Qua
nhiều thế kỷ, văn hóa Ấn Độ đã tác động lên bán đảo
Đông Dương trong mọi lĩnh vực vật chất và tinh thần, đồng
thời bồi bổ nền văn hóa địa phương sẵn có từ trước.
Cham Pa một thời choán giữ toàn miền nam lĩnh thổ Việt Nam
là đất nước đông phương xa nhất
chịu ảnh hưởng Ấn Độ rất nhiều. Các sử gia tin người
Chăm là hậu duệ những nhà hàng hải Mãlai-Pôlinêdi,
ngữ hệ austrônêsien (tiếng Hy Lạp-La Tinh austronesia
có nghĩa "đảo phương nam")
nguồn gốc quần đảo Nam Dương Inđônêxia vượt trùng
dương mà đến. Chính xác hơn, họ còn xác định
tiếng nói người Chăm rất giống ngôn ngữ dân tộc Aceh (hay
Ạgtet, Acheh, Atjeh, Acem, Achin) ở cực bắc đảo Sumatra. Vào
khỏang các thế kỷ I, II trước Công nguyên, những người
di tản nầy định cư dọc miền duyên hải Trung bộ, nảy
nở trong văn hóa thời đại đồ sắt
Sa Huỳnh, song song với thời đại đổ đồng Đông Sơn ngoài
Bắc. Miền Trung là một chuỗi thung lũng nhỏ, dựa lưng vào
dãy Trường Sơn, mỗi vùng có sông từ núi chảy ra Biển Đông,
có điều kiện trở thành chiếc nôi phát triển một số công
quốc, đến thế kỷ X sắp đặt từ bắc vào nam: Indrapura,
Amaravati, Vijaya, Kauthara, Panduranga. Ngay từ đầu, nhiều người
Ấn Độ, trước thương gia, sau tu sĩ, nghệ sĩ lại giao du,
hoặc bằng đường biển qua eo Malacca, hoặc trên bộ
từ nước Phù Nan rồi Chen La kế cạnh. Chuyển ngữ được
dùng là tiếng Phạn sankscrit,
lần lượt nhập cảng Ấn giảo rồi Phật giáo. Giao dịch
với Ấn Độ nhiều nhất được biết là miền biển phía
đông hướng về Đông Nam Á, đặc biệt những hải cảng
như Mahabalipuram.

 
Đền
ven biển
Quần thể Mahabalipuram, còn gọi Mamallapuram, có
nghĩa "thành phố Mahabali" là một thị trấn ở tỉnh Kanchipuram
(Tamil Nadu), ở ngay cửa sông Palar, cách phía nam Chennai (Madras)
60km, nổi tiếng nhờ một vị trí khảo cổ học xây dựng
giữa 630 và 728, được Unesco ghi vào Di sản văn
hóa thế giới năm 1984. Vào thế kỷ VII, dưới triều đại
cực thịnh Pallava, đây là một hải cảng quan trọng
hằng tiếp xúc không những với đế
chế Cham Pa, Quốc vương Khơ Me ở bán đảo Đông Dương mà
còn với Mã Lai, Tích Lan cùng nhiều nước khác ở Đông
Nam Á, như Java ở quần đảo Nam Dương, đặc biệt Sri Vijaya,
một thành quốc miền nam đảo Sumatra. Vào thời đại ấy,
thương mãi phồn thịnh giao tiếp
khắp Đông Nam Á, nghệ thuật, âm nhạc, hội họa, văn học,
kiến trúc mở mang rộng rãi. Việc xây dựng các đền đài
kéo dài hàng chục năm vì cuộc chiến Palawa với triều đại
Chola nhưng vẫn luôn tuần tự tiếp tục. Công lao các nghệ
sĩ hoặc là khắc trong hóc đá làm
nên những nhà thờ mandapa với nhiều hình chạm nổi
thấp trình bày chẳng hạn kỳ công của Varaha, hóa thân Víshnu,
ở mandapa Varaha ; hoặc là tạc vào các vách đá lớn
liền khối tạo thành những thiên xa ratha, toàn là những
công trình mô phỏng đền đài
bằng gỗ. Ngoài ra còn có những tấm chạm nổi khổng lồ
mà điển hình là những bức nổi tiếng "Hằng hà hạ trần",
"Đền ven biển" với hàng ngàn
bức điêu khắc thờ cúng thẩn Shiva. Mahabalipuram thường được
cho là thiết bị hải cảng Pallawa nhưng những
cuộc thăm dò khảo cổ chưa xác minh được. Cuộc động đất
năm 2004 cho xuất hiện một số dữ liệu hiện được hội
Archaeological
Survey of India khai thác. Riêng phần tôi, từng
nhiều
năm leo đèo vượt suối chiêm ngưỡng các Tháp Chăm,
nhân chuyến qua Nam Ấn, không ngại quản chân lại tìm kiếm
một vết tích gì ở Mahabalipuram có khả năng
tác động lên kiến trúc những đền đài Cham Pa miền
nam nước ta.


