Đồng bằng và
Trung du Bắc Bộ là một Vùng dân ca lớn. Những sinh hoạt
ca hát dân gian ở đây mang đậm dấu ấn văn hóa cổ truyền
của dân tộc, mà chừng mực nào đó, ở mỗi thể loại đều
phản ánh những sinh hoạt tinh thần của cộng đồng, xã hội
người Việt xưa. Những lễ nghi, lề lối, thủ tục... gắn
bó với hội hè, đình đám, lễ lạc theo mùa vụ, mà nổi
trội lên là hội Thu và hội Xuân, ảnh hưởng trực tiếp
đến hình thức diễn xướng và hình thành đặc trưng nghệ
thuật riêng cho mỗi thể loại. Hát Trống quân, hát Quan họ,
hát Xoan... với lề lối và thể hát đối đáp, giao duyên
nam nữ; những thủ tục, lễ thức tín ngưỡng... đều chứa
đựng yếu tố phồn thực trong đời sống tinh thần của
cư dân nông nghiệp người Việt cổ.
Cũng như các thể loại dân ca khác của vùng
âm nhạc dân gian Đồng bằng và Trung du Bắc Bộ, hát Xẩm,
Xoan, Ghẹo và Trống quân là những sưu tập và lược dẫn
của chúng tôi qua các khảo cứu, giới thiệu mà các nhà nghiên
cứu đã công bố rải rác trên các tạp chí, tập san…
1. Về Hát Xẩm
Xẩm là một loại hình dân ca của miền Bắc
Việt Nam, phổ biến ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ. "Xẩm"
cũng còn được dùng để gọi những người hát xẩm - thường
là người khiếm thị đi hát rong kiếm sống, và do đó hát
xẩm còn có thể coi là một nghề.
Với tiêu chí hành nghề, hát Xẩm được xếp
vào thành phần nhạc cổ truyền chuyên nghiệp, nhưng rõ ràng
Xẩm là một thể loại chứa đựng hầu hết những đặc
tố cơ bản của âm nhạc dân gian. Tuy vậy, hát Xẩm không
thuần như loại dân ca đối đáp một làn điệu, mà có hệ
thống bài bản mang tính chất sắc thái tình cảm khác nhau.
Theo nhạc sĩ Phạm Phúc Minh, phần âm nhạc của hát Xẩm gồm
bảy làn điệu chính: Chinh bong (xẩm xoan), Riềm huê
(huê tình), Ba bực (xẩm nhà trò), Thập ân (nhạc
sĩ Bùi Đình Thảo gọi
là Thập âm), Phồn huê, Hát ai, Hò bốn mùa.1
Bùi
Đình Thảo trong bài viết "Một số vốn ca nhạc cổ truyền
ở Hà Nam Ninh" 2
có đề cập đến Hát Xẩm và cho đây là một dòng hát chuyên
nghiệp đáng chú ý của Hà Nam Ninh với những nghệ nhân đi
hát rong kiếm sống, mà tài danh nhất có bà Hà Thị Cầu ở
xã Yên Phong huyện Tam Điệp. Ông cho hát Xẩm là một thể
loại phổ biến ở đồng bằng Bắc bộ. Nhưng theo tác giả
Phạm Khương3
thì ở Vĩnh Phú vẫn phổ biến hát Xẩm với khá nhiều nghệ
nhân ở các xã Xuân Ang, xã Động Lâm, xã Bình Bộ, xã Trưng
Vương v.v... Đặc biệt, ông cho biết một tục lệ trai gái
tỏ tình với nhau qua người hát Xẩm. Nghĩa là "người
con trai sẽ thưởng tiền cho bác Xẩm để nhờ hát giúp một
bài có lời ca thổ lộ tình cảm của chàng với người mình
yêu, người con gái cũng nhờ bác Xẩm hát lại. Cứ thế đôi
bạn cởi mở nỗi lòng với nhau qua bác Xẩm mù và giữa cái
say mê chung của đám đông". Đấy
là một tục lệ đẹp, một hình thái sinh hoạt văn
hóa có tác dụng kích hoạt cả hai phía trên phương diện
sáng tạo và lưu truyền vốn văn nghệ dân gian. Phía bác Xẩm
phải đầy đủ vốn liếng bài bản để thỏa mãn nhu cầu
của "khách hàng"; phía đôi trai gái, vì phải giao duyên theo
phương thức gián tiếp qua nghệ nhân nên phải thuộc nhiều
giọng. Bởi thế mà theo tác giả bài viết, ở Vĩnh Phú thanh
niên nam nữ quan niệm "nghe xẩm là phải biết ca", như trong
câu ca sau :
" Nghe xẩm mà chẳng biết ca
Thà rằng đắp chiếu ở nhà cho xong"...
