Tôi
đã có dịp nói chuyện phiếm với các bạn về "thằng Cuội,thằng
Bờm và thằng Mõ".Lần này xin nói tiếp đến hai nhân vật
"dở ông dở thằng" là thằng bù nhìn ( hay bồ nhìn, bù dìn
) và thằng phỗng.
Sở dĩ dám gọi
đùa là "dở ông dở thằng" là bởi vì không phải lúc nào
và ở đâu người ta cũng gọi bù nhìn và phỗng là thằng.
Thỉnh thoảng hai "thằng" này cũng được gọi thân mật, kính
trọng là bác là ông.
Thằng
Bù Nhìn
Quyền
trọng ra uy trấn cõi bờ
Vốn lòng vì
nước há vì dưa
Xét soi trước
mặt đôi vừng ngọc
Vùng vẫy trên
tay một lá cờ
Dẹp giống chim
muông xa phải lánh
Dể quân cày
cuốc gọi không thưa
Mặc ai nhảy
nhót đường danh lợi
Ơn nước đầm
đìa hạt móc mưa
Bài thơ này được
đặt tên là Thằng bù nhìn,
không rõ tác giả là ai. Người thì cho là của vua Lê Thánh
Tông, người khác lại cho là của Hồ Xuân Hương, người
khác nữa lại kết luận rằng bài thơ này là của người
đời sau làm ( Hoàng Xuân Hãn,
tập 3, Giáo Dục, 1998 ) .
Còn một thằng
bù nhìn khác, gốc gác tương đối chắc chắn hơn, nằm trong
Hồng
Đức quốc âm thi tập ( Văn Học,
1982 ) . Bài thơ mang tên Cảo nhân,
nội dung gần giống bài thơ chép bên trên.
Chỉ có thằng
bù nhìn thứ ba mới đích danh là thằng bù nhìn, được chính
Tản Đà ( 1889-1939 ) đặt tên:
Lơ láo
kìa ai đứng cạnh bờ
Trần ai tri kỷ
đã ai chưa?
Ba thu mưa gió
người trơ mộc
Bốn mặt giang
sơn áo phất cờ
Được việc
thế thôi,cày chẳng biết
Khinh đời ra
dáng,gọi không thưa
Lâu nay thiên
hạ văn minh cả
Bác mấy ngàn
năm vẫn thế ư ?
( Thăm thằng bù nhìn )
Cả ba bài thơ đều
tả thằng bù nhìn đứng ngoài cánh đồng, đuổi chim.
Xem vậy thì nhân
vật bù nhìn đã có mặt tại nước ta ít ra cũng hơn năm
thế kỉ rồi. Chúng ta lại được biết thêm rằng người
xưa, đời Hồng Đức ( 1470-1497 ) , gọi thằng bù nhìn là
Cảo nhân ( nghĩa là người làm bằng cành cây khô,hay bằng
rơm rạ ) .
Ngày nay dường
như chẳng còn ai nhắc đến tên Cảo nhân nữa. Mọi người,
từ thành thị đến thôn quê, chỉ biết có thằng bù nhìn
thôi. Biết mặt nhưng chưa chắc đã biết tên. Đúng hơn là
không biết cái tên bù nhìn kia từ đâu đến nhập cư thôn
quê Việt Nam ?
Mời các bạn
cùng chúng tôi thử đi tìm quê quán của thằng bù nhìn.
Trong
bộ sưu tập tranh dân gian của Oger có tấm Dũng
hình , được Nguyễn Mạnh Hùng
( Ký họa Việt Nam đầu thế kỷ
20, Trẻ, TP Hồ Chí Minh,1990 ) dịch
là Bù nhìn.
Tưởng là nắm được lí lịch của đương sự, nhưng xét
kĩ thì thấy có điều đáng ngờ.
