Ôi! Cham Pa sao buồn không tiếng hát
Ai là người góp nhạc kết lời ca,
Để Cham Pa trổi lại khúc quan hà,
Người thiếu phụ vẫn chờ tin chiến mã...
Vân Trang (Nỗi buồn Cham Pa)
XVIII-
Thánh Địa Mỹ Sơn
Thánh địa Mỹ Sơn là
một tổ hợp nhiều đền đài nằm trong một thung lũng
dài 2km thuộc xã Duy Phú, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam,
không xa thành phố cũ Trà Kiệu. Năm 1896, Camille Paris là người
đầu tiên khám phá di tích và rập hình một số văn
bia. Ba năm sau, đến lượt Louis Finot và Lunet de Lajonquière
tiếp tục công việc và vẽ bản đồ.
Sau một chuyến thăm dò năm 1901, có Charles Carpeaux phụ tá,
Henri Parmentier điều khiển một cuộc khai quật 11 tháng hai
năm 1902-1903. Kết quả phong phú được trình bày trong
một bản kiểm kê mang tên ông ngày nay là tài liệu quí báu
cho những nhà khảo cổ. Trải qua đoạn
đầu thế kỷ XX chẳng có khám phá quan trong nào khác
ngoài các công trình sắp xếp của Philippe Stern và Jean Boisselier,
cho đến những năm thập niên
80 mới thấy có các cuộc trùng tu, đặc
biệt những năm 1983-1985. Ngày nay, sau khi thánh địa Mỹ Sơn
được cơ quan UNESCO xếp hạng di tích nhân loại năm 1999,
một nhóm chuyên gia người Ý
được cậy thiết lập đồ án chỉ đạo và công cuộc
trùng tu tiếp tục.
Nằm cách xa phía đông-nam
Đà Nẵng 33 km, thánh địa chiếm một đài vòng 1500m
chiều ngang, 1800m chiều dọc. Núp bóng Hòn Đền
tức Đại Sơn Thần Mahapavarta, hòa mình trong lòng một
nhánh nhỏ sông Thu Bồn, lăng mộ các
vị vua Chăm, nơi thờ cúng thần Shiva, cụm tháp là một trong
những trung tâm đền đài chính Ấn Độ giáo ở Đông Nam
Á. Tuy không phải là một kinh đô, Mỹ Sơn thường được
so sánh với các thánh địa Borobodur (Java), Angkor Vat (Campuchia),
Pagan (Myanma), Ayutthaya (Thái Lan). Thường được tin tưởng
tuy không có một bằng chứng khảo cổ cụ thể, bắt đầu
từ thế kỷ IV, đền thờ đầu tiên làm bằng gỗ,
dần dần nhiều tháp lớn nhỏ, đền
đài, lăng mộ được xây dựng bằng gạch, giữa hai thế
kỷ VIII và XIV, biến hóa một nơi hành lễ thành một
trung tâm văn hóa và tín ngưỡng các triều đại Cham Pa lớn
nhất Việt Nam. Tổng số công trình kiến trúc là trên 70 cái,
có mặt trong hầu hết các phong cách nghệ thuật theo quá trình
tiến triển, trong đó có 2 xuất hiện từ Mỹ Sơn.
Các nhà khảo cổ Pháp Louis de Finot, Lunet de Lajonquiere,
Henri Parmentier, Olrpeaus đầu tiên khai quật đã dùng chữ cái
và số (theo thứ tự lớn nhỏ) tùy tiện đặt tên cho 10 nhóm
chính A, A’ (tháp Chùa), B, C, D (tháp Chợ), E, F (tháp Hố Khế),
G, H (tháp Bàn Cờ), K có niên đại và phong cách khác nhau :
Mỹ Sơn E1 và F1 thế kỷ VII-VIII, phong cách Mỹ Sơn E1;
Mỹ Sơn A2, C7, F3, cuối thể VIII đầu thế kỷ IX, phong cách
Hòa Lai; Mỹ Sơn A10, A11-13, B4, B12, cuối thế kỷ IX đầu
thế kỷ X, phong cách Đồng Dương ; Mỹ Sơn B5, B6, B7, B9, C1,
C2, C5, D1, D2, D4, thế kỷ X, phong cách Mỹ Sơn A1; Mỹ Sơn A4,
F2, K, đầu thế kỷ XI giữa thế kỷ XII, phong cách chuyển
tiếp Mỹ Sơn A1 - Bình Định; Mỹ Sơn B1, G, H, cuối thế kỷ
XI đầu thế kỷ XIV, phong cách Bình Định. Nghệ thuật
và kiến trúc qua bố cục đền tháp
mang ảnh hưởng lớn của phong cách Ấn Độ. Bao phía
ngoài là các tháp phụ A8-A12 phân bố trên một mặt bằng
vuông. Đối diện với cụm nầy là cụm tháp B, trung tâm thánh
địa.
Đến nay, 32 tấm bia
đã được khai thác. Thần Bhadresvara đã được chứng nhận
tôn thờ từ thế kỷ V, mặc dầu đền đài chỉ được xây
dựng đầu thế kỷ VII. Nhóm A gồm có 6 ngôi đền nhỏ A2-A7
đối xứng nhau thờ các vị thần phương hướng. Đền A1
độc nhất bằng đá, cao 28m, thuộc phong cách Mỹ Sơn A1, tuy
không phải là tháp xưa nhất trong cụm, được xem là
kiệt tác kiến trúc di tích Chăm, bị
bom phá đổ năm 1969 trong thời kỳ chiến tranh. Nhóm A’ có
những nét tương tự trang trí với nhóm A. Một tượng Shiva
mất đầu, mất tay, cao 1,27m, thế kỷ VIII, cũng là một
kiệt tác chạm trổ Chăm, được khám
phá trong đền A’4 chôn vùi dướí đất. Nhóm B gồm có ít
nhất 14 đền phần lớn đổ vở. Một tượng Ganesha ngồi
hai tay, một tượng Skanda ngồi trên con công, không xác định
niên đại, được tìm ra trong điện B1. Gồm có 7 đền, nhóm
C có kiến trúc tuơng tự Mỹ Sơn A1. Trán tường đền C1 hình
dung thần Shiva có những nét trán tường Mỹ Sơn A’1.