Đó là một thái
độ tự giác tham gia sưu tầm và lưu giữ dân ca nhạc cổ
vậy.
Cũng theo Phạm Phúc Minh (sđd) ông tổ của
loại hát này là Trần Quốc Đĩnh con vua Trần Thánh Tông (1258-1278)
mà hàng năm thường vào hạ tuần tháng 2 và tháng 8 âm lịch
những người hát Xẩm sum họp nhau lại để làm lễ giỗ
tổ. Truyền thuyết liên quan đến hát Xẩm đại
thể giống nhau. Thuyết Trần Quốc Đĩnh bị em trai là
Trần Quốc Toán hại mù hai mắt để chiếm đoạt viên ngọc
quý mà nhà nghiên cứu Phạm Phúc Minh đưa ra không khác là
bao so với truyền thuyết của nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền
nêu ra trong bài "Ngày xuân tản mạn đôi điều về hát
Xẩm".4
Dù tên tuổi hai vị hoàng tử có khác nhau, nhưng đều là
con một vị vua thời Trần. Cái khác nhau liên quan đến âm
nhạc, theo Phạm Phúc Minh, thì hoàng tử Trần Quốc Đĩnh đã
làm chiếc đàn một dây và chính là chiếc đàn bầu
của người hát Xẩm ngày nay; Bùi Trọng Hiền lại không cho
biết cụ thể, nhưng cũng không có chi tiết nào gần với
loại đàn bầu: "Thiện quờ quạng được sợi dây rừng,
buộc vào cây song hình cách cung để làm đàn và cất lên
những khúc nhạc lòng ai oán".
Hát Xẩm xưa
Cũng theo Bùi Trọng Hiền, trong hệ thống bài
bản độc đáo, đa dạng đã định hình cho thể loại Xẩm
có những điệu hát đặc sắc như Xẩm huê tình, Xẩm xoan,
Xẩm chợ... đã được các bộ môn nghệ thuật khác như
Chèo, Quan họ, Ca trù vay mượn. Đồng thời cũng nêu lên thực
trạng của hát Xẩm hiện tại với hình ảnh những người
hát rong tay ôm đàn ghi-ta điện miệng chỉ biết hát nhạc
mới mà chủ yếu là "nhạc vàng" miền Nam trước giải phóng
hay nhạc Việt Nam hải ngoại; Chương trình đào tạo nhạc
cổ truyền Việt Nam ở các trường nghệ thuật không hề
có danh mục môn hát Xẩm; cũng như vấn đề vẫn còn một
nghệ nhân hát Xẩm cuối cùng Hà Thị Cầu đã 74 tuổi, được
Nhà nước phong danh hiệu nghệ sĩ ưu tú nhưng nghệ
thuật hát Xẩm thì vẫn đang bị thất
truyền. Đây cũng là mối lo của nhiều người không
hẳn chỉ đối với ngành nhạc, như mối lo của nhà thơ Tạ
Hữu Yên trong một bài viết về "Người hát xẩm cuối
cùng" 5:
"nghệ thuật hát xẩm với hệ thống làn điệu vô cùng
phong phú, nó mang một vẻ đẹp riêng, mà người đại diện
cho nghệ thuật này với giọng ca vàng đã từng làm chấn
động cả vùng châu thổ sông Hồng, vùng núi rừng phía Bắc
thì đã vào tuổi sắp "đi xa" rồi. Hiện nay không có người
nối nghiệp. Phải chăng giọng hát Hà Thị Cầu là nghệ nhân
hát xẩm cuối cùng của nước ta."