Trước hết là
ý nghĩa của tên tranh. Chữ dũng ( hoặc dõng ) được Thiều
Chửu ( 1942 ) và Đào Duy Anh ( 1932 ) dịch là:
- tượng gỗ
- cái tượng
gỗ,tục xưa dùng để chôn theo người chết
Ngoài chữ dũng,
tiếng Hán còn có từ quỷ lỗi ( cũng đọc là ổi lỗi hoặc
khổi lỗi ) được hai học giả dịch là:
- tượng gỗ
( Thiều Chửu ) .
- người bằng
gỗ. Bu bê ( poupée ) ( Đào Duy Anh ) .
Như vậy thì,
theo Thiều Chửu và Đào Duy Anh, Dũng
hình nghĩa là cái tượng gỗ.
Tượng gỗ muốn
giới thiệu ai ?
Tấm tranh vẽ
một cô gái tươi cười, đầu đội nón ba tầm, khoác tấm
áo tơi bằng lá gồi còn lành lặn. Cô gái thật là xa lạ
đối với thằng bù nhìn đầu đội nón mê, áo quần tả
tơi, đứng giữa trời phất cờ đuổi chim của nông dân.
Cô không thể là một "chị bù nhìn" như Nguyễn Mạnh Hùng
đã ngộ nhận!
Tượng gỗ cũng
không phải là hình nhân ( con nộm ) của tín ngưỡng dân gian,
bởi vì hình nhân không được làm bằng gỗ. Hình nhân luôn
luôn được đan bằng tre, phất giấy, để khi đốt dễ cháy
hết thành tro. Vả lại, người ta không chôn chân hình nhân
xuống đất, hoặc dầm dưới nước, như trong tranh vẽ.
Tôi cho rằng tượng
gỗ này là một con rối của sân khấu múa rối nước, thủ
vai một chị chăn vịt, được nghệ nhân trang điểm đẹp
đẽ, điều khiển di động trên mặt nước.
Bây giờ xin bàn
đến nguồn gốc hai chữ bù nhìn.
Thằng bù nhìn
bắt đầu có mặt trong ngôn ngữ Việt Nam từ lúc nào?
Khó trả lời
chính xác.
Một điều chắc
chắn là hai tiếng bù nhìn đã có mặt trong ngôn ngữ Việt
Nam trễ nhất cũng là từ năm 1926, năm bài thơ Thằng
bù nhìn được đăng trong sách
Văn
Đàn Bảo Giám ( Mặc Lâm, Saigon,
1968 ) của Trần Trung Viên. Cũng vào thời kì này, năm 1928,
Nguyễn Văn Ngọc soạn sách Tục
ngữ Phong dao ( Sống Mới, Hoa Kỳ,
1978 ) , đã sưu tầm được thành ngữ bù
nhìn giữ dưa. Thành ngữ này nằm
chung với nhiều câu tục ngữ phong dao cổ xưa của Việt Nam,
khiến nhiều người nghĩ rằng bù nhìn cũng đã có mặt trong
ngôn ngữ Việt Nam từ lâu rồi ?
Rất có thể là
như vậy.
Nhưng bên cạnh
những câu tục ngữ phong dao cổ, Nguyễn Văn Ngọc còn sưu
tầm cả những thành ngữ mới có của thời đó như thày
cung thày cò. Từ cò của miền
Nam và từ cẩm của miền Bắc đã đến từ chữ commissaire
của tiếng Pháp.
Trong mục câu
đố, Nguyễn Văn Ngọc đưa ra câu:
Để im
thì nằm thin thít
Hễ động liếm
đít, là chạy tứ tung
và giải là cái
tem
dán thư ( timbre ) . Rõ ràng là Nguyễn
Văn Ngọc đã sưu tầm cả những câu mới có từ khi người
Pháp đến cai trị nước ta, trong đó biết đâu lại chả
có câu bù nhìn giữ dưa
?
