Chim Việt Cành Nam            [  Trở Về  ]          [ Trang chủ ]
Ông già kể chuyện đời xưa:
Vài kỷ niệm của một cựu sinh viên trường thuốc Hà Nội
(2)

B.s. Nguyễn Lưu Viên

[ Phần 1 ]  -  [ Phần 2 ] -  [ Phần 3
 Hồi trước ở Việt Nam cũng như bên Pháp học Thuốc phải 7 năm, một năm Dự Bị (Pre-Med hay P.C.B. là Physique-Chimie-Biologie), và 6 năm "Thuốc", theo chương trình trên lý thuyết cũng có cái lý của nó là : 2 năm đầu học bộ máy của con người lúc bình thường, đặt nặng ở Cơ thể học (Anatomie grosse và microscopique tức Histologie) và Sinh lý học (Physiologie) với các môn liên hệ tức Vật lý và Hóa học. Năm thứ 3 học về những gì có thể phá quấy bộ máy ấy tức là ký sinh trùng và vi trùng (Parasitologie và Bactériologie) và hình dáng của bộ máy khi bị phá quấy tức là Bệnh lý Cơ thể Học (Anatomie pathologique); năm thứ tư học về các bệnh tức Pathologie; năm thứ 5 học cách chữa các bệnh tức Thérapeuthique; và năm thứ 6 làm luận án. Mỗi ngày trong suốt niên khóa buổi sáng thực tập ở nhà thương, buổi chiều đi cours ở trường. Đầu niên khóa năm thứ nhứt, khi ở P.C.B. mới lên, thì sinh viên được chia ra làm 2 nhóm : 1 nhóm đi tập sự ở Khu Nội Thương trước trong lục cá nguyệt đầu, trong lúc nhóm kia đi tập sự ở Khu Ngoại thương; rồi đến lục cá nguyệt sau sẽ đổi lại ; rồi đến năm sau thì ngược lại.

Tôi được vào nhóm đi tập sự ở Khu Ngoại thương trước, nên xin nói đến khu nầy trước.

Phân khoa Ngoại thương (Clinique chirurgicale)

Địa điểm : Nhà thương Phủ Doãn (Hôpital du Protectorat) ở trong thành phố Hà Nội không xa Hồ Hoàn Kiếm.

Phụ trách : giáo sư Meyer May, rồi giáo sư Pierre Huard.

Staff gồm có 2 trưởng phòng bệnh lý (chef de clinique) là bác sĩ Vũ Đình Tụng (mất trong thập niên 50 ở ngoài Bắc) và bác sĩ Hồ Đắc Di (về sau khoa trưởng Y khoa Hà Nội) ; lúc ấy cụ Di cũng kiêm chức vụ médecin résident (résident đây không phải là theo chương trình residency như bên Mỹ mà là "médecin qui réside" ( dans l'hôpital ) ( bác sĩ thường trú, có nhà ở trong chu vi bệnh viện để giải quyết tất cả mọi vấn đề xảy ra ngoài giờ làm việc, kể cả thứ bảy, chúa nhựt và ngày lễ ) ; và 1 nội trú (interne) là anh Tôn Thất Tùng (về sau giáo sư Y khoa Hà Nội, bộ trưởng Y tế Bắc Việt, chủ tịch Hội Hồng Thập Tự Bắc Việt đóng vai quan trọng trong việc trao đổi thương bệnh binh với Pháp ở Điện Biên Phủ năm 1954 ), rồi anh Phạm Biểu Tâm ( về sau khoa trưởng Y khoa Sài Gòn, hiện ở California).