2. Về Hát Xoan
Hát Xoan (hay hát Xuân) là lối hát thờ thần,
thành hoàng, thuộc dân ca nghi lễ, phong tục, gắn với hội
mùa của người dân vùng trung du Phú Thọ, đã tồn tại trong
đời sống văn hóa cộng đồng người Việt từ thuở xa xưa.
Thường vào mùa xuân, có các phường xoan lần
lượt khai xuân ở đình, miếu làng. Vào ngày mùng 5 âm lịch
thường hát ở hội đền Hùng. Thời điểm hát được quy
định tại một điểm nhất định, mỗi "phường" chọn một
vị trí cửa đình. Hát cửa đình giữ cửa đình mục đích
nhân dân địa phương kết nghĩa với nhau. Theo lệ dân tại
chỗ là vai anh, họ (làng khác) là vai em. Khi kết nghĩa rồi
cấm trai gái hai bên dân và họ kết hôn với nhau
do là anh em.
Trong 4 bài về hát Xoan mà chúng tôi sưu tập
được, thì đã 3 bài là của các tác giả thuộc lĩnh vực
văn hóa, dân tộc học. Phải nói rằng, so với hát Quan họ,
thì hát Xoan có quá ít bài nghiên cứu đăng trên các
tạp chí trong giai đoạn từ 1956 đến 1972, dù biết rằng,
thể loại dân ca này cũng đã được tổ chức điền dã,
nghiên cứu từ năm 1957. Việc công bố, có thể do sự "lấn
át" vì tính hấp dẫn của thể loại hát Quan họ đã lôi
cuốn các nhà nghiên cứu nhiều hơn; hoặc cũng có thể do
hát
Xoan chứa đựng yếu tố lễ nghi, tín ngưỡng, mà chưa
tiện công bố rộng rãi chăng? Tuy nhiên, theo GS. Tú Ngọc,
thì hát Xoan đã được Đoàn
văn công cải cách ruộng đất Khu tự trị Việt Bắc cải
biên dựng thành tiết mục "Xoan hòa bình" trình diễn
trong Đại hội văn công toàn quốc khoảng cuối năm 1954 đầu
năm 1955; Hoặc các màn hoạt ca và ca cảnh biên soạn theo làn
điệu dân ca Xoan, Ghẹo trong các sân khấu liên hoan văn nghệ
và Đài phát thanh từ năm 1954 đến 1965 như: Ngày xuân,
Giữ lấy quê nhà, Truyền thống sông Thao, Lên đồi chè v.v...
Tất
nhiên, đấy chỉ là một cách thức tồn tại, phát triển
của dân ca mà không được hướng dẫn đúng hướng. Bởi
Xoan là loại hát thờ, một thể loại dân ca lễ nghi - phong
tục thuộc phạm trù tín ngưỡng, gắn kết với nghi lễ tế
thần, với trình thức của hội lễ. Do vậy, như nhận xét
của tác giả Nguyễn Khắc Xương trong bài "Hát Xoan Vĩnh
Phú": 6
"không gian của hát Xoan chẳng bao giờ là cảnh thiên nhiên
bao la và tươi đẹp với lũy tre làng, cánh đồng trắng cánh
cò bay và nương chè, đồi sắn, dòng sông như hát Ví, mà
là một không gian lung linh ánh đèn nến và vàng son của bàn
thờ thánh thơm ngát mùi nhang". Chính nơi đó, mới là không
gian diễn xướng của Hát Xoan.
Các bài nghiên cứu Hát Xoan dưới góc
độ dân tộc học 7
, 8
đã chú ý ở Hát Xoan các yếu tố lịch sử, phong tục, tín
ngưỡng... và cho rằng, đặc trưng cơ bản nhất trong hát
Xoan là phong tục, tín ngưỡng. "Mọi ý đồ nghiên cứu,
dù nghiên cứu lịch sử, văn học, âm nhạc hay múa... trước
hết đều cần thiết đi từ đặc trưng cơ bản của hát
Xoan, và như vậy, có nghĩa là phải đi từ những vấn đề
tín ngưỡng và phong tục". Về tín ngưỡng, tác giả
Nguyễn Khắc Xương nhận xét thêm
"đây là tín ngưỡng
dân tộc, tín ngưỡng của người Việt cổ". Tính tín
ngưỡng đã "quyết định toàn bộ đời sống của Xoan:
tổ chức phường họ, tục giữ đình và tục kết nghĩa,
quyết định không gian và thời gian hát cùng với các tục
lệ của Xoan".
Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật số 9 năm 1973 có
công bố một bài nghiên cứu về Hát Xoan của GS.Tú
Ngọc, nhưng ít mang tính khảo cứu, mà nặng về giới thiệu
cho đối tượng là đông đảo công chúng. Vì vậy, chúng tôi
chỉ lược dẫn phần nghiên cứu về Hát Xoan trong bài
nghiên cứu dài: "Những bài hát lễ nghi - phong tục ở Việt
Nam" 9
của ông đăng trên tập san Văn hóa Dân gian trong năm 1975 và
1976.
Có thể nói, đây là một công trình nghiên cứu
âm nhạc nghiêm túc và duy nhất về Hát Xoan trong giai
đoạn này. Ngoài các vấn đề thủ tục, tổ chức phường,
họ, không gian diễn xướng liên quan đến lễ nghi tín ngưỡng,
phong tục; tác giả đã mô tả tính chất, loại thể, cấu
trúc âm nhạc của các làn điệu trong từng giai đoạn diễn
xướng cụ thể của lề lối hát Xoan. Qua khảo sát quy trình
diễn xướng và đặc điểm âm nhạc của các nhóm làn điệu,
tác giả đã đưa ra giả thuyết về tiến trình của lề lối
hát Xoan, cũng như những nhận định quan trọng: "Một số
lớn những bài ca nghi lễ - phong tục thuộc về tầng dân
ca cổ nhất mà chúng ta được biết từ trước đến nay trong
kho tàng dân ca Việt Nam".
Trong thể loại dân ca này, tác giả đã tỏ
ra sắc sảo hơn so với trong địa hạt Hát quan họ khi
phân tích, bình luận những đặc điểm của thành tố âm
nhạc hát Xoan trong tổng thể nguyên hợp của các loại hình
nghệ thuật dân gian; những lý giải về nguồn gốc, tiến
trình; dự cảm khoa học về mối liên hệ mang tính phát tán
và giao thoa tiếp biến của dân ca truyền thống trong hệ "Hát
cửa đình" (Khúc đình môn). Đó là mối liên hệ giữa
Hát
Xoan - Hát Dô, Hát Chèo tàu và Hát Xoan - Hát nhà Tơ -
Ca trù... cũng như việc dẫn ra một "thành phần bác
học" tồn tại trong thể hát dân gian này. Tuy nhiên,
một vài trường hợp, khi đụng chạm đến cấu trúc, kết
cấu âm nhạc, tác giả lại quy chiếu hoàn toàn vào hệ thống
lý thuyết âm nhạc cổ điển châu Âu, chẳng hạn: "Chơi bợm
gái giống như một liên khúc dài gồm nhiều đoạn,
có tính chất độc lập tương đối về kết cấu, nhưng giữa
các đoạn đó vẫn toát lên một chủ đề âm nhạc
chung. Do đó cũng có thể coi đây là một hình thái của cấu
trúc những đoạn đơn biến tấu ( A - A1 - A2...). Bỏ
bộ cũng mang dáng dấp của hình thức rôngđô". Và
một kết cấu hình thức đặc sệt cổ điển, được dành
cho tiết mục Đóng đám:
"Hình thức nghệ thuật ở phần cuối tiết mục này cũng
tinh tế và phức tạp hơn tiết mục trước: cấu trúc theo
kiểu rôngđô (A+B+A+C+A và côđa).
3. Về Hát Ghẹo.
Hát Ghẹo Phú Thọ không phải là một loại
tế lễ, hát cửa đình hay dân ca tín ngưỡng, cũng không phải
là loại hình hát tự do như hát trống quân, hát ví, hát đúm,
hát Ghẹo là một kiểu sinh hoạt văn hoá cộng đồng mang
đậm tính dân gian, tự do.