Đại Nam quốc
âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của
( 1895 ) cũng đã chép rải rác một vài
tiếng mới
đến từ tiếng Pháp
như :
- cúp ( tóc )
: hớt tóc, cắt tóc.
- cái cúp: cái
chén có cán.
Chúng ta có thể
nói rằng ngay từ cuối thế kỷ 19, một số tiếng Pháp đã
được Việt hóa và đã đi vào ngôn ngữ Việt Nam.
Tuy nhiên, Huỳnh
Tịnh Của vẫn chưa biết đến thằng bù nhìn.
Do đó, dựa vào
mốc thời gian của hai bộ sách tôi đoán rằng hai tiếng bù
nhìn có mặt trong ngôn ngữ Việt Nam vào khoảng giữa năm
1895 và năm 1926.
Tự điển Việt-Hoa-Pháp
của Gustave Hue ( Trung Hòa,1937 ) có từ bù nhìn và được dịch
sang tiếng Pháp là mannequin pour effrayer
les animaux ( hình nộm dùng để
dọa súc vật ) .Định nghĩa này gần giống định nghĩa của
từ épouvantail
trong từ điển Larousse
: mannequin mis dans les champs, les jardins,
pour effrayer les oiseaux ( hình nộm
đặt ngoài cánh đồng, ngoài vườn, để dọa chim ) . Sự
trùng hợp của hai định nghĩa khiến tôi nghĩ rằng tên bù
nhìn của ta đã được đến từ chữ épouvantail của Pháp.
Chữ bù
là âm Việt của pou
( cũng như poupée được Đào Duy Anh ghi là bu bê ) . Chữ nhìn
có thể được hiểu là động tác nhìn, canh giữ của thằng
bù nhìn, nhưng cũng có thể chỉ là biến âm của chữ nhân
nghĩa là người.
Gần đây, Hoàng
Văn Hành ( Từ láy trong tiếng Việt,
KHXH, 1985 ) đã thử xếp hai chữ bù nhìn vào loại từ kép,
từ láy của tiếng Việt. Nhưng khi đi tìm hiểu ý nghĩa của
từ, tác giả phải thừa nhận rằng "các từ, kiểu như bâng
quơ, bù nhìn là những từ mà người bản ngữ hoàn toàn không
còn có thể nhận hiểu được nghĩa của từng yếu tố tạo
thành. Hơn thế nữa, người ta cũng không thể căn cứ được
vào bất kỳ đặc điểm nào về hình thái hay về ngữ âm
để giải thích nghĩa của từ cả. Quan hệ âm-nghĩa ở các
từ này rõ ràng là quan hệ võ đoán, quan hệ không có lý
do.".
Phải chăng chỉ
vì thằng bù nhìn của ta vừa lai Pháp, vừa có họ hàng bên
Tàu, nên quê quán của nó mới mù mờ, tên của nó mới khó
hiểu,vô lí như vậy ?
Ngày nay, bù nhìn
và con rối thường được dùng với nghĩa bóng để chỉ một
loại nhân vật chính trị. Người Trung quốc và Đại Hàn
gọi thằng bù nhìn đuổi chim của họ là đạo
thảo nhân ( người làm bằng rơm
rạ ) , nghĩa cũng giống như cảo
nhân.
Thằng
phỗng, ông phỗng
Có
lẽ Nguyễn Khuyến ( 1835-1910 ) là người để ý đến nhân
vật phỗng nhiều nhất. Ông là tác giả của hai bài thơ được
nhiều người biết :
Ông đứng
làm chi đấy hỡi ông
Trơ trơ như đá
vững như đồng
Đêm ngày coi
sóc cho ai đó
Non nước vơi
đầy có biết không?
( Ông
phỗng đá )
Người đâu tên
họ là gì
Khéo thay trích
trích tri tri nực cười
Dan tay ngửa mặt
lên trời
Hay còn lo tính
sự đời chi đây
Thấy phỗng đá
lạ lùng muốn hỏi
Cớ làm sao len
lỏi đến chi đây
...