Thầy Meyer-May hình như xuất thân (1) là học trò của Gosset, một danh sư của Y khoa Đại học Paris chuyên về giải phẫu bụng (chirurgie abdominale). Thầy để lại cho tôi hai hình ảnh đặc biệt : một là lúc thầy đi round và hai là lúc thầy duyệt lại hồ sơ bệnh nhân vào cuối tuần. Thầy đi round có vẻ rất oai vệ : Thầy đã cao lớn "đẹp trai" lúc nào cũng "parisien" diêm dúa, đi round thì có "tả phù hữu bật" cụ Di một bên anh Tôn thất Tùng một bên, theo sau là một đàn "đệ tử" ngoại trú và sinh viên. Đến giường bệnh nhân do anh Tùng giới thiệu và trong khi ngoại trú hay sinh viên đọc bản báo cáo bệnh lý (observation clinique) thì thầy khám bệnh nhân tay vẫn đeo bao tay (gants) cao su mỏng (một việc hiếm có ở Việt Nam lúc bấy giờ) nắn, bóp, nhẹ nhàng mặt tỏ vẻ ân cần niềm nở , lúc nào cũng lễ độ : "Tournez à gauche s'il vous plait madame", "Levez-vous s'il vous plait, monsieur" ... Lúc nào cũng s'il vous plait lời nói êm dịu cử chỉ nhẹ nhàng với tất cả bệnh nhân già trẻ, giàu nghèo, kể cả bệnh nhân quê mùa mặc váy răng đen nằm ở phòng thí. (Thực là một tác phong cao đẹp, kính trọng bệnh nhân mà lúc ấy dưới thời thực dân không phải thầy nào cũng có, trong thời mà một tên thượng sĩ adjudant quèn của Pháp được cử làm "ông cò","ông cẩm" (chef de police) cũng có thể làm oai bắt nạt ất cứ Annamite indigène nào già, trẻ, giàu, nghèo, lớn, bé, nhứt là quê mùa dốt nát). Có khi sau khi khám xong thầy an ủi bệnh nhân: "Rassurez-vous madame (monsieur), restez ici nous prendrons soin de vous". Rồi, có khi ra khỏi phòng bệnh nhân đi một đỗi cho bệnh nhân không có thể nghe thấy được, thầy quay lại nói : "Je lui donne encore un mois à vivre au maximum parce que ... " và thầy giải thích tại sao, v.v... Về sau nầy tôi mới biết đối với một bệnh nhân mắc bệnh ngặt nghèo một bác sĩ Mỹ sẽ nói thật nói rõ, nói hết cho bệnh nhân hiểu rõ tình trạng của mình để mà tự liệu, còn một bác sĩ Pháp thì không nói hết cho bệnh nhân sợ làm mất tinh thần mà chỉ nói hết cho gia đình để gia đình định liệu. Mỗi bên đều có cái lý của nó tùy theo truyền thống và tập quán của mỗi xã hội.

Tập sự ở Khu Ngoại thương với thầy Meyer-May " teo nhứt là sáng thứ bảy (vì lúc ấy sáng thứ bảy còn phải làm việc, chiều mới được nghỉ gọi là "semaine anglaise") lúc mà thầy duyệt lại hồ sơ bệnh nhân trong tuần: thầy, staff, và tất cả nội, ngoại trú và sinh viên đều vào trong văn phòng của thầy; thầy ngồi ở bàn giữa, staff đứng hai bên, ngoại trú và sinh viên đứng đối diện thành vòng bán nguyệt; anh Tùng đưa từng hồ sơ, thầy xem qua, nếu có hình quang tuyến X (X rays) thì thầy bật đèn lên, nhìn vào danh sách sinh viên để trước mặt, gọi tên một anh rồi hỏi: Qu'est ce que c'est ? Je vous donne dix secondes pour faire le diagnostic ... hoặc nếu khó thì Je vous donne trente secondes. Thì anh sinh viên bị gọi phải trả lời ngay. Thường thường sinh viên năm thứ nhứt thì bị gọi để định các bệnh gẫy tay gẫy chân; nhưng mình chân ướt chân ráo ở PCB mới lên, danh từ y học còn chưa quen mà nghe nói nào là "fracture de Pouteau-Colles, fracture de Dupuytren", nào là mal de Pott, v.v... nên sợ quá. Có lẽ vì đã quá "teo" nên còn giữ kỷ niệm sáng thứ bẩy với thầy Meyer-May cho tới bây giờ. Cuối hè năm 1940, sắp vào niên khóa 40-41, một hôm thầy Meyer-May biến mất, không ai biết, không ai thấy ở đâu, mãi mấy tuần sau, (vì lúc ấy cách nay nửa thế kỷ và đang Đệ Nhị Thế Chiến sự liên lạc và thông tin rất khó khăn) mới nghe tin rằng thầy đã ở Hong Kong ( mà Hong Kong lúc ấy đối với người Việt Nam là xa biệt mù). Lý do: Vì Pháp thua trận, bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, chính phủ Vichy phải theo chánh sách khủng bố người Do Thái của Đức Quốc Xã và các thuộc địa Pháp cũng phải theo mẫu quốc nên thầy Meyer-May, gốc Do Thái, phải tìm đường tẩu thoát qua Hong Kong rồi qua Mỹ. Về sau, đến năm 1955 thì tôi được tin thầy ở Baltimore và làm giáo sư môn "Geographic pathology".

