Xoan
tây trước bến bao lần đỏ
Lệ
nhỏ hai lần chàng có hay ?
Lưu
Trọng Lư
Soạn
xong bài viết, tôi chạy tìm một cây xoan để chụp hình so
sánh với cây sầu đâu đã thấy ở trên bờ sông An Cựu.
May mắn quá, ở Paris tôi bắt được một cây, và là cây
độc nhất, ở Jardin des Plantes. Cây to lớn gần như cổ thụ
nên khó so sánh với cây ở Huế non tơ mảnh khảnh. Hôm ấy
lại vào xuân, chưa có hoa, chỉ còn trái trăng trắng lúc nhúc
tô điểm thân cành trơ trụi đen thui, nổi bật trên nền
trời xanh thẳm trông cũng ngoạn mục. Lẽ tất nhiên, tôi
đợi đầu hè trở lại thì chiêm ngưỡng được những chùm
hoa tím tươi thắm không khác gì những hoa sầu đâu. Thảo
nào bên ta thường lẫn lộn xoan với sầu đâu, trong dân gian
đã đành mà ngay cả ở trong sách vở. Theo Gs Đỗ Tất Lợi,
xoan là loại cây mọc hoang bên nước ta nhưng cũng được
trồng để lấy gỗ làm cột nhà, đồ dùng. Về mặt chữa
bệnh, hột xoan được đem làm thuốc với tên khổ luyện
tử. Người ta dùng vỏ thân và vỏ rễ gọi là khổ luyện
căn bì để chữa giun sán ; lá sắc diệt được côn trùng.
Người ta còn để lá xoan vào chum đựng các loại đậu để
tránh mọt, hoặc lấy nước tắm súc vật (trâu, bò, ngựa)
để chữa ghẻ (ĐTL).
Tên
khoa học của xoan là Melia azedarach Linn., thuộc họ Xoan
Meliaceae
(khác với cây sầu đâu
Azadirachta indica A. Juss tức Melia
azadirachta Linn.
hay Melia indica cùng họ) (PHH).
Ngoài Việt Nam, xoan còn mọc ở các nước châu Á, tràn qua
cả châu Phi, châu Úc, châu Mỹ, vì vậy nó mang nhiều tên
tùy theo xứ : kulen ở Trung Quốc,
sendan hay ochi
ở Nhật Bản, dharek hay dhrek ở Ân Độ,
bakain
ở
Pakistan. Âu Mỹ gọi nó là chinaberry, China tree, chinaberry
tree, bead tree, Persian lilac tree hay lilas du Japon, lilas des
Indes, laurier grec, faux sycomone (ĐTL). Gần đây, tôi được
đọc bài của bà Nguyễn Thị Hồng Nhung (noithatkhaihong.com.vn)
xếp cây xoan làm 4 nhóm : xoan ta (còn gọi xoan trắng, có khi
xoan lai), xoan tía (gỗ đỏ, còn gọi sầu đâu, sầu đông),
xoan đào (tức xoan rừng, màu hồng xẩm), xoan chụi hạn (tức
là cây neem), không phân biệt rõ ràng sầu đâu và xoan. Tuy
không được khảo cứu sâu rộng như cây sầu đâu, cây xoan
cũng đã được nhiều phòng thí nghiệm đặc biệt chú š
vì cây có nhiều hoạt chất hay ho mà quan trọng nhất vẫn
là azadirachtin hay ấn khổ luyện tử tố như ở cây sầu đâu.
Chất nầy có khả năng xua đuổi hoặc phòng ngừa sâu bọ
phá hoại, tác dụng lên nền sinh lš thần kinh và cơ thể
của chúng, ngăn chặn hay phá hủy quá trình biến thái của
nhộng trần, cuộc sinh trưởng của sâu lớn, giảm hạ hay
ức chế việc đẻ trứng của sâu cái. Trong phòng thí nghiệm,
nhiều loại M. azedarach đã được khảo xét, phần
lớn thuộc var. japonica Makino, nhưng cũng thấy có var.
australasica, var. subtripinnata, những giống mọc ở Ai Cập,
Jamaique, Okinawa bên Nhật Bản, Cucurova bên Thổ Nhĩ Kỳ hay
Porec bên Nam Tư.
