Từ trước
đến giờ, tôi cứ đinh ninh rằng chỉ có một đức Phật
là Phật Thích Ca, còn Phật Bà Quan Âm là do người đời sau
thêm vào, và đức Phật Di Lặc thì chưa giáng sinh...
Một
hôm được xem bức tranh dân gian "Ông sư đội mũ thất Phật
(bảy đức Phật)", tôi bàng hoàng ! Rõ ràng chiếc mũ có bảy
mặt, mỗi mặt vẽ hình một đức Phật. Như vậy là có đến
bảy đức Phật ! Hiểu biết của tôi thật là nông cạn,
thô thiển. Từ ngày đó trong đầu tôi cứ lởn vởn câu hỏi:
bảy đức Phật là những đức Phật nào ? Các ngài là ai
?
May sao lời giải đáp cho thắc mắc
này, tôi đã tìm thấy trong bộ kinh Trường A Hàm (1).
Tôi xin chép tóm tắt ra đây, để giúp ai muốn tìm hiểu,
đỡ mất thì giờ tra cứu.
Theo bài kinh thứ nhất (Nhân duyên
giáng sanh, thành đạo, giáo hóa của bảy đức Phật trong
thế giới Ta bà), có ba đức Phật của kiếp quá khứ (Trang
nghiêm kiếp) và bốn đức Phật của kiếp hiện tại (Hiền
kiếp). Bài kinh không nói đến kiếp vị lai (Tinh tú kiếp).
Bảy đức Phật gồm :
1. Đức Phật
Tỳ Bà Thi của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại
thành Bàn Đầu Ma Na, và chứng (đắc đạo) dưới cây Bà
la, cách nay 91 kiếp. Thuở ấy nhân loại sống 8 vạn tuổi.
Ngài có 3 hội thuyết pháp gồm 168000, 100000 và 80000 đệ tử.
Hai đệ tử đứng đầu là Kiển Trà và Chất Sa. Đệ tử
chấp sự (người hầu hạ giúp đỡ) của ngài là Vô Ưu.
Cha ngài là Bàn Đầu Ma Đa, mẹ
là Bàn Đầu Ma Để, ngài có con tên là Phương Ưng.
2. Đức Phật
Thi Khí của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại thành
Quang Tướng, chứng dưới cây Phân đà lỵ, cách nay 31 kiếp.
Thuở ấy nhân loại sống 7 vạn tuổi. Ngài có 3 hội thuyết
pháp gồm 100000, 80000 và 70000 đệ tử. Hai đệ tử đứng
đầu là A Tỳ Phù và Tam Bà Đà. Đệ tử chấp sự là Nhẫn
Hạnh.
Cha ngài là Minh Tướng, mẹ là
Quang Diệu.
3. Đức Phật
Tỳ Xá Baø của kiếp quá khứ. Ngài giáng sinh tại
thành Vô Dụ, chứng dưới cây Bác Lạc Xoa, cách nay 31 kiếp.
Thuở ấy nhân loại sống 6 vạn tuổi. Ngài có 2 hội thuyết
pháp gồm 70000 và 60000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là
Phò Du và Uất Đa Ma. Đệ tử chấp sự là Tịch Diệt.
Cha ngài là Thiện Đăng, mẹ là
Xưng Giới.
4. Đức Phật
Câu Lưu Tôn của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh
tại thành An hòa, chứng dưới cây Thi lỵ sa. Thuở ấy nhân
loại sống 4 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 40000
đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Tát Ni và Tỳ Lâu. Đệ
tử chấp sự là Thiện Giác.
Cha ngài là Lễ Đức, mẹ là Thiện
Chi.
5. Đức Phật
Câu Na Hàm của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại
thành Thanh tịnh, chứng dưới cây Ưu đàm bác la. Thuở ấy
nhân loại sống 3 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm
30000 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Ưu Bà Hiển Xí
Đa và Uất Đa La. Đệ tử chấp sự là An Hòa.
Cha ngài là Đại Đức, mẹ là
Thiện Thắng.
6. Đức Phật
Ca Diếp của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại
thành Ba la nại, chứng dưới cây Thi câu loại. Thuở ấy nhân
loại sống 2 vạn tuổi. Ngài có 1 hội thuyết pháp gồm 20000
đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Đề Xá và Bà La Bà.
Đệ tử chấp sự là Thiện hữu.
Cha ngài là Phạm Đức, mẹ là
Tài Chủ.
7. Đức Phật
Thích Ca của kiếp hiện tại. Ngài giáng sinh tại
thành Ca tỳ la vệ, chứng dưới cây Bát đa (Bồ đề). Nhân
loại bây giờ sống 100 tuổi. Hội thuyết pháp của ngài được
1250 đệ tử. Hai đệ tử đứng đầu là Xá Lợi Phất và
Mục Kiền Liên. Đệ tử chấp sự là A Nan.
Cha ngài là Tịnh Phạn, mẹ là
Đại Hóa. Ngài có con tên là La Hầu La.
Về sự tích các đức Phật, có
sách chép : Ca Diếp và A Nan Đà (hay A Nan) là hai đệ tử của
đức Phật Thích Ca (2) (3).