Thay thế thầy Meyer-May điều khiển Phân khu Ngoại thương là giáo sư Pierre Huard, giáo sư môn Cơ thể học (Anatomie) và môn Giải phẫu y học (médecine opératoire). Thầy Huard là một bác sĩ nhà binh, hình như xuất thân từ Val-de-Grâce, là quân y viện danh tiếng nhứt của Pháp (như Walter Reed của Mỹ). Không biết có phải vì cá tính hay vì môi trường nhà binh mà tôi có cảm tưởng thầy Huard trực ngôn hơn, nhưng nóng nảy hơn, dễ sốt ruột hơn thầy Meyer-May. Về chuyên môn tuy hai thầy đều là bậc sư thượng thặng về giải phẫu tổng quát, tôi có cảm tưởng thầy Meyer-May sở trường ở cái bụng (học trò của Gosset mà) còn thầy Huard thì sở trường ở tứ chi, vì giải phẫu cắt tay cưa chân thầy làm mau lẹ, gọn gàng vén khéo ít có ai bì kịp.

Kỷ niệm của tôi với thầy Huard có một chuyện buồn cười là : một hôm tôi đánh thuốc mê cho thầy mổ một người bệnh nhân của tôi, mà lúc ấy thuật đánh thuốc mê hãy còn thô sơ chưa phải là một chuyên khoa có tên (anesthesiologie) trong ngành Y, chưa có những máy móc tối tân rắc rối cao siêu như bây giờ, mà chỉ dùng masque à ether đơn sơ giản dị. Đúng theo sách vở và theo lời chỉ giáo của các thầy khi thấy mổ sắp xong thì phải vặn ether xuống dần dần để khi mổ xong thì bệnh nhân tỉnh dậy sớm. Hôm ấy có lẽ gặp phải ngày hạn tháng kỵ hay sao mà tôi mới vặn dần ether xuống thì bệnh nhân cựa mình; thầy Huard lườm tôi một cái và dưới bàn mổ chân mang giầy botte nhà binh của thầy đá vào tibia của tôi một cái đau điếng người, tôi vội vã vặn ether lên liền thì bệnh nhân "phèo" mê li bì, về đến trại mấy giờ đồng hồ sau mới tỉnh lại. Tôi thuật chuyện bị đá vào tibia cho các bạn nghe, bọn nó cười quá và có một anh nói : "Ai bảo mầy dại, tao thì cứ cho nó (tức là bệnh nhân) li bì chừng nào xong xuôi hết rồi tao mới thả ra.". Âu cũng là một bài học để khỏi bị đá vào tibia. Đến năm 1947 khi Pháp trở lại Hà Nội, trường Y Khoa được chẻ ra làm đôi, một phần ở lại Hà Nội, một phần vào Sài Gòn thì thầy Huard ở lại Hà Nội và làm khoa trưởng phần nầy với danh là Doyen de la Faculté Mixte de Médecine et de Pharmacie de l'Université de Hà Nội.

Đến năm 1954, lúc trận Điện Biên Phủ, thầy Huard đóng một vai trò quan trọng về phía Pháp trong việc trao đổi thương bệnh binh giữa Pháp và Việt Nam; đối diện với thầy phía bên Việt Nam là bác sĩ Tôn Thất Tùng; hai thầy trò gặp nhau mỗi người một bên chiến tuyến.