Thiên xa
"Đền ven biển",
mang tên như vậy vì nằm ngay trước mặt biển, trên một
mũi nhô ra vịnh Bengale, là một công trình kiền trúc tuyệt
diệu. Xây dựng đầu thế kỷ VIII, dưới thời vua Narashimhavarman
II (690-715), quần thể nầy là công trình đầu tiên thực hiện
chống lại kiến trúc nguyên khối đào trong hang động hay
trên các vách đá bờ biển, vào lủc phong cách kiến trúc
triều đại Pallawa đạt đích tuyệt
đỉnh, xét về nét đẹp trang trí và phẩm chất nội tại.
Không thấy có hoạt động trong đền, có lẽ trước kia cũng
chắng bao giờ có. Phải chăng những nghệ sĩ Pallawa chỉ tha
thiết xây dựng một phong cách đặc thù cho mình. Đền
gồm có ba điện. Điện chính là một cấu trúc hình
chóp cao 18m đặt trên một bệ vuông mỗi cạnh 16m. Cửa vào
là một tháp lớn trang trí dồi dào loại gopura
mở ra biển phía đông. Một viên linga (hay lingam)
hình dung dương vật, tượng trưng Shiva và nghị lực nam giới
được đặt thờ ở trung tâm điện
garbha
griha. Trên tường trong cùng nổi bật một bức chạm Somaskanda
trình bày ba vị thần Shiva, vợ Uma và con Skanda.
Phần sau đền dành cho hai điện : một cái thờ Shiva qua hình
dáng Ksatriyasimnesvara có lối dẫn vào, một cái thờ Víshnu
mở cửa ra ngoài. Vishnu cưỡi con rắn Sesha còn được
thờ trong một điện phía tây. Phía ngòai điện chính, một
bức tượng hình dung Dourga (tức
Parvati, năng lượng shakti của Shiva) ngồi trên
vật cưỡi sư tử Yahana. Hốc trên ngực Dourga trình bày Dourga
dưới hình dạng Mahishasuramardini giết con quỷ Mahishasura. Tường
ngoài có rất nhiều trang trí, bên trên là những bức chạm
những con bò Nandi đực có bướu nằm. Nói chung, đền
bị khí và nước biển gặm mòn tác động phá hoại
rất nhiều, tuy ngày nay có hàng rào chống gió và các khối
đá chống sóng che chở, nhiều bức
chạm trổ đang bị xói mòn gần như tiêu tan.
