Chùa Hàm Long thơm trong giếng cấm,
Diêm tiêu nào ngăn được nước trong
Ca dao
Thiền sư Giác Phong
Ở
Huế, có tiềng nhất và luôn được khách du lịch lại viếng
là Thiên Mụ tự tức chùa Thiên Mụ (**)
chính thức khởi lập năm Tân Sửu 1621. Nếu chùa nầy tọa
lạc trên đồi Hà Khê thì một ngôi chùa khác ở Huế cũng
được khai sơn cuối thê kỷ XVII trên đồi Hàm Long, lúc trước
thuộc làng Thụy Lôi, gần xóm Lịch Đợi, ít được biết
hơn: chùa Bảo Quốc. Chùa được xây dựng ngay trong thành
phố, cạnh sông An Cựu và đường Điện Biên Phủ dẫn lên
đàn Nam Giao, không xa nhà ga Huế bao lăm. Không tọa lạc ngay
sát đường nên ít bị xe cộ ồn ào, chùa thụt lùi về đàng
sau đường nhường chỗ cho một thang cấp hơn 20 bậc đưa
lên cổng Tam Quan như để ngăn chận bụi trần của chốn
đô thị. Tôi đã lên chùa hồi nhỏ nhưng đến sau nầy, cách
đây ba mươi năm, nhân về thăm quê, mới được một anh bạn
giáo sư dẫn vào viếng lại chùa. Thích thú là có năm chú
tiểu (ở Huế gọi là điệu) vui vẻ chuyện trò thân
thích trên cao bậc thang, trước cửa Tam Quan. Các chú làm tôi
liển tưởng đế các tiểu nắm tay nhau thong dong dạo chơi
buổi trưa trên các nẻo đường vườn chùa Vat Xieng Thong ở
Luang Prabang hay các chùa Songwangsa ở Nam Hàn năng nổ nhưng
lễ phép nhỏ nhẹ mới khách ra về lúc cuối chiều để khỏi
phá rầy các thầy đã bắt đầu nhập thiền. Các chú điệu
thỏai mái tiếp đón chúng tôi như người trong chùa, cả hai
chúng tôi đều sử dụng giọng Huế đặc sệt quen thuộc.
Ba mươi năm qua, nay chắc các chú đã trở thành những thiền
sư kiên tín ở một thiền viện nào…
Cổng Tam Quan
Người sáng lập chùa được biết là Thiền
sư Giác Phong quê Quảng Đông, Trung Quốc, nhưng còn thiếu
tiểu sử cùng địa lý nơi dựng chùa. Hồi ấy đây là những
dảy núi hoang vu, rừng rậm cây ngàn, có gặp chăng là vài
tiều phu của những người bản dịa : Tà Ôi, Vân Kiều hay
Cô Tu, Chăm Pa. Các chúa Nguyễn là những người Kinh vào đây
khai phá, cái gì cũng mới nên phải đặt tên : đèo núi, hói
đồi, sông ngỏi, thôn làng. Dãy núi nơi đặt chân Thiền
sư có thân hay đầu tựa một con rồng nên được đặt tên
Hoàng Long Sơn. Tương tự, sau nầy, đồi chùa Trúc Lâm ở
Villebon (Pháp) cũng được thầy Thiên Châu
đặt tên Hoàng Vân Sơn tự. Năm 1747, chùa được gọi Bảo
Quốc khi nhà sư Hữu Phi làm trù trì. Trong thời kỳ Tây Sơn
(1778-1802), như chùa Thiên Mụ, chùa bị chiếm làm kho vũ khí
hay chuồng nuôi ngựa nên thất sủng. Năm 1808 để báo hiếu
mẹ là Hiếu Khương Hoàng Thái Hậu, vua Gia Long (1762-1820) trùng
tu chùa, xây Tam Quan và đúc Đại Hồng Chung (836 cân). Vua thay
tên chùa là Thiên Thọ Tự, cử nhà sư Bảo Ninh làm trù trì,
nhưng về sau vì lăng Gia Long gọi là Thiên Thọ Lăng nên vua
Minh Mạng đổi lại tên Bảo Quốc như cũ. Vua Minh Mạng (1820-1840)
trùng tu chùa vào năm 1824 và vua Tự Đức (1848-1883) góp phần
tôn tạo năm 1858. Tên Hàm Long Sơn không chỉ vì thân
mà, còn đầu núi đều có hình rồng. Tuy nhiên, theo Đại
Nam nhất thống chí, tên nầy xuất xứ từ cái giếng cổ
ở phía bắc chùa gọi là giếng Hàm Long. Hiện chùa còn giữ
một tác phẩm của Phó Bảng Trần Văn Thọ tức Điềm Tịnh
cư sĩ mang tên Hàm Long Sơn chí bằng chữ Hán ghi lại lịch
sử không phải dãy núi mà là cuộc phát triển Phật giáo
Thuận Hóa. Nước giếng ngọt thơm và dân gian tin dưới đáy
giếng có phiến đá hình miệng rồng và nước trong mát được
phun ra từ cái miệng rồng đó. Nước rất tinh khiết chỉ
dành cho vua được dùng nên còn có tên gọi Giếng Cấm.