Sau Hiệp định Genève 1954 thầy về Pháp được bổ nhiệm làm giáo sư trường Y khoa Đại học Paris.

Đến năm 1983 thì tôi được nghe tin thầy chết một cách đột ngột vì tai nạn xe hơi; sau nầy tôi mới biết rõ là thầy đi qua đường ở Paris bị một xe camion (truck) cán chết, mặc dù thầy đang đi ở trong passage clouté dành cho người đi bộ, trên đường Saint-Jacques vào lúc 9 giờ sáng ngày 28-4-1983.

Cơ thể học (Anatomie).

Nhắc đến thầy Huard là phải nói đến môn Cơ thể học là môn thầy chuyên dạy ở trường. Cours và thực tập mổ xẻ xác người (dissection) được tổ chức ở Viện Cơ thể học (Institut anatomique) là một công sở kiến trúc đồ sộ ở cách trường Thuốc độ một cây số rưỡi (1,5 km) về phía Nam cùng trên đường Bobillot và gần Viện Pasteur. Viện Cơ thể học có đủ phương tiện ướp xác và giữ xác (ở ngoài Bắc lúc ấy không thiếu món đó) và có nhiều phòng rộng lớn mỗi phòng có nhiều bàn dài bằng gạch men trắng để cho sinh viên mổ xẻ xác đã ướp formol. Giúp thầy Huard ở viện cơ thể học có bác sĩ Montagné, bác sĩ Hoàng Gia Hợp (hiện ở Toronto, Canada), bác sĩ Đào Huy Hách và một prosecteur d'anatomie trong số đó tôi còn nhớ có anh Nguyễn An Trạch về sau vào năm 1945 là chef của tôi ở nhà thương tỉnh Trà Vinh, rồi cùng nhau "ra bưng" tham gia "Nam bộ kháng chiến" rồi anh ấy tập kết ra Bắc không biết về sau ra sao. Nhớ lại khi ở PCB mới lên năm thứ Nhứt, từ bé cho tới lớn lúc đó chưa thấy thây ma bao giờ mà vào Viện Cơ thể học thấy ở mỗi phòng có hai dẫy bàn gạch men trắng trên mỗi bàn có một xác xám đen sặc mùi formol nằm ngay chân, cong tay, thì sợ thật. Rồi vào lớp học Ostéologie thấy bộ xương người treo lủng lẳng, trên bàn có một đống xương rời, có sọ người còn nguyên hay đã cắt đôi, rồi nghe bác sĩ Hợp vừa giảng bài vừa chỉ, nào là acromion, clécrâne, grand trochanter, petit trochanter, lung tung nghe điếc tai như vịt nghe sấm. Thế rồi mà cũng phải "nuốt cho trôi" nhớ cho kỹ, để cuối tam cá nguyệt thi cho đậu kỳ thi Ostéologie, nếu không thì "đi đoong".

Thường thường học cơ thể học thì anh em hay đố nhau để nhớ thì tôi còn nhớ hay đố nhau "les trous de la base du crâne" và sau khi xong Ostéologie đến phần Mặt và Cổ thì hay đố nhau "les quatorze branches de l'artère maxillaire interne" (bây giờ thì quên hết rồi). Trong lớp tôi có anh Nguyễn Hữu không biết anh ấy học cách nào mà thuộc Anatomie như cháo, hỏi đâu biết đó, bạn thường gọi anh ấy là "Testut vivant" vì lúc ấy học Anatomie có 2 bộ sách là bộ Rouvière và bộ Testut (Testut còn dầy hơn Rouvière); đến năm thứ Ba thì anh ấy đã đậu prosecteur d'anatomie. Sau khi "toàn dân kháng chiến" bùng nổ ở Hà Nội (19-12-1946) tất cả mọi người ra khu kháng chiến thì anh Hữu đóng ở Đồng Quan còn tôi thì ở Vạn Phúc cũng trên sông Đáy ở Hà Đông. Vào năm 1948 thì anh ấy "dzin-tê" vào Hà Nội trước tôi và sau nầy làm giáo sư Cơ thể học của Y khoa Đại học Sài Gòn rồi Y khoa Đại học Brest bên Pháp (cũng xứng đáng cho anh "Testut vivant" của lớp tôi).