 

Thiên xa
Thiên xa ratha, còn gọi Pancha Pandawas, là
những công trình hình dáng xe chở cổ tuy không có bánh, tạc
trong các phiến đá khoáng phun trào diorit nhô lên trên
bãi cát. Chi tiết các đền nầy cho thấy những cột, kèo,
cột trụ tường giống như ở các đền xây bằng gỗ, tuy
không cần thiết, nhưng không tinh vi bằng. Cái lợi là vì
bằng đá, chúng được bảo quản tốt, ít bị xói mòn. Nãm
thiên sa phía nam có tiếng nhất trong tổng số tám đền được
sáng tác dưới triểu vua Naharasimhavarman Mamalla (630-668), từ
đây có tên thành phố Mamallapuram. Tọa lạc trên đồi cao
nhất và lớn nhất là đền Dharmaraja hay Yudhisthira, có cấu
trúc hình chóp ba tầng. Chưa hoàn thành, đền nầy độc nhất
có vãn khắc ghi tên vua Naharasimhavarman I. Bên ngoài, một tượng
thần Shiva lưỡng tính và một tượng harihara, nửa Vishnu
(hari) nửa Shiva (hara). Như bốn đền khác, nhỏ hơn, đền
Arjuna cũng có cấu trúc tương tự hình chóp, phong cách Nam
Ấn dravidien với những tầng giả trong tháp vimana
càng
lên cao càng nhỏ lại. Đền thờ thần Shiva có tượng con
bò đực Naudi ở phía sau. Mặt bằng đền tương đối giản
dị, hình vuông với vài phần nhô ra, sau một tiền sảnh quanh
tường nhẵn nhụi. Đền Bhima (con thứ hai năm anh em Pandova)
cũng nhiều tầng, cột tựa trên chân sư tử. Tuy để thờ
Víshnu, hình chữ nhật, trang trí những vòm bán nguyệt gập
được, đền có dáng dấp một phòng họp Phật giáo. Ðền
Draupadi (vợ tập thể năm anh em Pandova) giống như một cái
chòi tranh tương tự nhà thờ trong làng bằng gỗ không còn
tồn tại, hình vuông, có khoang tượng, là để thờ Dourga.
Trước đền nầy, hai mẫu đá nhỏ chạm hình voi và sư tử,
vật cưỡi của Dourga, sau đền có tượng con bò đực Naudi
trên một mái bằng chung cho hai đền Draupadi và Arjuna.


Hằng hà hạ trần
Bức chạm nổi trên đá "Hằng hà hạ trần"
hay "Dọc dòng sông Hằng" minh họa một hồi ly kỳ trong truyện
hình Shiva. Tục truyền có một vị luyện thuật du già, một
hôm bị quỷ sứ đại dương phá rẩy
lúc ông đang thiền định, liền nuốt chửng toàn đại dương.
Thề giới khô hạn, dân tình thiếu nước, hiền vương
Ayodhya Baghirata cầu khấn Brahma để
xin gởi xuống trần cứu dân độ thế cô con gái Ganga, sinh
ra từ mổ hôi chân Vishnu. Brahma đồng ý nhưng Ganga kiêu căng,
xúc phạm vì phải từ bỏ cõi tiên, trong lúc tức giận,
xuống trần dưới hình thức một dòng Hằng hà sóng lừng
dữ dội. Tức khắc Shiva đưa búi tóc jata
chặn đường khuất phục, đợi cho bình tĩnh mới đặt sông
lên sườn núi Hy Mã Lạp Sơn cho nhẹ chảy về đồng
bằng. Được ba vị thần Brahma, Vishnu, Shiva trong bộ ba Trimurti
bảo trợ, Hằng hà là dòng sông ba lần thánh hóa. Ngày
nay hằng năm, theo định kỳ, nước
thánh tích trử ở Gangotri ở cao độ 6000m, từ nguồn Bhagirati
(con gái Bhagirata) phun vọt ra hiện tại hóa huyền thoại. Thác
nước sùng sục, vài cây số sau, nhờ nhiều nguồn suối
khác lại hòa mình, sông mới êm dịu hiện thân thành Hằng
hà linh thiêng, huyền bí ngày nay. Cần biết thêm là khi còn
chảy mạnh, sông chạm vào bàn thờ nhà tu khổ hạnh Jahnu,
bực tức ông nuốt trọn sông. Bhagirata phải hết lời xin
lỗi ông mới chịu thả cho ra từ lỗ tai nên nay sông còn
mang tên Jahnavi, con Jahnu. "Dọc dòng sông Hằng" là một bức
chạm nổi xưa (thế kỷ VII), có thể lớn nhất hoàn cẩu,
dài 27m, cao 9m, chiếm trọn hai mỏm đá khổng lồ. Hình chạm
thể hiện dòng chảy Hằng hà bắt đầu từ Thiên đình, Hy
Mã Lạp Sơn như đã miêu tá trong cuốn sách truyện
hoang đường Panchatantra. Sông Hằng là bà mẹ nguyên
thủy "hạ trần" để nuôi sống thế
gian và trở nên quả tim loài người. Sông Hằng mang
lại cốt tử cuộc sống là nước, cũng là một thách thức
cho triều đại Pallawa đã đặt xây
công trình.