Ngày
nay nước giếng không biết cỏn trong mát tinh khiết như xưa
và bất cứ ai trong dân gian cũng lại múc uống được, dù
sao nước đã được truyền tụng
Nước Hàm Long đã trong lại ngọt
Em thương anh rày có bụt chứng tri.
Khu tháp
Hiện nay niên đại khai sơn thảo am Bảo Quốc
chưa được xác định. Con số 1680 có thể đưa ra để giới
hạn năm thảo am xuất hiện. Đây là năm Tổ sư Liễu Quán
(1667-1742) từ Phú Yên theo thuyền buôn ra Huế xin thụ giáo
Thiền sư Giác Phong. Còn một tài liệu do chúa Minh Vương Nguyễn
Phúc Chu (1675 -1725) phê duyệt, đề niên hiệu Chính Hòa năm
thứ 15 tức năm 1694, phát đất cho hai thiền sư Nguyên Thiều
và Giác Phong để xây tháp Phồ Đồng tại chùa Quốc Ân.
Tài liệu nầy hiện giữ tại chùa Quốc Ân, chứng minh hoạt
động Phật sự của Thiền sư Giác Phong tại Thuận Hóa. Không
biết được ngày tháng chính xác, thảo am được suy đoán
xây dựng trong khoảng thời gian các năm 1680-1694. Trái lại,
niên đại được biết rõ ràng là Thiền sư viên tịch một
ngày mùa đông năm Vĩnh Thịnh thứ 10 tức năm 1714, theo bia
tháp trong vườn chùa Bảo Quốc, lúc Minh Vương đang bận bịu
trùng tu mở rộng chừa Thiên Mụ. Tháp Ngài cất từ 1714,
cao 3m30, với những tầng xây gần sát nhau tương tự các tháp
Trung Quốc. Trên bia tháp ghi Tào Động nguyên lưu khai sơn
Hàm Long Thiên Thọ Tự, húy Pháp Hàm, hiệu Giác Phong, Tổ
sư bảo tháp. Tuy nhiên, Theo cha Cadière viết trong báo BAVH
1928 thì một bia khác không ghi cùng ngày tháng Vĩnh Thịnh
thập niên, thập nhị nguyệt, nhị thập nhị nhật lập. Viên
thọ Tì kheo giới, húy Pháp Hàm Giác công Thiền sư chi tháp.
Phụng tự Pháp trí đệ tử chúng đẳng. Ngày 22 tháng
chạp năm Vĩnh Thịnh thứ 19 ứng với ngày 27.01.1715. Sau nầy,
năm 1962, Giáo hội Tăng già Trung Việt muốn đưa xá lợi Ngài
vào nhập ở Đại tháp Niết Bàn, nhưng vì gặp được cả
một bình tro xá lợi, nên không đem nhập tháp nữa, mà lại
tôn trí thờ ở tầng trên cao chính giữa bàn thờ Tổ phía
hậu điện. Bình tro xá lợi thâu được sau khi làm lễ trà
tỳ, là một biểu lộ kính cẩn đối với vị Đạo sư đắc
đạo, cũng là một di sản quí báu của Phật giáo Huế.
Phật học đường
Ba mươi năm sau Minh Vương, vào năm Đinh Mão
(1747), Hiếu Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) đã cho mở
rộng ngôi chùa Tổ và long trọng ban tên chùa với tấm biển
khắc mấy chữ do chính tay chúa viết Sắc tứ Bảo Quốc
Tự; bên mặt có dòng chữ Quốc
vương Từ Tế Đạo nhân ngự đề, bên trái có dòng
lạc khoản Cảnh Hưng bát niên hạ ngũ nguyệt cát nhật.