Bệnh lý cơ thể học (Anatomie pathologique).

Đã nói đến Cơ thể học thì phải nói đến Bệnh lý cơ thể học, vì ở cùng chung trong Viện Cơ thể học còn có phòng thí nghiệm Mô học và Bệnh lý cơ thể học (Laboratoire d'Histologie et d'Anatomie Pathologique) do giáo sư Bernard Joyeux phụ trách, có anh Tô Đình Cự (hiện ở California) giúp việc. Thầy Joyeux hình như xuất thân ở Dijon, về sau lên Paris là học trò của Oberling, một danh sư về Anatomie pathologique của Pháp. Thầy phụ trách dạy ba môn: Embryologie và Histologie cho sinh viên năm I và II, và môn Anatomie pathologique cho sinh viên năm thứ ba. Cours của thầy thường thường bắt đầu 4 giờ chiều (4:00 pm); khổ nhứt là mọi bài phải chép lại trong tập có bìa, có phân ra chương, mục hẳn hoi, mỗi chương mỗi mục và mỗi đoạn mỗi khúc quan trọng đều phải gạch bút chì xanh, đỏ cho nổi bật chỗ đó để rồi hàng tháng thầy góp tập lại để kiểm soát (quá hơn học trò high school) cho nên rất mất thì giờ vì đi cours lấy notes, về nhà so notes với nhau, rồi viết lại sạch sẽ trong tập, vẽ hình, tô màu, gạch bút xanh bút đỏ, công phu lắm. Thế mà rồi cũng phải xong. Thực tập (travaux pratiques) thì thầy cho chiếu lên màn ảnh một số lames rồi để cho mình xem trong microscope; mà các microscopes là loại "cổ lỗ sĩ", vật bảo tàng viện: có 1 mắt (monoculaire) có một ống thẳng xuống phía dưới có gương phản chiếu ánh sáng lên. Nhưng thường thường anh em học trong microscope là "vậy vậy" thôi, chớ thật sự là chú tâm nhìn cho kỹ với "mắt trần" (naked eyes) hình dáng gross của miếng mô (tissue) ở trong cái lame, để xem và nhớ hình dáng của nó, thí dụ giống con rắn thì là cơ quan nào (histologie) hay bệnh gì (anapath), giống đầu con voi chẳng hạn là cơ quan nào hay bệnh gì, v.v... để rồi khi ra thi travaux pratiques được phát cho một số lames thì lấy mắt trần nhìn qua đã định ngay được cơ quan hay bệnh gì rồi, còn đặt vào microscope là để kiểm soát và lấy lệ. Thế mà rồi cũng phải xong.

Kỷ niệm của tôi với thầy Joyeux là tình thầy trò rất đậm đà ; vì vào năm 1951, sau khi rời Sư đoàn 320, bỏ kháng chiến trở vào Hà Nội (gọi là dzin-tê) (2) , phải thi lại các examens cliniques để ra trường với thầy Huard ở Hà Nội, rồi bay vào Sài Gòn cho gần gia đình thì tôi gặp thầy Joyeux cho tôi đề tài luận án y khoa là "Etude statistique et étiologique générale des cancers du sein chez les Vietnamiens" ... Lúc ấy phòng thí nghiệm mô học và bệnh lý cơ thể học của thầy được đặt ở từng trệt bên góc trái của nhà thương Coste (về sau là quân y viện Chi Lăng) ở gần Sở Thú. Thầy giúp tôi viết luận án sửa đi sửa lại gần một năm trời mới xong và, sau khi tôi trình luận án vào tháng sáu 1952 thì thầy mời tôi ở lại làm assistant cho thầy; tôi nhận lời và nhờ đó tôi có được cái chuyên môn mà sau nầy di cư sang Mỹ, khi phải làm lại 4 năm residency in pathology ở Memphis, Tennessee thì đỡ quá.

Sau khi Việt nam độc lập thì vào năm 1955 thầy Joyeux về Pháp, được bổ nhiệm giáo sư môn Anatomie pathologique ở Trường Y Khoa Đại học Grenoble và thầy dạy ở đó cho đến khi về hưu; thầy qua đời cách nay 3 năm, hưởng thọ 88 tuổi, để lại vợ (Việt Nam) và 2 con, một gái một trai, cả hai đều bác sĩ.

