọ, nguyên ủy nhiều ồn ào!
https://www.nguoi-viet.com/van-hoc-nghe-thuat/
pham-thien-thu-va-hoang-thi-ngo-nguyen-uy-nhieu-ao/
3) Đặng Tiến
Về Động Hoa Vàng của Phạm thiên Thư
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c300/n14236/
Ngay-xuan-tim-Dong-hoa-vang.html
Phụ chú: Nguyên
bản bài Ngày xưa Hoàng thị.
Em
tan trường về
Đường
mưa nho nhỏ
Chim
non giấu mỏ
Dưới
cội hoa vàng
Bước
em thênh thang
Áo
tà nguyệt bạch
Ôm
nghiêng cặp sách
Vai
nhỏ tóc dài
Anh
đi theo hoài
Gót
giầy thầm lặng
Đường
chiều úa nắng
Mưa
nhẹ bâng khuâng
Em
tan trường về
Cuối
đường mây đỏ
Anh
tìm theo Ngọ
Dáng
lau lách buồn
Tay
nụ hoa thuôn
Vương
bờ tóc suối
Tìm
lời mở nói
Lòng
sao ngập ngừng
Lòng
sao rưng rưng
Như
trời mây ngợp
Hôm
sau vào lớp
Nhìn
em ngại ngần
Em
tan trường về
Đường
mưa nho nhỏ
Trao
vội chùm hoa
Ép
vào cuối vở
Thương
ơi vạn thuở
Biết
nói chi nguôi
Em
mỉm môi cười
Anh
mang nỗi nhớ
Hè
sang phượng nở
Rồi
chẳng gặp nhau
Ôi
mối tình đầu
Như
đi trên cát
Bước
nhẹ mà sâu
Mà
cũng nhoà mau
Tưởng
đã phai màu
Đường
chiều hoa cỏ
Mười
năm rồi Ngọ
Tình
cờ qua đây
Cây
xưa vẫn gầy
Phơi
nghiêng ráng đỏ
Áo
em ngày nọ
Phai
nhạt mấy màu?
Chân
tìm theo nhau
Còn
là vang vọng
Đời
như biển động
Xoá
dấu ngày qua
Tay
ngắt chùm hoa
Mà
thương mà nhớ
Phố
ơi muôn thuở
Giữ
vết chân tình
Tìm
xưa quẩn quanh
Ai
mang bụi đỏ
Dáng
em nho nhỏ
Trong
cõi xa vời
Tình
ơi tình ơi!
Phạm thiên Thư
|