Nên chăng đá
cũng gật đầu.
( Hỏi ông phỗng đá )
Phỗng được định
nghĩa là tượng người bằng đất, đá, đặt ở đền chùa,
miếu mạo, được coi là người đứng hầu nơi thờ tự.
Phỗng còn là tượng dân gian bằng đất, bằng sành hay bằng
sứ, cỡ nhỏ, dáng to béo, lạc quan, để bày chơi trong các
gia đình.
Tuỳ theo tượng
nặn một người lớn hay một trẻ con và tuỳ theo tượng
được đặt ở nơi thờ tự hay làm đồ chơi mà dân gian
gọi là ông phỗng hay thằng phỗng.
Tên phỗng từ
đâu ra?
Căn
cứ vào hai tấm tranh dân gian có chữ nôm, một tấm vẽ ông
phỗng bưng nến ,tấm kia vẽ thằng
phỗng đội nến (
lạp ) , chúng ta thử đi tìm câu trả lời cho câu hỏi trên.
- Chữ phỗng (
ông phỗng ) được viết bằng chữ bổng
và dấu nháy, một kí hiệu để chỉ rằng đây là chữ nôm.
Bổng
nghĩa là bổng lộc,tiền lương của quan lại. Nghĩa này không
thích hợp với nhân vật phỗng của tấm tranh.
Vì vậy, phải
hiểu rằng chữ nôm phỗng ở đây không phải là được
viết với chữ bổng, mà đã được viết bằng bộ nhân và
chữ phụng ( nhân+phụng=bổng ) . Bộ nhân chỉ người. Phụng
nghĩa là hầu hạ, vâng lời, dâng biếu. Nghĩa này thích hợp
với nhân vật phỗng, một kẻ đứng hầu nơi thờ tự, giữ
việc đội hoặc bưng nến, còn gọi là dâng nến.
- Chữ phỗng trong
tranh
thằng phỗng đội nến
viết hơi khác chữ phỗng của tranh
ông phỗng. Người viết chữ nôm
dùng bộ nguyệt làm kí hiệu thay cho dấu nháy, phần còn lại
thì giống nhau ( bộ nhân và chữ phụng ) .
- Bảng
tra chữ nôm ( Khoa Học Xã Hội,Hà
Nội,1976 ) viết chữ phỗng bằng chữ phỏng
nghĩa là bắt chước, phỏng theo. Nghĩa này cũng có vẻ xa
lạ đối với thằng phỗng của dân gian Việt Nam.
Ngôn ngữ Việt
Nam còn có thêm hai chữ phỗng khác:
- phỗng tay trên:lấy
hớt của người khác.
- phỗng: gọi
ăn trong một ván bài tổ tôm, tài bàn, một con bài thứ ba
của bất cứ người nào khi trong tay mình có hai con như thế.
Xét theo nghĩa
thì hai chữ phỗng này có thể đến từ chữ phủng,
nghĩa là bưng, dâng, biếu.
- thành ngữ ngồi
im như phỗng và đứng
im như phỗng đực, có nghĩa là
ngồi và đứng không động đậy, giống pho tượng đồ chơi
của trẻ con, hoặc giống ông phỗng nơi thờ tự.
Ông phỗng đá
thứ nhất của Nguyễn Khuyến đứng trơ trơ, đêm
ngày coi sóc cho ai đó, chắc phải
là ông phỗng đứng bưng nến hay đội nến ở chùa chiền,đền
miếu.
Ông phỗng đá
thứ nhì
dan tay ngửa mặt lên trời,
có vẻ lạc quan, thiếu trang nghiêm, hẳn phải là ông phỗng
đồ chơi.
Chữ phỗng không
có trong tự vị của Huỳnh Tịnh Của. Có thể đây cũng là
một chữ mới có từ đầu thế kỉ 20.
Nguyễn
Dư
13/4/2000.
|