Hát Ghẹo Phú Thọ là di sản văn hóa độc đáo
được nhân dân gìn giữ từ lâu đời và tồn tại đến
tận ngày nay. Ở từng nơi, tên gọi của hát Ghẹo mang trong
mình những nét riêng vô cùng duyên dáng và độc đáo, mang
đậm phong cách, màu sắc địa phương, được phát triển
liền mạch theo thời gian: Ở Nam Cường là hát "nước nghĩa";
ở Hùng Nhĩ, Thục Luyện là "hát Anh Chị" hay hát "Ghẹo Anh".
Gọi là "hát Anh Chị" có nghĩa là trong hát "nước nghĩa" hai
bên đều gọi tên nhau là anh chị. Gọi là "hát Ghẹo Anh"
vì xã sở tại bao giờ cũng là nữ hát và gọi nước nghĩa
là anh. (Theo cinet.vn)
Ngoài Hát Xoan, thì Hát Ghẹo cũng là một
thể loại tiêu biểu trong dân ca vùng trung du Vĩnh Phú. Nhạc
sĩ Nguyễn Đăng Hòe, có lẽ là một trong những người sưu
tầm, nghiên cứu "Hát Ghẹo Vĩnh Phú" 10
đầu tiên (1957), nhưng đến năm 1977 mới công bố trên tờ
nội san Văn nghệ dân gian.
Đây là một loại
hát Ghẹo nhiều làn điệu chỉ có ở Vĩnh Phú, khác hát ví,
hát ghẹo ở những nơi khác là hát có lề lối, có tổ chức,
gắn bó với tục kết nghĩa giữa làng này với làng
khác. Bằng giọng văn bình dị, nhạc sĩ Nguyễn Đăng Hòe
giới thiệu về thể thức, lề lối và trình tự cuộc hát,
nhưng đáng kể nhất, là đã có những nhận xét sơ bộ về
âm nhạc của các làn điệu trong mỗi chặng hát: Ví đãi
trầu, giọng sổng và 5 làn điệu: Hoa thơm, Thuyền
ai róc rách, Trèo lên quán dốc, Duyên phận phải chiều,
Bà Rí, trong gần 30 làn điệu khác nhau của giai đoạn
Sang
giọng. Đồng thời, tác giả bài
nghiên cứu đã tổng kết và đưa ra một dạng thang 5 âm tiêu
biểu của Hát Ghẹo Vĩnh Phú là: c - es - f - g - b -
c , mà tác giả gọi là gam 5 nốt: "với 2 phần bằng
nhau trên và dưới loại gam 5 nốt này rất dễ chuyển động
thường được sử dụng nhiều nhất là ở các bài có chuyển
điệu".
Tú Ngọc trong "Những bài hát giao duyên"
(Phần Hát Ghẹo Phú Thọ)11
đã xếp Hát Ghẹo vào nhóm hát giao duyên gắn với tục
kết bạn, cùng với quan họ, có thể coi là những sản
phẩm đặc biệt của Bắc Bộ. So sánh với lối hát ghẹo
thông thường có ở nhiều địa phương khác, ông cho là vì
nó luôn luôn gắn nghệ thuật ca hát của mình với tập tục
"nước nghĩa" nên nó đã có một chỗ dựa làm tiền
đề để phát triển xa hơn... từ lối hát giao duyên một
làn điệu trở thành lối hát giao duyên nhiều làn điệu.
Một số nhận xét về âm nhạc, chẳng hạn việc hát đôi
đồng âm trong thủ tục Hát Ghẹo là xuất phát từ mục
đích mở rộng âm lượng, đỡ giọng và kèm cặp nhau.
Nói chung, vẫn là các vấn đề đã đề cập
trong bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Hòe. Dù rằng một vài
điểm có mở rộng và nặng tính "lý luận" hơn, nhưng cũng
lại có một đôi chỗ áp dụng lý thuyết âm nhạc cổ điển
châu Âu vào để soi xét một cách không cần thiết. Chẳng
hạn, đại loại như: "khi hát đối giọng thì mang khuynh
hướng tổ khúc; khi hát đối lời thì mang khuynh hướng
biến
tấu A-A1-A2 v.v..."