Về mặt giáo lý, tông phái Đại
thừa tự cho là hiểu ý sâu xa của Phật, chủ trương chỉ
theo tinh thần lời Phật dạy mà tiến hóa. Người tu đạo
phát nguyện tự giác, giác tha, cứu mình và cứu chúng sinh.
Tông phái Tiểu thừa thì tự cho là theo đúng lời Phật dạy,
mọi việc đều chỉ cần theo đúng các kinh điển. Người
tu đạo nhằm tự cứu lấy mình.
Tuy cả hai tông phái đều nhắm
mục đích cứu khổ, giải thoát, nhưng vì quan điểm có khác
nhau, nên cách hành đạo, thờ cúng cũng có khác nhau.
Về mặt hình thức, chùa là nơi
thờ Phật. Việt nam là nước có nhiều chùa, nên các đức
Phật được thờ cũng nhiều !
Tại các chùa theo phái Tiểu thừa,
trên chánh điện chỉ bày tượng Phật Thích Ca, giáo chủ
Phật giáo. Ngoài ra không có pho tượng nào khác. Ngược lại,
các chùa theo phái Đại thừa, chịu ảnh hưởng văn hóa Tàu,
thờ nhiều Phật, nhiều nhân vật của Phật giáo. Nhiều chùa
còn thờ thêm thần thánh của đạo Lão, của tín ngưỡng
dân gian (2) (3).
Vào một ngôi chùa theo Đại thừa,
ngước lên chánh điện, ngó sang bên trái, ngoảnh qua bên phải,
nhìn lại phía sau, khách thập phương có cảm tưởng như đang
thăm viếng một viện bảo tàng trưng bày tượng. Lớp trong
lớp ngoài, tầng trên tầng dưới. Tượng Phật, tượng La
hán, tượng Bồ tát, tượng Hộ pháp. Mỗi giới lại có nhiều
vị. Có chùa cho là chưa đủ, bày thêm Đế Thích, Phạm Thiên,
Ngọc Hoàng, Minh Vương, Nam Tào, Bắc Đẩu... Sơn son thếp
vàng rực rỡ, chữ nho lớn nhỏ, dọc ngang (4).
Phật tử nào chưa biết rõ lai lịch, vai trò của các vị
được tạc tượng, đến chùa lễ Phật thường bị choáng
ngợp, hoa mắt, ngẩn ngơ. Các cụ cho rằng càng nhiều càng
hay, càng to càng quý. Đám trẻ đứa nào nhát gan thì đâm
ra sợ sệt, đứa nào bạo dạn mới dám tò mò đặt
câu hỏi... Câu trả lời xoay quanh Tam thế, Tam thân, Thập
bát La hán, Thập điện Diêm vương... Càng huyền bí, càng
linh thiêng. Giản dị quá hóa phàm tục. Kẻ mới bắt đầu
học Phật hoang mang như lạc vào rừng, chỉ thấy cây, cây
nhiều che lấp cả cánh rừng, ngăn mất nẻo về. Bậc uyên
thâm giáo lý gật gù, trầm trồ khen ngợi...
***
Tôi mơ một ngày trời trong sáng,
êm dịu, được thả bộ nơi đồng quê Việt nam, thơ thẩn
dạo chơi giữa ruộng lúa, khóm tre. Bỗng nghe tiếng chuông
chùa ngân vang, từ đâu vọng lại. Như mời, như gọi...
Tôi vào thăm chùa. Chùa làng nhỏ,
bốn bề rêu mốc. Chánh điện bày biện đơn sơ, hai ngọn
đèn dầu chỉ đủ soi sáng một pho tượng Phật. Khói hương
tỏa mùi thơm nhẹ nhàng, không làm điếc mũi nhức đầu.
Sư cụ đang tụng kinh. Chuông mõ điểm nhịp đều đặn, khoan
thai. Chùa không có máy tăng âm, nhưng chú ý nghe cũng nhận
ra sư cụ tụng kinh bằng tiếng Việt.
Tụng kinh xong, sư cụ gọi chú tiểu
mang ấm nước vối ra mời khách. "Tiếp khách mà không có
được chén trà Tàu nóng thơm. Xin ông bỏ qua. Chùa còn nghèo".
Tôi trân trọng uống cạn chén nước vối. Chuyện trò cùng
sư cụ. Chuyện đạo, chuyện đời...
Bước ra khỏi cổng chùa, một làn
gió nhẹ thoáng qua, tôi rùng mình, văng bật ra khỏi giấc
mơ...
Nguyễn
Dư
***
(1) Thích
Trí Đức : Kinh Trường A Hàm, NXB Phật học viện Trung Phần,
1962.
(2) Toan
Ánh : Tín ngưỡng Việt nam, quyển I, NXB Xuân thu, Hoa kỳ (in
lại), t.276-308.
(3) Louis
Bezacier : L'art vietnamien, Edition de l'Union française, Paris, 1954,
p.152-176.
(4) Võ Văn
Tường : Việt nam danh lam cổ tự, NXB Khoa học xã hội, Hà
nội, 1993.
|