Độc
tính của xoan
Trong
dầu hột xoan, nhiều hóa chất dễ bốc hơi đã được xác
định : pinen, menthen, camphen, cymen, cadinen, terpinolen cùng linalool,
citronellol, cadinol, guaiacol, cresol, phenol. Một nhóm hóa chất
thường gặp là steroid, phần lớn ở rễ, có khi ở trái :
sitosterol, campesterol, azedarachol, campestenon, stigmastenon. Những
terpenoid được tìm ra trong đủ bộ phận của cây : kulinon,
kulacton, kulolacton trong vỏ, melianon, melianol, melianodiol trong
trái. Những acid khác như vanillic, cinnamic acid, những alcool
như lupeol, tricosanol, triacontanol, những ceton như cycloartanon,
cycloeucalenon, bakalacton, cũng đã được tìm ra. Tuy những amin
acid không có nhiều trong dầu hột xoan, hột chỉ chứa 10,25%
protein và lượng đạm N trong protein 13,9%, người Ấn Độ
dùng hột xoan làm nguồn amin acid trong thức ăn. Quan trọng
là những limonoid : những azedarachin và các dẫn xuất acetyl,
đã từng thấy ở sầu đâu, được phát hiện trong vỏ cành,
vỏ rễ cùng những trichilin và các dẫn xuất acetyl, diacetyl,
những meliacarpinin và các dẫn xuất. Một phần lớn các hóa
chất có mặt đưới dạng glycosid : sitosterol glucosid trong trái,
trong rễ, flavon rhamnopyranosyl glucopyranosid trong vỏ cành, quercetin
rutinnosid trong lá, meliacdien xylopyranoid trong hột, apigin galactopyranosid
trong rễ,
Ở
nước ta, ai cũng biết sầu đâu và xoan mang chất độc (ĐTL).
Nhiều cuộc thực nghiệm đã chứng minh cho cả người lẫn
thú vật (12). Một phần chiết từ cây gây chết
cho heo con, bò con, thỏ và nhiều loại gia cầm khi tiêm vào
hay cho ăn vì gây hỗn loạn, chảy máu trong gan, thận, ruột,
dạ dày
(6). Con nít chơi nuốt hoa, lá, vỏ cây, hay
thường là hột xoan thì buồn nôn, oẹ mửa, ỉa chảy, run
giật và sau vài ngày có thể chết. Một nhóm khảo cứu viên
ở Canberra bên Úc đã chiết xuất luôn đuợc bốn melatoxin
từ trái cây. Những chất nầy không bền, gặp chút acid là
tan hủy cũng như khi các hóa sư thử làm ròng hay phân tích
qua silice. Vì vậy năng suất chiết xuất rất kém (0,5%), nhưng
họ có đủ số lượng để thử lên heo và xác định các
chất độc ấy đã gây ra những triệu chứng thần kinh dữ
dội và giết chết heo (7) Tuy vậy, ác tính nầy,
cũng như mọi chất độc khác, có thể có ích nếu biết dùng
đúng liều lượng và biết hướng vào mục tiêu. Một phần
chiết từ cành, vỏ rễ đã tỏ ra rất độc đối với tế
bào khối u của người. Chiết từ vỏ cành, những chất hydroxy
amoorastaton, hydroxy amoorastatin, acetoxy amoorastatin rất độc đối
với các tế bào u tuyến ung thư thượng bì ở phổi A-549,
buồng trứng SK-OV-3, ruột già HCT-15 cũng như melanoma ác tính
SK-MEL-2 (15). Một phần chiết từ vỏ rễ trong ấy
người ta đã tách chiết ra những dẫn xuất acetyl tigloyl melacarpinin,
deacetyl và isobutyl sendanin cùng hydroxy amoorastin thì lại rất
độc cho tế bào bạch cầu lympho P388 (16).
Bảo
vệ lúa trồng
Đằng
khác, chất meliacin gây một sức chống cản sự nhiễm trùng
của virus vào tế bào động vật có vú
(10), ức
chế cuộc sinh sản nhiều loại virus thường tác động lên
chân và miệng FMDV, poliovirus BHK-21(17) và cả những
virus VPr, VSH-1, VSH-2, Junin, Tacaribe, Sindbis (13). Meliacin,
chiết từ lá, là một peptid có một trọng lượng phân tử
khoảng 2200-2300, chỉ gồm toàn những acid béo. Một bản báo
cáo khá xưa có nói đến một phần chiết bằng nước có
khả năng làm thuyên giảm một cơn hen (1). Đấy là
chưa nói đến khả năng chống nhiệt, chữa hủi, eczema cùng
những hỗn loạn khác trong cơ thể (7). Người ta
cũng có báo cáo về chất vanillic acid tác dụng lên Ascaris
suilla và Hymenolepis nana chữa được giun, sán
(2).
