Chửa là cửa
mả
Chửa con so
làm lo láng giềng
Đàn bà Việt
Nam ngày xưa hầu như ai cũng lo ngại chuyện mang
nặng đẻ đau.
Tại thôn quê, người đàn bà có
chửa (có bầu, có mang) phải tự chăm lo sức khỏe. Ngoài
mấy thang thuốc bắc, thuốc nam, chỉ còn biết trông cậy
vào những lời khuyên được truyền từ đờì nay sang đờì
nọ.
Nào là:
-Kiêng ăn cua
Cua là loài bò ngang. Ăn cua sẽ
bị đẻ ngang.
- Kiêng ăn thịt thỏ
Thỏ có môi trên bị hở. Ăn thịt
thỏ thì đứa bé đẻ ra sẽ bị sứt môi.
- Kiêng ăn trai sò ốc hến
Những giống này tiết ra nhiều
chất nhờn. Nếu người mẹ ăn trai sò ốc hến thì con đẻ
ra sẽ bị bịnh nhiều dớt dãi.
Nào là:
- Nên ăn trứng gà.
Trứng gà luộc vừa trắng bên
ngoài lại hồng bên trong (ta quen gọi lòng đỏ trứng gà).
Người mẹ ăn trứng gà luộc thì con sinh ra sẽ có nước
da trắng trẻo, hồng hào.
Nước da trắng
như trứng gà bóc được ưa thích hơn nước
da bánh mật.
- Nên ăn đu đủ.
Không biết quả đu đủ có dược
tính gì tốt cho bà mẹ hay đứa con không ? Với trình độ
hiểu biết của dân quê ngày xưa chắc sách vở của ngành
y, ngành dược cũng chả gây được sự chú ý, gợi được
thắc mắc cho ai cả. Người ta khuyên bà mẹ ăn nhiều đu
đủ
chỉ vì một lí do đơn giản là để cho tương lai của đứa
con được no đủ.
Mấy lời khuyên kể trên dễ hiểu,
dễ thấy vì chỉ dựa vào tên gọi hoặc bề ngoài của sự
vật, không phải hiểu một cách gián tiếp như nhiều lời
khuyên khác. Chẳng hạn như :
- Nên uống nước dừa.
Cũng như quả đu đủ, quả dừa
tốt cho sức khỏe ra sao là điều chưa cần để ý. Người
ta khuyên các bà mẹ tương lai uống nước dừa có lẽ
vì lí do khác.
Cây dừa
chữ hán là da. Vì vậy cho nên
uống nước dừa sẽ tốt cho
da.
Chữ nôm dừa
được viết bằng chữ dư (dư
thừa) của tiếng hán việt . Như vậy thì nước dừa
còn có tác dụng làm cho tương lai đứa bé được sung túc,
dư
thừa.
Dùng tên súc vật, hoa quả quen thuộc
hàng ngày để diễn đạt một lời chúc mừng là một cách
chơi chữ khá phổ biến của ngày xưa. Thí dụ con nai là lộc,
con dơi là phúc, bông hoa là vinh hoa...Người miền Nam ưa thích
bày cúng mãng cầu,
dừa,
đu đủ,
xoài
để được cầu vừa đủ xài.
Trong suốt thời gian thai nghén người
đàn bà phải đứng ngồi ngay ngắn. Có như thế sau này con
mới trở thành người ngay thẳng. Bà mẹ tương lai tránh nhìn
những cảnh không hay, tránh nghe những chuyện không đứng
đắn, không tốt, để cho con sau này thành người đàng hoàng,
tử tế.
Thời
gian thai nghén trung bình là chín tháng mười ngày. Quá thời
hạn này mà chưa đẻ thì gọi là chửa
trâu. Gặp trường hợp này người chồng phải dùng
phương thuật, dùng mẹo để giúp vợ chóng chuyển bụng đẻ:
- Dắt một con trâu ra giữa sân,
lấy dao cắt đứt sợi giây thừng buộc mũi. Trâu sổng thì
con sổ.