Trở lại việc tập sự ở nhà thương thì sau một lục cá nguyệt đầu tập sự ở khu Ngoại thương thì anh em trong nhóm được chuyển sang tập sự ở khu Nội thương.

Phân khoa Nội thương (Clinique médicale)

Địa điểm : Bệnh viện Bạch Mai (là một bệnh viện đồ sộ nhứt, theo tiêu chuẩn của Việt Nam lúc ấy) ở cách Hà Nội độ 8,5 km về phía Nam, trên đường số 1 (route coloniale no 1 đi vào Nam)

Phụ trách: giáo sư Charles Massias, rồi giáo sư André Blondel. Staff gồm có : ba chef de clinique là bác sĩ Nguyễn Đình Hào ( có di cư vào Nam, không biết hiện ở đâu ) trách nhiệm về bệnh nhân ở trại, bác sĩ Phan Huy Quát (3) trách nhiệm phòng thí nghiệm (laboratoire) về phần mà bên Mỹ gọi là clinical pathology, và bác sĩ Vũ Công Hoè gọi hỗn là "Hoè điếc" (về sau giáo sư Y khoa Hà Nội) trách nhiệm về Cơ thể bệnh lý học (của phân khoa Nội thương) ; và một nội trú (interne) là anh Trần văn Bảng ( về sau vào Sài Gòn có giúp việc bán thời gian cho Viện Pasteur, hiện ở bên Pháp), rồi anh Mai Sĩ Đoàn (mất sớm vì bệnh lao phổi lúc chưa ra trường), rồi anh Đặng Văn Chung (về sau giáo sư Y khoa Hà Nội).

Thầy Massias hình như xuất thân từ Bordeaux; thầy thật là "bác học" (encyclopédique) đọc nhiều, nhớ nhiều, hiểu nhiều, biết nhiều. Đặc biệt là thầy đi round trễ, xem bệnh rất kỹ và thích làm autopsie cho nên hôm nào đi round rồi mà có autopsie, xuống nhà xác (morgue) để xem, thì về rất trễ. Thường thường ngày thứ sáu, sau khi đi round thì có "lecon de clinique" của thầy ở giảng đường (amphithéâtre) của bệnh viện; trong trường hợp nầy thì sau khi anh nội trú hay bác sĩ Hào giới thiệu bệnh nhân và đọc báo cáo bệnh lý (observation clinique) thì thầy giảng bài về bệnh ấy. Thầy giảng rất hay nhưng rất dài, nên ngày thứ sáu, sau khi ở khu Nội thương ra là gần một giờ trưa (1:00 pm) mà một giờ rưỡi (1:30 pm) phải có mặt ở Viện cơ thể học cách đó 10 km để vào cours của thầy Montagné, hoặc để mổ xác người (dissection), nếu gặp mùa đông mưa phùn mà gió Bắc thổi xuống, thì đạp xe ngược gió "toé phở luôn" mà bụng thì đói phèo. Có lẽ vì vậy mà hôm nay còn nhớ ngày thứ sáu với thầy Massias?

Một hôm vào năm 1943 thì phải, tự nhiên thấy thầy Massias có vẻ buồn bã, vào Bệnh viện Bạch Mai lấy hết sách vở đồ đạc của thầy đem đi ; anh em thì thào bàn tán với nhau về cái tin "thầy bị cho nghỉ việc vì lý do chính trị vì thầy là franc-macon, mà chính phủ Pháp Vichy bị Đức Quốc Xã ép phải dẹp tổ chức franc-maconnerie nên chính quyền Đông Dương phải cho thầy nghỉ việc. Thế là trường Y khoa mất thêm một giáo sư giỏi nữa (4) . 