Còn genudin thì ức chế Plasmodium falciparum nên có thể
dùng để chữa trị sốt rét
(12). Như vậy, linonoid
và cả glycosid (9)đều có tác dụng chống khuẩn.
Nhưng quan trọng nhất của các hoạt chất cây xoan, cũng như
cây sầu đâu, là trừ diệt sâu bọ. Các limonoid như meliacarpinin,
trichlin, azedarachin cùng các dẫn xuất đều được đem thử
lên nhiều loại sâu, đặc biệt Spodoptera exigua
và S.
eridania. Những meliacarpinin mạnh nhất vì hoạt tính đã
diễn biến từ 50 ppm, tương đương với nồng độ 1micron/cm2,
trong lúc những trichlin phải lên đến 200 ppm, còn những azadirachtin
thì vào khoảng 200-4000 ppm. Suy ra, về mặt cấu trúc, những
limonoid có công hiệu nhất là những loại apo-euphol mang vòng
epoxid C14-C15 và có cầu lactol C19-C29.
Sự kiện nầy đã được chú ý trong cuộc khảo cứu chữa
trị ung thư (12). Ngoài ra melianoniol, chiết từ lá,
phá rầy việc ăn uống của sâu bắp cải Pieris repae;
salanin, ochninilid B, azadiron, melianon, cũng như một phần chiết
từ lá ức chế cuộc sinh trưởng và ngăn chận sự biến
thái của ấu trùng sâu đậu
Epilachna varivestis ; còn
azedarachol từ vỏ rễ thì lại tác động lên ấu trùng sâu
Ajrotis
sejetum.
Nói
chung, ngoài azadirachtin, dầu hột xoan chứa đựng meliantriol
(4),
có lẽ là chất thuốc cần yếu nhất cho một nước trồng
lúa như nước ta vì nó diệt được sâu đục lúa Tryporyza
incertulas cùng các sâu Sogatella furcifera, Nilaparvata lugens.
Kỹ nghệ thuốc trừ sâu đã bán các loại thuốc JAP-821, JZAP-822
có khả năng bảo vệ cây lúa (8). Riêng genudin, chiết
xuất từ gỗ thân cây, tác dụng rất hiệu quả lên các sâu
ăn lúa Heliothis zea và Spodoptera frugiperda (12).
Bột hột xoan cũng được dùng để bảo vệ lúa mì chống
sâu
Trogoderma granarium (4). Dùng nước chiết,
người ta đạt được một chất khử nấm, chống sâu thuốc
lá Peronospora tabacina(3). Từ nấm Penicillum
janthinellum mọc trong trái xoan nhiều hóa chất đã được
chiết xuất : emodin, jathinon, đặc biệt citrinin ức chế Leishmania
phát triển (20). Còn từ nấm
Penicillium mọc
trong vỏ rễ, những chất preaustinosid A, B có tính chất kìm
vi khuẩn trên Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Pseudomonas
aeruginosa, Bacillus sp. (19). Phần chiết với methanol
cành xoan rất hiệu nghiệm chống các trùng
Helicoverpa armigera,
Earias vittella, Plutella xytostella
(18). Lá và vỏ
cây đã được dùng trong cuộc chữa trị các bệnh phong hủi
và tạng lao
(14). Một văn bằng sáng chế Trung Quốc
cho trộn 65-75% chất độc của xoan với nicotin và stemonin để
làm thuốc bảo vệ cây bông và rau cỏ, cam đoan không độc
cho người và gia súc (11). Tính chất khử nấm của
xoan cũng được khai thác làm dầu đánh bóng áo và quần da
bên Nhật Bản. Cũng nên biết gỗ cây xoan có thể dùng làm
giấy hay tơ vải. Người ta theo dỏi tiến triển của độ
dày màng tế bào cũng như kích thước ruột, sợi trong vòng
gỗ cây theo mùa để sử dụng đúng lúc. Như sầu đâu, cây
xoan đã cống hiến một loạt hóa chất có tính chất sinh
học hay ho có thể áp dụng vào y khoa, canh nông hay kỹ nghệ.