Nếu như hai tác giả
Nguyễn Đăng Hoè và Tú Ngọc chỉ dành vài dòng để
nhận xét về thang âm của Hát Ghẹo, thì tác giả Đức Thanh
dành nguyên bài viết về vấn đề này. "Một vài nhận
xét về điệu thức Hát Ghẹo Vĩnh Phú"12
có thể nói là một bài nghiên cứu cô đọng, súc tích, hoàn
chỉnh về mặt phương pháp; đã dẫn đến được một sơ
đồ tổng quát về những dạng cơ bản của điệu thức Hát
Ghẹo. Bài báo ngắn, nhưng có hiệu quả nghiên cứu như thế
không phải là nhiều. Tuy vậy, quan điểm chủ đạo nêu ở
phần đầu hơi mang tính chủ quan khi cho rằng điệu thức
Hát Ghẹo hình thành, phát triển tương ứng nhất định
và quan hệ chặt chẽ với lề lối, là các chặng hát
của một cuộc hát. Bởi vì nó sẽ không tương ứng
với chặng hát cuối (chặng thứ 4, giai đoạn giã tư),
chặng này chỉ hát các làn điệu thuộc giọng ví như
ở chặng đầu, gọi là Ví tiễn. Hơn nữa, chặng thứ
3, chặng phong phú nhất về mặt làn điệu, giai đoạn "đối
giọng", lại là nơi du nhập, pha tạp với nhiều truyền thống
dân ca nhiều vùng miền khác nhau (quan họ, chèo, các
giọng lý miền Trung, Nam v.v...), như hệ thống giọng
Vặt trong Quan họ. Trong khi đó, chặng 2 trong trình tự
của Hát Ghẹo, giọng Sổng mới là giọng Lề lối
! Một vấn đề khác: khi đã soi xét bản chất âm nhạc hát
Ghẹo, cũng như chia các bậc thang 5 âm hoàn toàn bằng hệ
thống âm thanh bình quân, với các quãng trưởng, thứ, đúng...
thì không cần thiết phải quàng thêm hoặc quy đồng với
hệ thống "hò xự xang" với điệu nam (ai), nam (xuân)
truyền thống. Vì sẽ xảy ra tình trạng "ông nói gà, bà
nói (minh hoạ) vịt"! Vậy, thà rằng, từ cơ sở
phân tích trên, cứ quy theo hệ ngũ cung Trung Hoa: Các dạng
điệu thức 5 âm phổ biến của hát Ghẹo là Thương
và Vũ thì còn thỏa đáng
hơn! Đây vẫn là một khiếm khuyết tồn tại phổ biến
trong nhiều công trình nghiên cứu âm nhạc cổ truyền cuối
thế kỷ XX.
4. Về Hát Trống quân
Hát Trống quân là hình thức sinh hoạt ca
hát giao duyên rất phổ biến ở các tỉnh đồng bằng và
trung du của Việt Nam, kể từ Thanh Hóa trở ra. Ở Bắc Bộ,
Hát Trống Quân thường được tổ chức vào những tuần trăng
tháng bảy, tháng tám âm lịch, ngoài ra còn được tổ chức
hát thi vào những ngày hội. Hát Trống quân thường được
tổ chức ngoài sân nhà hoặc ở bãi cỏ rộng, ở gần đình
làng, hình thức diễn xướng đối đáp giữa một bên là
nam và một bên là nữ.
Về âm nhạc, một số nhà nghiên cứu cho Trống
quân là một làn điệu gần gũi với tiếng nói, vì lời ca
là thơ lục bát và mỗi lần hát có thể dài ngắn khác nhau,
nên giai điệu biến đổi theo dấu giọng, Trống quân lấy
đối lời làm chính như kiểu dân ca một làn điệu, tốc
độ nhanh vừa, lời ca có vài tiếng đệm như: thời, có
mấy, hời, ư, nầy, rằng... nhằm làm sinh động thêm cho
đường nét giai điệu.
Trước 1945, bài nghiên cứu, bình luận về âm
nhạc dân gian đã là hiếm, đối với thể loại Hát Trống
quân lại càng hiếm hoi hơn. Ngoài một số khảo sát tổng
hợp về thể hát dân gian người Việt Nam, trong đó có mục
Trống quân của một số tác giả người Pháp, đăng trên
các tạp chí bằng tiếng Pháp, còn có cuốn sách nói về Hát
Trống quân của ông Nguyễn Văn Huyên in năm 1934 (Les chantsn
alternés des garcons et des filles en Annam – Hát đối giữa trai
gái Việt Nam), mà phần âm nhạc, chủ yếu là giới thiệu
tiết tấu của Trống quân. Nhìn chung, các tác giả thời kỳ
này có chú trọng hơn về dân ca, tuy vậy, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu là giới thiệu, mô tả kiểu dân tộc học.