Người ta lí luận rằng muốn cho
mọi chuyện được nhanh chóng thì phải tìm cách trừ bỏ
những cái làm cho trì trệ, làm cho lâu hoàn tất. Phải trừ
bỏ cái lâu đi. Chữ lâu, tiếng
hán việt có nghĩa là cái giây thừng
buộc mũi trâu. Vì thế cho nên chỉ cần cắt sợi
giây thừng buộc mũi trâu đi, tức là trừ bỏ cái lâu đi,
thì tất nhiên mọi chuyện sẽ được nhanh chóng. Người đàn
bà sẽ mau đẻ.
Không hiểu người xưa có theo dõi,
ghi chép chính xác thời gian trâu chửa không ? hay là khoảng
thời gian hơn chín tháng mười ngày chỉ là một trùng hợp
ngẫu nhiên ? Rất có thể chỉ vì phương thuật cần đến
con trâu nên hai tiếng chửa lâu
ban đầu đã bị đọc trại ra thành chửa
trâu !
Đến ngày đẻ...
Đàn
ông vượt bể có chúng có bạn
Đàn bà vượt
cạn chỉ có một mình
Gặp trường hợp đẻ khó, người
chồng phải dùng một vài phương thuật. Tùy hoàn cảnh gia
đình mà chọn phương thuật thích hợp.
Những phương thuật chính thường
được đem ra dùng là:
- Viết đầy đủ họ tên một
ông quan lớn vào miếng giấy. Đem đốt miếng giấy, hòa tro
vào bát nước. Vừa cho vợ uống nước, vừa đọc câu thần
chú đại nhân nhập, tiểu nhân xuất
(người lớn vào, trẻ con ra). Thần linh nghe bùa chú sẽ phù
hộ cho sinh đẻ được dễ dàng.
Không biết chữ thì nhờ người
khác viết cũng được.
-
Lấy một cái dải rút quần vắt qua bụng vợ. Xin được
cái dải rút váy của một người đàn bà hàng xóm đã
từng sinh đẻ dễ dàng mang về vắt qua bụng vợ thì càng
tốt.
Cũng có thể cầm một cái dải
rút hay cái thắt lưng (còn gọi là cái ruột tượng hay cái
hầu bao) leo lên vắt qua mái nhà.
Hai hành động này có ý nghĩa gì
?
Vì người miền Bắc phát âm sai,
nên chữ
dải (dải rút) được
coi là đồng âm với chữ giải
hán việt nghĩa là tháo gỡ ,
cởi,
mở.
Vắt dải rút qua bụng vợ, người
chồng sẽ tháo gỡ, cởì bụng vợ cho đứa con lọt
lòng chui ra. Vắt dải rút qua mái nhà mang ý nghĩa trang trọng
hơn, muốn tháo gỡ một khó khăn đang xảy ra trong gia đình.
- Người chồng còn có thể giúp
vợ đẻ nhanh bằng cách đứng giữa nhà lao chiếc đòn gánh
hoặc cái gậy ra ngoài sân.
Cái gậy, hay cái đòn gánh quen
thuộc của dân quê, chữ hán việt là côn.
Chữ côn được dùng để viết
chữ nôm con. Vì thế cho nên
cái gậy hay chiếc đòn gánh, tượng trưng cho đứa con, được
lao ra ngoài sân để diễn tả hình ảnh đứa con lọt lòng
mẹ, sổ ra.
- Nhà nào có trồng cau thì người
chồng có thể leo lên cây cau, ôm cây tụt xuống.
Phương thuật giản dị, hình ảnh
dễ hiểu, thể hiện sự mong muốn đứa bé mau tụt
ra khỏi bụng mẹ.
Còn mấy phương thuật khác được
nói đến trong bài thơ ngụ ngôn Đám
cưới chuột của dân gian vùng Liễu Đôì.
Chuột cái đau đẻ, bà đỡ khuyên
vợ chồng chuột :
(...)
Đau thì nén chịu
con ơi
Qua cơn vượt
cạn ấy thời rinh rang
Chú đi tìm bắc
cái
thang
Leo nhà ba bậc,
lăn
đàng năm tao
Rồi ra lặn
cọc bờ ao
Xong rồì mớì
vào liếm láp đồ rau
Cứ y như phép
nhiệm mầu
Làm xong là đẻ
chẳng đau đớn nào (...)