Cây
xoan Tứ Xuyên
Trong
số các cây xoan, có một loại mọc ở vùng tây bắc nước
ta (Sơn La, Lai Châu,..) và cả ở miền mam Trung Quốc nên đưọc
gọi là xoan Tứ Xuyên. Tên khoa học của nó là Melia toosendan
Sieb.et
Zucc., người Trung Quốc gọi lian ye (cây) và
chuan lian
zi (thuốc chiết từ trái), tương đương với tên sen
ren shi của Nhật Bản. Một vài hóa chất trong cây đã
được thấy với xoan và sầu đâu : isochuanliansu từ vỏ,
melianon, diacetyl sendanin từ trái, trichlin với hai dạng I và
J từ vỏ cành. Những chất khác là toosendanin từ vỏ, toosendansterol
A, B, melia ionosid A, B, toosendanosid từ lá, acetyl toosendantriol,
methyl toosendapentol từ trái.
Tác
dụng ngừa ăn, chống sâu bọ của toosendanin đã được khảo
sát trên sâu Spodopstera litura (21). Đem so sánh
với azadirachtin trên sâu đục cành Scirpophaga incertulas thì
toosendanin có phần mạnh hơn, trái lại ít công hiệu bằng
khi thử lên sâu đục lúa Ostrinia furnacalis. Dù sao, hột
xoan có thể dùng trong canh nông để chống các sâu phá hoại
lúa như Nilaparvata lugens, Orseolia oryzae và cam, chanh như
Diaphorina
citri, Panonychus citri (21).
Một phần chiết
từ vỏ chứa toosendanin đã được thử nghiệm với kết quả
khả quan lên các sâu phá hoại hột dự trữ như Cryptolestes
ferrugineus, Sitophilus oryzae, Tribolium castaneum
(100).
Cũng
như cây xoan, một phần chiết từ trái đã tỏ ra rất độc
hại cho tế bào ung thư vú và MCF-7 (27). Chất diacetyl
sendanin chiết từ trái đã đuợc khảo sát về mặt chống
ung thư. Các tế bào SF-539 và PC-3 ở CNS và tiền liệt tuyến
rất nhạy cảm và so với adriamycin, deacetyl sendanin ức chế
chọn lọc hơn lên cuộc phát triển tế bào ung thư ở người
(25). Người ta đã có dùng thuốc chiết từ trái
để chữa dạ dày khi bị đau cúm hay giun, sán hoành hành (22).
Dầu chiết từ xoan cũng được đem trộn với borneol để
rải vào giày, tất chống mùi hôi (26). Bột hột
xoan và bột rễ bạch chỉ đã được dùng trong một công
thức chữa đau chân
(23). Sau cùng, một phần chiết
từ hột gồm có alcaloid cũng được trộn với bột đậu
nành và vài muối kim loại để làm phân bón (24).
Như vậy, cây xoan Tứ Xuyên tuy ít, cũng góp phần vào canh
nông, y học, kỹ nghệ như xoan và sầu đâu.
Tất
cả các loại cây xoan đều là tài nguyên thiên nhiên sẵn
có, đáng được khai thác sâu rộng.
Thông
tin Khoa học và Công nghệ 4 1996
Tham
khảo
1-
B. Natl, Chemical examination of the heartwood of Melia azedarach,
J. Sci. Ind. Res. (India) 13B (1954) 740-1
2-
T. Tanaguchi, Anthelmintic constituents of Melia azedarach, Osaka
Shiritsu Daigaku Igaku Zasshi 9 (1960) 445-6
3-
D.B. Campbell, Fungicide from chinaberries, US
3 262,844
(1966) 2tr.
4-
P.U. Saramma, A.N. Verma, Efficacy of some plant products and magnesium
carbonate as protectants of wheat seed against attack of Trogoderma granarium,
Bull. Grain Technol. (3) 9 (1971) 207-10
5-
P.R. Zanno, I. Miura, K. Nakanishi, Structure of the insect phagorepellent
azadirachtin. Application of PRFT/CWD Carbon-13 Nuclear Magnetic Resonance,
J.
Amer. Chem. Soc. (7) 97 (1975) 1975-7
6-
D.S. Hothi, B. Singh, M.S. Kwatra, R.S. Chawla, A note on the comparative
toxicity of Malia azedarach (Drek) berries to piglets, buffalo-calves,
rabbits and fowls, J. Res. Punjabn Agric. Univ.
(2)
13
(1976) 232-4
7-
P.B. Oelrichs, M.W. Hill, P.J. Vallely, J.K. MacLeod, T.F. Molinski, Toxic
tetranortriterpenes of the fruit of Melia azedarach,
Phytochem.