 

Hằng hà hạ trần
Đường nứt giữa hai
mỏm đả tượng trưng sông Hằng, hai bên sống đủ loại
thủy sinh như rắn đực naga, rắn cái nagini.
Bên trên đường nứt, phế tích một bể chứa có thể là
để đựng nước đổ xuống tượng
trưng Hằng hà khi có nghi thức, lễ lạt. Ngoài những
hình tượng các vị thần, bức chạm nổi trình bày đời
sống làng xã hằng ngày ở Ấn Độ thể kỷ VII. Thật là
một trang sử địa linh động quý
báu hiếm có. Bên mặt đường nứt, ở phía trên, hình
tượng người cung tiến đồng thời ân nhân là nhà vua Pallava
Mahendravarman (580-630) cùng ba bà vợ. Ở phía dưới, một con
mèo trong tư thế thiền định, xung quanh vô tư múa nhảy nhiều
con chuột, màn biểu thị một ngạn ngữ đạo
lý dân gian Ấn Độ khuyên nên dè chừng những nhà hiền
triết sadhu giả hiệu. Cả hai bên đường
nứt đều có nhiều con voi chưa có lời giải thích đáng :
có thể là những trụ cột đại thế giới dưới cõi
âm. Bức chạm nổi lắm khi còn được gọi "Tư thế khổ
hạnh của Arjuna", tên vị anh hùng thứ ba trong năm anh em Pandava,
dòng dõi vua Pandu và bà vợ Kunti, luôn đánh
nhau với các anh em họ Kaurava theo sự tích Mahabharata. Thật
ra con của thần Indra, được võ sư đẳng cấp cao Bà
La Môn Drona huấn luyện quân sự, rất thành thạo thuật bắn
cung, Arjuna là chiến sĩ lừng danh nhất. Arjuna thắng một cuộc
đấu cung và được tặng thưởng bà vợ tập thể Draupali
nhưng sau đấy còn cưới Ulupi, công chúa Naga, Chitrangada, công
chúa Manipur, và Subhadra, em gái Krishna. Thần thoại kể trong
dãy Hy Mã Lạp Lạp Sơn, Arjuna đã
từng đứng khổ hạnh trên một chân, hai tay chắp lên
cao như thấy trong bức chạm nổi, bên cạnh Shiva cầm chùy,
để hy vọng đạt được vũ khí của
Shiva. Thấy một con heo rừng chạy qua, Arjuna chạy đuổi theo
để bắn, Shiva cũng biến hình thành người
đi săn. Hai bên giao chiến cho đến khi nhận ra Shiva, Arjuna
nghiên mình kính cẩn chịu khuất phục và được vị
thần biếu cho quả chùy Pashupata quý báu đánh
đâu thắng đó. Krishna, hóa thân thứ tám Vishnu, dưới dáng
người lái chiến xa Arjuna, cống hiến trợ lực và giáo
huấn tinh thần cho Arjuna. Tên Arjuna cùng năm
anh em Pandava, như đã thấy, cũng được đặt cho năm thiên
xa ratha. Tuy nhiên, việc phân cấp bức chạm nổi nầy
vào hồi Ramayana hay Mahabharata chưa được
công nhận trong giới đại học và còn là đề tài luận
chiến.