- Bắc một cái thang rồi leo hoặc
luồn qua vài bậc.
Thang
nghĩa là
trống không ở trong người.
Thang
cũng có nghĩa là vật rỗng ruột.
Leo thang là tỏ ý mong muốn tạo
ra khoảng trống trong người, làm cho vợ rỗng ruột. Người
chồng mong cho vợ đẻ.
- Leo ba bậc nhà.
Cái bậc nhà
chữ
hán việt là cấp (bộ mịch), cấp cũng có nghĩa là nhanh
chóng (khẩn cấp). Phàm cái gì muốn cho nhanh chóng
(chẳng hạn như vợ đẻ) đều gọi là cấp. Vì thế mà người
chồng cứ leo lên leo xuống mấy cái bậc nhà để giúp vợ
đẻ được nhanh chóng.
Cặp vợ chồng nào ở nhà tranh
vách đất, nhà không có bậc thềm thì xoay sở ra sao? Đã
có mẹo khác.
- Người chồng ra nằm lăn năm vòng
(tao) ngoài đường.
Đường
(đường đi, văn thơ còn gọi là đàng) chữ hán việt là
lộ (bộ túc). Chữ lộ này đồng âm với chữ lộ (bộ vũ)
nghĩa là lộ ra ngoài cho thấy.
Cũng có thể giải thích rằng chữ
đường
(tiếng việt)đồng âm với chữ đường
(bộ thổ, hán việt) nghĩa là cái ao
hình vuông. Chữ ao lại có nghĩa
là
lõm xuống.
Như vậy thì lăn đường có ý
nghĩa là làm cho đứa bé ra mẳt, chào đời, hay làm cho bụng
bà mẹ lõm xuống. Cả hai nghĩa đều là mong cho người đàn
bà đẻ nhanh.
- Nếu gần nhà có cái ao thì người
chồng xuống bơi vài vòng.
- Không biết bơi thì múc một bát
nước ao đem về cho vợ uống ba ngụm.
- Hoặc đi nhổ một cái cọc cạnh
bờ ao. (Nếu không có sẵn cọc thì sai người đóng trước
một cái).
Nhổ cọc bờ
ao mang ý nghĩa gì ?
Như đã nói ở đoạn trên, chữ
ao
nghĩa là
lõm xuống.
Đóng cọc là để yểm, ngược
lại nhổ cọc đi là để khỏi bị yểm. Đóng cọc bờ ao
là yểm không cho lõm xuống. Người chồng nhổ cọc bờ
ao là để cho bụng vợ lõm xuống, nói khác đi là mong cho
vợ đẻ.
Tất cả những phương thuật dùng
đến ao đều mang chung một ý nghĩa. Người chồng bơi
dưới ao, cho vợ uống nước
ao,
nhổ cọc bờ ao,
đều mang ý nghĩa làm cho bụng người đàn bà
lõm
xuống, tức là đẻ nhanh vậy.
- Liếm ông đồ (đầu) rau, có nơi
khuyên nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau.
Ngày xưa nhà nào cũng có ông đồ
rau (hỏa lò) bằng đất nung. Vợ đẻ khó, chồng có thể
chạy xuống bếp ôm liếm ông đồ rau.
Cái bếp lò,
hay hỏa lò ngày xưa là do chữ lô
(bộ hoả) mà ra. Chữ lô này đồng âm với chữ lô
(bộ nhục) nghĩa là bày ra. Rốt
cuộc ôm ông đồ rau tương đương với bày vật gì ra. Người
cha tương lai muốn khoe con mình chăng ?
Hành động liếm ông đồ rau hoặc
nhổ nước bọt vào đít ông đồ rau không biết có còn mang
ý nghĩa gì khác không hay là chỉ muốn bắt chước một cử
chỉ hôn má, đét đít, nựng trẻ con ?
Nhà nào sẵn có cối giã gạo thì
có thể dùng phương thuật:
- Đóng một cái cọc vào chân cối
đá
Tiếng hán việt có chữ ma
(bộ thạch) nghĩa là gặp khó khăn,
bị
đau đớn. Chữ ma còn
có nghĩa là cái cối xay bằng đá.