(2) 22 (1983) 531-4
8-
J. Hu, J. Yang, L. Chen, Preliminary study on the antifeedant and toxicity
properties of chinaberry (Melia azedarach L.) seed oil against major insect
pests of rice, Zhongguo Nongyu Kexue (Beijing) (5) (1983) 63-9
9-
S.D. Srivastava, Limonoids from the seeds of Melia azedarach,
J. Nat. Prod. (1) 49 (1986) 56-61
10-
G.M. Andrei, E.B. Damonte, R.A. De Torres, C. E. Coto,
Induction of
refractory state to viral infection in mammalian cells by a plant inhibitor
isolated from leaves of Melia azedarach, Antiviral Res. (4)
9
(1988)
221-31
11-
X. Cao, J. Li, M. Du, Insecticidal compositions containing Malia azedarach
toxin for crops, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1,045,684 (1994) 4tr.
12-
D.E. Champagne, O. Koul, M.B. Isman, G.G.E. Scudder, G .H.N. Towers, Biological
activity of limonoids from the rutales, Phytochem.(2) 31
(1992)
377-94
13-
G. Andrei, A.S. Couto, R.M. De Lederkremer, C.E. Coto,
Purification
and partial characterization of an antiviral active peptide from Melia
azedarach L. , Antìviral Chem. Chemother. (2) 5 (1994)
105-10
14-
H.C. Kataria, Medicinal plant Melia azedarach used in leprosy control,
Otiental J. Chem. (2) 10 (1994) 178-80
15-
J.W. Ahn, S.U. Choi, C.O. Lee, Cytotoxic limonoids from Melia azedarach
var. japonica, Phytochem. (6) 36 (1994) 1493-6
16-
H. Itokawa, Z.S. Qiao, C. Hirobe, K. Takeya, Cytotoxic limonoids and
tetranortriterpenoids from Melia azedarach, Chem. Phar. Bull. (7)
43
(1995) 1171-5
17-
M.B. Wachsman, C.E. Coto, Susceptibility of picornaviruses to an antiviral
agent of plant origin (meliacin), Rev. Argent. Microbiol.
(1)
27
(1995)
33-7
18-
M. Rani, P. Suhag, R. Kumar, R. Singh, S.B. Kalidhar,
Chemical coponents
and biologiacl efficacy of Melia azedarach stems,
J. Med. Arom.
Plant Sci. (4) 21 (1999) 1043-7
19-
R.M. Geris dos Santos, E. Rodrigues-Filho, Meroterpens from Penicillium
sp found in association with Melia azedarach, Phytochem.
(8)
61
(2002)
907-12
20-
A.M. Do Rosario Marinho, E. Rodrigues-Filho, M.L.R. Moitinho, S. Lourivaldo,
Biological
active polyketides produced by Penicillium janthinellum isolated as an
endophytic fungus from fruits of Melia azedarach, J. Brazilian Chem.
Soc.(2) 16 (2005) 280-3
Melia
toosendan
21-
S.F. Chiu, The active principles and insecticidal properties of some
Chinese plants, with special reference to Meliaceae, Schriftenz.
GTZ 161 (1984) 255-61
22-
T. Nakanishi, A. Inada, M. Nishi, T. Miki, R. Hino, T. Fujiwara, The
structure of a new natural a apotirucallane-type triterpene and the stereochemistry
of the related terpenes. X-ray and 13C NMR spectral analyses,
Chem. Letters (1986) 69-72
23-
S. Qiu, Thermal-insulated onsoles for foot disease control, Faming
Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 85,106,399 (1986) 6tr.
24-
H. Zhang, Manufacture of trace element fertilizers containing amino
acids, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu
CN 1,069,257
(1993) 6 tr.
25-
H.M. Kim, G.T. Oh, S.B. Han, D.H. Hong, B.Y. Hwang, Y.H. Kim, J.J. Lee,
Comparative
effects of a adriamycin and 28-deacetyl sendanin on in vitro growth inhibition
on human cancer cell lines, Arch. Pharmacal. Res.
(2) 17
(1994) 100-3
26-
D. Jun, Sprays containing Melia toosendan extracts and borneol for foot
odor, Faming Zhuanli Shenqing Gongkai Shuomingshu CN 1,089,136
(1994) 5tr.
27-
Y.H. Kim, B.Y. Hwang, S.E. Kim, G.T. Oh, J.S. Ro, K.S. Lee, J.J. Lee, Isolation
of two limonoids from the fruits of Melia toosendan, Yakhak Hoechi
(1)
38 (1994) 6-11
28-
Y.S. Xie, P.G. Fields, M.B. Isman, W.K. Chen, X. Zhang,
Insecticidal
activity of Melia toosendan extracts and toosendanin against three stored-product
insects, J. Stored Prod. Res. (3) 31 (1995) 259-65
|