Đối
chiếu Mahabalipuram-Tháp Chăm
Vấn đề ảnh hưởng
đền đài Mahabalipuram lên kiến trúc các tháp Chăm thì
chưa được rõ ràng đặt ra. Vẫn biết một bên khắc tạc
trong đá, bên kia áp dáng những viên gạch nung, kỹ thuật
xây cất rất khác nhau, nhưng xét về dáng dấp, phong cách,
những chuyên gia có thể nhìn nhận một vài điểm trùng phùng.
Đứng trầm ngâm trước điện chính
"Đền
ven biển" làm sao không nhớ đến những tháp Phú Hài,
Hòa Lai, Cánh Tiên, Pô Rô Mê ? Khi rảo bước trước những
thiên xa mái chóp ba tầng, khách tưởng như đang thảnh thơi
dạo chơi giữa lòng thánh địa Mỹ Sơn thiêng liêng linh ứng.
Tôi là người ngoại đạo, chỉ biết nhàn nhã thưởng thức
sắc đẹp bên ngoài, không có khả năng phân tich rành mạch
những chi tiết tinh vi khúc chiết. Hy vọng có ngày những sử
gia nghệ thuật, những nhà kiến trúc, với đôi mắt nhà nghề,
bỏ công xem xét sâu rộng để tìm ra một vài đặc
điểm có thể chứng minh liên quan giữa hai loại công
trình không cùng cấu trúc, giữa đền
đài của hai dân tộc một thời tiếp xúc nhau cốt yếu
qua mặt thương mãi. Tuy nhiên, lịch sử cũng cho thấy giao
lưu thương mãi thường mở đầu cho
những cuộc trao đổi văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, tôn
giáo, kiến trúc,…Mà kiến trúc Mahabalipuram thế kỷ
VII lại là vào thời kỳ cực thịnh
! Vấn đề là tuy bốn văn bia bằng Phạn tự phát hiện ở
Quảng Nam và Phú Yên có ghi tên Bhadreshvara, "thần thuận
lợi" tức Shiva từ cuối thế kỷ IV, mãi qua thế kỷ VII mới
thấy một văn bia của vua Sambhuvarman
ghi một điện thờ Bhadreshvara bị đốt cháy và điện
thờ mới mang tên nhà vua Sambhubhadreshvara, linh hồn đất
nước, Cham Pa lúc ẩy chưa độc lập. Năm 605, quân Trung Quốc
đánh chiếm kinh đô đóng trong vùng Trà Kiệu hiện nay
và Cham Pa tiếp tục gởi triểu cống qua Trung Quốc. Vào đầu
thế kỷ VII, chưa thầy ghi có tháp
Chăm, thánh địa Mỹ Sơn chỉ bắt đầu xây dựng vào
khoảng 650 và tháp cổ nhất còn đứng Phú Hài có niên đại
thế kỷ VIII ! Nếu có tháp chịu ảnh hưởng kiến nghệ thuật
tinh vi, linh động, mà lại dễ gây xúc cảm, đượm tính trữ
tình quần thể Mahabalipuram thì là tháp nào ?
Thành Xô thu
đông 2016
|
|
(*) Ảnh chụp năm 2000,
sao từ dương bản.
ChimViệt Cành Nam
68 01.10.2017
Đọc thêm
- Jean-Pierre Dutei,
Le
Champa, rival méconnu d'Angkor, clio.fr
-Mahabalipuram – Cụm thánh tích Ấn Ðộ,bachkhoatrithuc.vn
- NLH,Quần
thể kiến trúc Mahabalipuram (1984),
Cinet-DSTG,
04.07.2013
- Ngô Văn Doanh, Mạhabalipuram, Cụm thánh tích
nổi tiếng của Ấn Ðộ giáo, bacvhkhoatrithuc.vn
- Jean-Pierre
Dalbéra, Les temples monolithes (Mahabalipuram, Inde),
fr.wikipedia.org/wiki/Mahabalipuram |