Thay thế thầy Massias là thầy Blondel cho đến đây phụ trách khu Nhi đồng (pédiatrie) cũng ở bệnh viện Bạch Mai. Thầy Blondel xuất thân là một nội trú xuất sắc (interne lauréat des Hôpitaux de Paris) học trò của Lian là một danh sư của Y khoa Đại học Paris, có tiếng quốc tế về bệnh tim. Đặc biệt thầy giảng dạy rất "gọn". Không có đi vào chi tiết rườm rà mà chỉ nhấn mạnh vào những điểm quan trọng của bệnh, cho nên sau mỗi cours của thầy là mình luôn luôn còn nhớ được một cái gì, còn giữ được một cái gì và có một khái niệm rõ rệt về cái bệnh thầy mới dạy. Ngán nhất với thầy Blondel là cuối năm thi Pathologie Médicale; có một số bệnh mà thầy thích (anh em gọi là "bệnh tủ") thì ai cũng thuộc; nhưng số bệnh ấy ít hơn số thí sinh nên sau khi hỏi hết "tủ" rồi thì thầy đi lấy một cuốn sách pathologie médicale, mở vào trang mục lục (table des matières) rồi lấy ngón tay chỉ càn vào gặp bệnh nào thì thầy hỏi thí sinh bệnh đó. Cho nên anh em ở cuối danh sách sắp theo thứ tự chữ cái của tên như là Nguyễn Thiện Thành, Nguyễn Trọng Thiện, Phan Đình Tuân, Nguyễn Lưu Viên, Nguyễn Thị Vinh, Trần Vĩ thì ... teo lắm Và xin thú nhận rằng lúc ấy có ý hơi trách bố mẹ sao không đặt tên mình vần chữ A (như anh Ấm) chữ B (như anh Bờ) hoặc chữ C (như anh Cao) có phải khoẻ không, đỡ lên ruột.

Câu chuyện bên lề

Hình như (và tôi còn nhấn mạnh ở chữ hình như, vì đây là một câu chuyện khẩu truyền giữa nhân viên trường thuốc và sinh viên với nhau, và không biết có bị tiểu tghuyết hóa hay không, chớ không làm sao kiểm soát được) cuộc đời của thầy Blondel là cả một kho "tiểu thuyết lãng mạn nghệ sĩ giang hồ". Thầy xuất thân là một học trò xuất sắc (interne lauréat) của Lian một danh sư của đại học y khoa Paris nổi tiếng quốc tế hồi thời ấy về bệnh tim.

Bình thường ra, đúng theo truyền thống và hệ thống tổ chức của Pháp thì nếu thầy Blondel mà "như người ta" thì chắc chắn sẽ là giáo sư đại học y khoa Paris, thay thế vào cái ghế của Lian. Nhưng vì tánh lãng mạn tâm hồn nghệ sĩ nên cuộc đời khác hẳn. Số là một hôm có một tiểu vương Ấn Độ (maharajah) đau tim qua Pháp đến Paris "thành phố ánh sáng" tìm thầy chữa bệnh thì đến danh sư Lian. Một hôm, danh sư vì bận nên gởi tiểu vương đến học trò giỏi nhất của mình là BS Blondel tạm thay thế. Nhưng không biết lối chữa bệnh của tên học trò này hợp với ý tiểu vương thế nào mà tiểu vương có ý muốn mời bác sĩ trẻ tuổi này theo vua về Ấn Độ làm ngự y trong triều đình. Hình ảnh hấp dẫn của Ấn Độ huyền bí hiện lên trong trí anh bác sĩ lãng mạn nầy nên anh này nhận lời ngay, nghĩ rằng cứ đi vài tháng cho biết đó biết đây rồi về Paris lo cho tương lai cũng không muộn. Nào ngờ đâu đời sống của ngự y trong triều đình được vô cùng biệt đãi, gan rồng chả phượng cung phi mỹ nữ lại thêm nhựa phù dung hảo hạng trong một khung cảnh "Một Ngàn Lẻ Một Đêm" nên chàng bác sĩ trẻ tuổi này quên cả Paris hoa lệ (và hình như quên cả vị hôn thê ??). Cho đến một ngày nọ, tiểu vương bị đảo chánh (5) ... triều đình chạy tán loạn kể cả ngự y ... Rồi ra đến hải cảng ở bờ biển thì thay vì xuống tàu về Pháp Lang Sa, một lần nữa tâm hồn lãng mạn nghệ sĩ giang hồ phát lên nên "nguyên ngự y" xuống tàu đi Viễn Đông cho biết đó biết đây, theo một hành trình chậm rãi Singapour - Sài Gòn - Hải Phòng - Hồng Kông. Nhưng đến Hải Phòng, vì danh đến trước người, nên đã có khoa trưởng Gaillard đón về Hà Nội chơi cho biết trường Y Khoa Đại Học Hà Nội, hòn ngọc văn hóa của Pháp tại viễn đông.