Có nhiều thuyết về nguồn gốc hát Trống quân:
Theo một học giả nước ngoài – G. Cordler trong
"Sơ khảo về văn chương Việt Nam – các loại hát":13
"Các nhà nho Việt cho rằng "Trống quân" do hai chữ "Tống
quân" (tiễn bạn) mà ra. Theo tương truyền ngày xưa khi một
ông quan rời tỉnh này đi tỉnh khác, bạn bè tiễn đưa một
quãng đường. Lúc sắp chia ly, người đi đưa đặt một cái
trống xuống đất rồi vừa nhịp trống vừa hát bài tiễn
bạn trong đó có câu: "Tống quân nam phó thương như chi hà"
(khi ta tiễn bạn đi về phía nam, lòng đau đớn thế nào ai
rõ được". Theo
Phan Kế Bính14
thì: "Trống quân bày ra từ đời Nguyễn Huệ. Nguyên
khi ra Bắc đánh bọn xâm lược Thanh (cuối thế kỷ 18), quân
sĩ lắm kẻ nhớ nhà, vua Quang Trung Nguyễn Huệ mới bày ra
một cách cho đôi bên giả làm trai gái hát đối với nhau
để cho quân sĩ vui lòng. Đang khi hát có đánh trống làm nhịp
cho nên gọi là Trống quân".
Phạm Duy trong một chuyên khảo về "Hát trống
quân"15
cũng nêu thuyết tương tự Phan Kế Bính: "Hát Trống quân
có nguồn gốc từ lối hát "Trung quân" một điệu hát của
quân lính đi theo nhịp trống. Mà quân đây là quân Nghệ Tĩnh
của đạo binh Nguyễn Huệ kéo ra Bắc đánh giặc Thanh xâm
lăng, cõng nhau rong ruổi ngày đêm không nghỉ. Về sau khi chiến
tranh đã qua, nhân dân đem lối hát này vào những buổi hội
hè gọi là hát Trống quân". Học giả Vũ Ngọc Phan
thì cho rằng: "Trống quân có từ đời Trần lúc chống
giặc Nguyên xâm lược (thế kỷ thứ 13). Tục truyền rằng:
những lúc đóng quân để nghỉ ngơi, muốn giải trí, binh
sĩ Việt ngồi thành hai hàng đối diện nhau, gõ vào tang trống
mà hát. Cứ một bên "hát xướng" vừa dứt thì bên kia lại
"hát đối". Sau khi đuổi được quân xâm lăng khỏi bờ cõi,
hòa bình được lập lại, điệu hát Trống quân được phổ
biến trong dân gian. Có nơi gõ nhịp vào tang trống, có nơi
căng một dây thép thật thẳng để đánh nhịp".16
Từ 1952, trên các tạp chí tiếng Việt ở miền
Nam như tạp chí Mới, tạp chí Bách khoa, tạp chí
Đại
học (Huế)... thể hát Trống quân được giới thiệu,
khảo cứu một cách kĩ càng hơn. Mặc dù, đa số các tác
giả này chỉ căn cứ vào các bài viết, sách của các tác
giả người Pháp và người Việt đã có, mà giới thiệu,
bình luận ra thêm các vấn đề như nguồn gốc, xuất xứ,
"nhạc cụ" trống quân v.v... nhưng rõ ràng là những chuyên
khảo Dân tộc nhạc học nghiêm túc. Tuy nhiên, ngoài việc
luận bàn về nguồn gốc, mô tả cái trống quân, hầu hết
các tác giả đều chú trọng đến lời ca mà ít quan tâm đến
âm nhạc.