Suốt thời Nguyễn chùa được trùng tu nhiều lần. Năm 1808,
Hoàng hậu Hiếu Khương cho tái thiết ngôi chùa, xây Tam Quan,
đúc Đại Hồng Chung, Bảo Khánh,… và đổi tên thành chùa
Thiên Thọ, cử Thiền sư Phổ Tịnh làm trù trì. Năm 1824,
vua Minh Mạng ngự viếng chùa và lấy lại tên Bảo Quốc Tự.
Nhân lễ tứ tuần khánh thọ năm 1830, tăng ni khắp mọi miền
trong vương quốc tụ hội về chùa Bảo Quốc làm giới đàn
để chọn tăng ni có phẩm hạnh. Những năm sau đó, không
được trùng tu, chùa bị hư hỏng
nhiều. Năm 1858, vua Tự Đức và Hoàng Thái Hậu Từ
Dũ ban tiền sửa sang lại chùa, đặt biệt chính điện. Tương
tự như đời Tự Ðức, thời Thành Thái tổ chức nhiều đại
lễ ở chùa, vào những dịp này tăng ni từ các nơi hội về
nghe các danh tăng giảng pháp, trong số đó có sư Diệu Giác.
Năm 1895 sư nữ thọ 90 tuổi, triệu vời môn đồ lại giảng
pháp lần cuối rồi hóa (chuyển qua kiếp sống khác).
Hoà thượng Tâm Truyền, rồi sau đó Hoà thượng Tâm Khoan
nối pháp trụ trì. Năm1897 (Thành Thái IX) chùa nhận 5 bảo
tháp chứa di cốt chư Tổ từ chùa Từ Đàm dởi qua. Vào những
năm 1930, trong phong trào chấn hưng Phật Giáo, chùa đóng góp
nhiều về mặt tăng tài cho Phật Giáo. Năm 1935 chùa mở Trường
sơ đẳng Phật học. năm 1940 Trường Cao đẳng Phật học.
Ngày nay, chùa trở thành một Trung tâm đào tạo Tăng Ni cho
Huế, cho miền Trung. Năm 1957, Giáo hội Tăng già Thừa Thiên
và ban quản trị chùa tổ chức đại trùng tu chùa. Hòa thượng
Thích Trí Thủ, trù trì chùa, cũng là Giám đốc Phật học
đường, đã đóng góp to lớn về việc tái thiết tổ đình
trang nghiêm đậm nét kiến trúc cổ kính, đồng thời về
việc tổ chức Phật giáo nói chung. Nay trù trì chùa là Hòa
thượng Thích Đức Thanh.
Trang trí chùa
Để vào chùa,
sau các thang đá nhiều bậc là cổng Tam Quan, xây dựng năm
1873. Mặt ngoài, ngoài những chữ Phạn, có biển đề Sắc
Từ Bảo Quốc Tự, bia lớn cỡ 1m. Săp đặt không cân
đối, các tháp ở mặt phía đông có các dòng chữ ghi pháp
danh và phẩm vị. Khoảng sân trước chùa có tường thấp
bao quanh, bình phong thanh nhã, đắp nổi hoa sen và ba chữ Phúc,
Lộc, Thọ, khảm mảnh sứ men lam.. Cuối gian bên mặt trên
Đại Hồng Chung có minh ghi chuông được đúc theo lệnh của
Hoàng Thái Hậu. Ở giữa chính điện là một bàn thờ lớn,
trên cùng là bộ tượng Tam Thế Phật kiểu Ấn Độ, có mái
tóc xoắn. Bên cạnh có tượng nhỏ Phật Đản Sinh thếp vàng
trong tư thế thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Trên
tầng thờ này còn an vị bức tượng Di Lặc quen thuộc với
cái bụng to, tượng Quán Thế Âm cứu khổ, lo cứu độ người
quá vãng, tượng Địa Tạng che chở cho những vong linh đang
cận tử và tương Phật Thị Kính bảo vệ trẻ nhỏ. Tầng
thứ hai an vị tượng Ngọc Hoàng Thượng Đế, vị vua trời
của Ðạo giáo, đội mão Bình Thiên, xung quanh có các vị
thần hộ pháp xua đuổi tà ma và thần hộ phật cứu độ
các cô hồn, Nam Tào và Bắc Đẩu. Còn có các vị thần quen
thuộc như Thổ Công (thần đất), Ông Táo (thần bếp), Thành
Hoàng (thần làng), Thần Nông lo việc nông tang, Tỉnh Tuyền
Long Vương (vua rồng suối giếng). Tầng bên dưới nữa, an
trang trọng một thần vị sơn son, phủ vải vàng, cung hiến
cho vị vua đương triều. Cũng trong gian thờ này tựa hai bên
tường kê phụ thêm những bàn thờ nhỏ, từ phải qua trái
thấy có Thập Bát La Hán, Thập Ðiện Diêm Vương, Bà Thiên
Mẫu, Quan Công, Bà Chuẩn Đề.