Cái cối đá trong tình huống này trở thành biểu tượng của
khó khăn, đau đớn. Người ta có thể đóng một cái cọc
vào chân cối đá để yểm, để trừ khử những khó khăn,
đau đớn.
Làm phương thuật này người đàn
bà sẽ sinh đẻ được an toàn, nhanh chóng.
- Treo một thanh củi cháy dở lên
xà nhà
Có
hai cách giải thích.
Chữ liêu
(hay liệu)(bộ hỏa) nghĩa là bó đuốc, là đốt cháy. Chữ
liêu
(bộ miên) lại có nghĩa là trống không.
Phải chăng ở đây người ta dùng thanh củi cháy dở (thay
cho bó đuốc) để mong cho người đàn bà bụng trống không,
mau đẻ ?
Chữ tẫn
(bộ thảo) nghĩa là củi cháy còn thừa.
Chữ tẫn (bộ nhân) nghĩa là
hết
tiệt, hết
cữ. Thanh củi cháy dở ở đây biểu hiện sự mong
muốn người đàn bà lúc ở cữ (đẻ) sao cho chóng hết
cữ
chăng ?
Trịnh Hoài Đức (1765-1825), tác
giả Gia Định Thông Chí chép
rằng người Đồng Nai có tục khi sanh con lấy một que củi
cháy dở cặp vào đầu một cái cọc đem cắm ngoài cổng,
sinh con trai thì cắm đầu củi cháy trở vào trong nhà, sinh
con gái thì quay đầu trở ra; người ta còn buộc kèm thêm
một cây ráy. Toàn thể dấu hiệu ấy gọi là cái
khém, riêng thanh củi cháy dở gọi là cái
vỏ lửa.
Tục của người Đồng Nai dường
như cũng muốn báo tin rằng người đàn bà đã hết cữ, đã
đẻ xong.
Tục
ta kiêng cho ngườì khác đến đẻ nhờ ở nhà mình, kể cả
người ruột thịt họ hàng. Gặp hồì loạn lạc, có ngườì
đi tản cư phải dựng lều ngoài cánh đồng để đẻ. Đáng
thương nhất là những người đàn bà chửa phải lao động
quần quật đến tận sát ngày đẻ, đôi khi bất ngờ phải
đẻ đường, đẻ rơi.
Mẹ tròn con
vuông là niềm vui của mỗì gia đình Việt Nam !
Thật khó mà tưởng tượng được
rằng mới cách nay chưa bao lâu, nhiều vùng quê hẻo lánh của
nước ta còn chìm đắm trong những phong tục kì lạ của tín
ngưỡng dân gian, những phương thuật bí hiểm của mê tín
dị đoan. Bên cạnh một vài mẹo vặt vô thưởng vô phạt,
có nhiều mẹo nguy hiểm như cho đàn bà đẻ uống nước hòa
tro, uống nước ao !
Hầu hết các phương thuật đều
do đám thầy pháp, thầy phù thủy, hay mấy ông đồ nắm
được một ít vốn liếng chữ nho, chữ nôm
bày đặt ra. Họ tự do diễn dịch, bóp méo ý nghĩa
của chữ này chữ nọ để mê hoặc đám dân quê nhẹ dạ,
cả tin.
Nguyễn
Dư
(14/9/2000)
Sách tham khảo:
- Phan Kế Bính,Việt
Nam Phong Tục,nxb Tổng Hợp Đồng Tháp, 1990
- Đào Duy Anh,Việt
Nam Văn Hóa Sử Cương, nxb Bốn Phương, 1961
- Toan Ánh, Phong
Tục Việt Nam, nxb Khai Trí, 1968
- Nhất Thanh Vũ Văn Khiếu, Đất
Lề Quê Thói,Saigon, 1968
- Bùi Văn Cường,Nguyễn Tế Nhị,
Khảo
sát Văn Hóa Truyền Thống Liễu Đôi, nxb Khoa Học
Xã Hộì, 1982
- Thiều Chửu, Hán Việt Tự Điển,
Hà Nội, 1942 |