Thế rồi một lần nữa tâm hồn nghệ sĩ bộc phát lên, thầy Blondel ở lại xứ Đại cồ Việt. Hình như (theo lời anh Đặng Văn Chung thuật lại) sống giản dị, ngủ trên một bộ ván trải chiếc chiếu như dân indigène, khắp nhà sách vở báo chí lung tung mà không cho ai xếp dọn vì thầy nói "je me retrouve dans mon désordre" (đúng là nghệ sĩ). Tâm hồn nghệ sĩ thường hay đi đôi với xu hướ ng khuynh tả nên hình như (lại hình như) thầy Blondel là một trong một số rất ít Pháp kiều ở Hà Nội hoan nghênh Việt Nam tuyên bố độc lập ngày 2-9-1945.

Về sau không ai biết thầy về Pháp hồi nào ? ở đâu ? ra sao ? hay là lại gặp một tiểu vương nào ? Nhưng chế độ tiểu vương bên Ấn Độ đã bị hủy bỏ kể từ năm 1948 rồi, còn đâu !

B.s. Nguyễn Lưu Viên
Tập san Y sĩ - số 110
tháng 2-1991
(Còn tiếp)
(kỳ sau : Các chuyên khoa)
(1) Suốt trong bài ở chỗ "xuất thân" của một số giáo sư, tôi phải thêm chữ "hình như" là vì khác với bên Mỹ, bên Pháp và ở Việt Nam, các bác sĩ và giáo sư không treo bằng cấp của mình ở trong phòng mạch hay trong văn phòng nên không biết rõ xuất xứ từ đâu mà chỉ nghe đồn hoặc nghe người thân cận nói lại.

(2) "Dzin-ter" là tiếng lóng của những người được cộng sản gọi là "trí thức tiểu tư sản" (t.t.s. xin đọc là "tạch tạch soè" phản động " , rời bỏ kháng chiến để về Hà Nội ("theo Tây" ?). Chữ ấy phát xuất từ lối chơi thảy đáo của trẻ con nhà quê ngoài Bắc, khi thảy vào đúng lỗ ở trung tâm thì chúng nó reo lên : "Dzin rồi" . Bọn trí thức t.t.s. phản động nầy mới lấy chữ đó biến thành một verbe theo lối Pháp "dzinter" (như verbe aimer) để hô lên là "vào rồi" (vào Hà Nội).

(3) Về sau thủ tướngg VNCH dưới thời quốc trưởng Phan Khắc Sửu; kẹt lại Việt Nam, bị Việt Cộng bắt cầm tù và chết trong khám Chí Hòa

(4) Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Đức Quốc Xã thua trận. Pháp đứng trong hàng ngũ Đồng minh thắng trận, chánh phủ De Gaulle chỉnh đốn và đền bù lại những bất công do chính phủ Vichy gây ra thì thầy Massias được phục hồi nguyên chức cũ. Và đến năm 1947 khi trường Y khoa Hà Nội chia ra làm hai cơ sở, thầy Huard ở lại Hà Nội điều khiển cơ sở trong Nam (section de Sài-Gòn) với sự cộng tác của giáo sư Trần Quang Đệ, một cựu interne des hôpitaux de Paris, trong chức vụ Assesseur du doyen. Về sau giáo sư Trần Quang Đệ trở thành viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn và hiện sống ở Paris, còn thầy Massias thì tôi không biết về Pháp bao giờ, ở đâu, còn hay mất hồi nào ?

(5) Không phải vì quân phiệt hay vì Cộng Sản mà vì nội bộ hoàng cung


Trở Về   ]