Không được xây cùng
lúc, 10 điện đài trong nhóm E có lẽ là nơi dùng gạch
trước nhất. Điện E1, xưa nhất, qua cột tháp, bệ tượng,
nhất là trán tường, được xác định
niên đại thế kỷ VII. Trán tường, ngày nay trưng bày
ở viện Bảo tàng Đà Nẵng, khai trương thời kỳ hoa sen:
từ lỗ rốn Vishnu nằm trên con rắn bất tử chín đầu trong
thủy quyển ban sơ, Brahma phóng ra trong Hoa sen Thế giới, hai
bên có thần điểu Garuda chân chim nắm rắn. Tượng Vishnu
hai tay nầy là xưa nhất trong nghệ thuật Chăm.
Cũng ở trong nhóm E nầy đã được tìm ra một bệ tượng,
hiện nay cũng ở viện Bảo tàng Đà Nẵng: hình dung núi Kailasa,
ở trên có Shiva dưới hình thức một linga,
kiệt tác được trang trí với những nhà khổ hạnh
hoạt động khác nhau. Điện E5 cống
hiến một Ganesa cao 80 cm, mặc áo da cọp, đứng, bốn tay,
hai tay trên nắm tràng hạt và một cái rìu, hai tay dưới
nắm bát kẹo và một nhánh cải gia vị mulakakanda. Tượng
nầy, rất quan trọng trong nền mỹ thuật và tín ngưỡng Đông
Nam Á, đã nêu lên nhiều câu hỏi vi là tượng xưa trong
vùng độc nhất mang áo da cọp và cầm cải gia vị.
Sau E1, những điện F1
và F3 trong số ba đền đài F là xưa nhất. Điện
F1 quan trọng nhất, mất cái chỏm, được dựng trên
một nền gạch rất cao, trang trí sư tử, người cầu kinh,
hình người nâng đở mũ cột, có thể có niên đại
thế kỷ VIII. Ở đây đã có tìm ra đuợc một jatalinga
ba phần tiêu biểu nghệ thuật Cham Pa ấn hóa và một trán
tường hình dung Ravananugrahamurti rung lắc núi Kailasa.
Điện F3 là một trong những điện xưa còn đúng vững cùng
với A’2 trước thế chiến, phía trước có bia văn ký. Điện
F2 xây sau, chưa xong, chứng minh nhiều tháp được thêm
vào sau. Những điện đài nhóm
G cũng như hai nhóm H và K được xây trên đồi cao, xa những
nhóm khác. Khá điêu tàn, những di tích nầy được
xác định xây giữa 1147 và 1162 theo văn ký trên bia, có thể
để thờ Harivarmesvara. Trang trí gồm có đầu Kala tương tự
Kala Nam Dương, Gajasimha có lỗ tai voi và chuỗi nhạc của vật
cưỡi. Nhóm H với 4 đền đài cũng hư hại không kém.
Còn lại, ngoài một con bò Nandi, một trán tường với Siva
tám tay, mí mắt nhìn xuống, đồ trang
trí mũ miện, hoa tai tuy có vẻ chăm, toát ra một ảnh hưởng
sâu đậm Khơ me. Từ tháp K chỉ còn lại một trán tường…
Thời Pháp nhiều tháp còn đang
vững nhưng đã bị trúng bom sụp đổ trong thời kỳ kháng
chiến. Phần lớn những đền đài khác đều bị hư hại
với thời gian. Nói chung, tuy chứa đựng nhiều biểu tuợng
Phật giáo, cụm tháp Mỹ Sơn đuợc xem là quan trọng nhất
trong thể loại kiến trúc Ấn Độ giáo ở Việt Nam.
















Thánh địa Mỹ Sơn

Thành
Xô thu đông 2015
|
|
Hết
(*)Ảnh
chụp những năm 1986-2007, cốt yếu hai năm 1998-1999, sao từ
dương bản. 160 dương bản nẩy đã được ông Pierre Baptiste,
Quản đốc ở viện Bảo tàng Á Đông Guimet Paris "mượn" để
minh họa những bài giảng của ông tại điện Louvre. Ông có
chính thức cảm ơn trong cuốn
Trésors d’art du Vietnam
- la sculpture du Champa.
Vài sách về nghệ thuật Cham Pa
- Tran Ky Phuong, Les ruines cham, The gioi,
1993
- Jean-François Hubert, L’Art du Champa, 2005
- Trésors d’art du Vietnam – la sculpture du Champa,
Musée
national des arts asiatiques Guimet, 2005
- Nguyễn Văn Kự, Ngô
Văn Doanh, Andrew Hardy, Du khảo Văn hóa Chăm, Viện
Nghiên cứu Đông Nam Á, Viện Viễn
Đông Bác cổ Pháp, 2005
- Emmanuel Guillon, Art et archéologie du Champa,
Piccard,
2011
PHỤ BẢN
|
|
Hương Quế
Quảng Nam
Viện Bảo tàng lịch sử TP HCM
|
Tara
Đồng Dương
Viện Bảo tàng điêu khắc Cham Pa Đà Nẵng
|