Sách vở vườn chùa
Phía sau chính điện có một bàn thờ dành cho
Hoàng Thái Hậu Hiếu Khương, mẹ của vua Gia Long, đại ân
nhân của chùa. Có nhiều bàn thờ dành cho các vị sư, có
những bài vị màu đỏ khảm các họa tiết vàng, ghi tên các
vị hòa thượng và trụ trì nhiều công đức nhất mà chùa
rất làm vinh hạnh. Ngoài 5 món tự khí, bình hoa, bát nhang
và chân đèn; người ta nhận thấy còn treo bên bàn thờ những
vật dụng của các vị sư quá cố : gậy tích trượng ở
đầu có gắn 12 vòng khoen móc vào nhau, nghi trượng của các
chủ sám khi hành lễ, phù phất phủi sạch mọi thứ bụi
trần ố, chuỗi hạt kim cang để không còn lưu luyến đến
sự việc nơi trần thế, túi lụa đựng bằng khoán của ngôi
chùa, danh sách truyền thừa của các vị sư. Ngoài ra, chùa
còn có hai gian phòng rộng dùng làm tăng phòng, một gian khác
có đầy đỉ bàn ghế dùng làm nhà khách; bên phải có nhà
thọ trai, nhà trù (nhà bếp) và các công trình phụ khác. Trong
nhà hội (phòng học cho tăng sinh), người ta an một bàn thờ
nhỏ dành cho những phật tử không con nối dõi; các bài vị
riêng của từng vong được an thờ ở đây ba năm, sau thời
gian này đem đi thiêu hóa và tên của vong được ghi vào bài
vị chung an thờ ở một phòng khác. Trong gian phòng này cũng
có tên những vị sư quá cố nhưng không có danh phẩm cao.
Hiện nay tăng viện chùa Bảo Quốc gồm một trụ trì, sáu
sư và chú tiểu. Chúng tôi được hân hạnh được đem vào
viếng Trường một buổi sáng. Các tăng ni màu áo khác nhau,
ngồi nghiêm nghị sau những bàn nhỏ không khác gì những học
trò trường cũ năm xưa, cảnh tượng làm tôi nhớ lại cả
một thời kỳ thơ ấu. Đến giờ giải trí, không thấy chạy
ồn ào ra ngoài, đá banh rộn rịp trong sân trường nhưng đứng
chụm ba chụm bảy chuyện trò huyên náo. Các sư nữ tươi
cười đàm đạo như những nữ sinh Đồng Khánh, không xen
lẫn với các sư nam, thật ra họ cũng là các cô gái Huế,
khác chăng là màu sắc các bộ áo, tâm tư không nổi bật
ra ngoài. Khắp vườn, ở khu các lăng mộ, yên tĩnh là thường,
không một lời hát, không một trận cười. Các cô, bất tất
phải là nhà tu hành, tìm chỗ mát mẻ ngồi đọc sách hay
học bài. Âu cũng là một mục đích bất ngờ, không tính
trước của các thiền sư và các vị kiến trúc sư.
Chùa này nghe có vết xe tiên
Cảnh sắc như xưa tợ ảo huyền...
(*) Ảnh chụp những năm 1998, 1999
sao từ dương bản
(**) Võ Quang Yến,
Ngôi chùa Thiên Mụ quê tôi , Chim Việt Cành Nam, chimviet.free.fr
43 01.06.2011
Ðọc thêm
-J.A.Laborde, Chùa Bảo Quốc, Bulletin des
Amis du Vieux Húe, 4ème Année, 3 7-9 1917 Việt
dịch Ðức Chính
-Hà Xuân Liêm, Những ngôi chùa Huế, nxb
Thuận Hóa, 2000
-Nguyên Nguyên, Chùa Bảo Quốc, Trung tâm
Văn hóa Phật giáo Liễu quán lieuquanhue.vn 16.05.2009
-Thích Hoằng Trí, Bước đầu khảo cứu tác
phẩm Hàm Long sơn chí, Tạp chí Hán Nôm (117) 2013, hannom.org.vn
27.12.2014
- An Nhiên, Chùa Bảo Quốc Huế, taman.tv
12.05.2015
|