Trong bài khảo cứu "Hát Hội"17
GS. Trần Văn Khê cũng cho rằng "nhạc khúc và nhịp điệu
hát trống quân không thay đổi...nghe hát trống quân không
cốt nghe giọng mà chỉ nghe lời đối đáp". Ông cũng đặc
biệt nhấn mạnh đến truyền thống lối hát đối đáp trong
hát Trống quân thì không riêng gì ở Việt Nam mới có, nhưng
không ắt là của người Trung Hoa truyền sang vì nhạc điệu
hát Trống quân khớp với thể thơ lục bát, là lối thơ đặc
biệt ca dao Việt Nam và lời hát lại bằng tiếng Nôm.
Trong khảo cứu này GS đã mô tả chi tiết các loại nhạc
cụ Trống quân của một số địa phương Việt Nam, các lề
lối hát và xếp vào loại hát Hội, hát đối đáp nam nữ.
Tuy nhiên, việc kết luận "hát đối hát hội là một tục
lệ chung cho các dân tộc chịu ảnh hưởng văn hóa Trung hoa"
thì nên bàn luận thêm.
GS. Lê Văn Hảo trong "Sơ khảo về hát Trống
quân - dân ca Bắc Việt"18
xem xét Trống quân dưới góc độ dân tộc học. Sau dẫn nêu
các ý kiến về hát Trống quân của các tác giả Phan Kế
Bính, Phạm Duy, Trần Văn Khê, G. Cordler, Nguyễn Văn Huyên và
Vũ Ngọc Phan…, GS. Lê Văn Hảo đã nêu những đặc điểm
của hát Trống quân trong truyền thống phong tục dân gian,
hình thức và nội dung, so sánh với các thể loại khác như
hát Quan họ. Đặc biệt, trong phần Nhạc khí, qua mô tả chi
tiết 6 kiểu trống quân của Việt Nam và 2 loại khác của
Madagascar kết hợp với phương pháp phân loại của các nhà
khảo cứu Âm nhạc dân tộc học Âu và Á (André Schaeffner,
Curt Sachs và Trần Văn Khê) thì Trống quân – trống đất
không phải là "trống" mà là "đàn" – đàn đất, một thứ
đàn một dây mà hộp cộng hưởng là hố đất, thùng thiếc,
gỗ v.v… "Vậy đàn đất là danh từ đặt theo phương pháp
phân loại của khoa âm nhạc học, còn "trống quân" hay "dây
trống quân" – tên thông dụng trong một vài miền – hay "trống
đất" chỉ là những tên của ngôn ngữ dân gian tự phát đặt
ra vì nghe nhạc khí đánh ra tiếng tự nhiên giống tiếng trống…"
Cũng trên cơ sở các nghiên cứu của các tác
giả trước đó, ông đã đưa ra những nhận định, ức thuyết
thuyết phục về nguồn gốc, xuất xứ. Chẳng hạn việc cho
rằng Trống quân - hay trống đất Việt Nam là "sản phẩm
của một nền văn minh cũ của người Tiền Mã-lai, mà một
trung tâm của nền văn minh nầy chính là miền Thanh Hóa...
và hát Trống quân phát xuất từ một loại hát gọi là "Hát
trông Giăng" tại miền trung châu sông Mã vào thời tiền sử,
trước khi các chủng tộc Nam và Trung Mông-Gô-líc từ phía
Bắc du nhập xuống với yếu tố văn hóa khác biệt".
Phải đến sau năm 1975, thống nhất đất nước,
Hát trống quân mới được các nhà nghiên cứu đề cập lại
trên cơ sở tài liệu đã có, kết hợp với việc sưu tầm
và khảo sát thực tế tại những địa điểm có hát Trống
quân. Các khảo cứu này đã giới thiệu được chương trình
âm nhạc trống quân, bao gồm quy trình, trình tự diễn xướng
của một cuộc trống quân như Hát vào đám, Hát giã
bạn... cũng như cách thức, lề lối diễn xướng như Hát
vận, hát đố, hát họa...,19
kể cả việc đi sâu vào nghệ thuật diễn xướng, lối hát 20...v.v...
21
Phạm Khương cho biết ở vùng trung du tỉnh Vĩnh
Phú có lối Hát trống quân mà những điệu hát và lối hát
khác biệt với trống quân khu vực đồng bằng. Trống quân
Đức
Bắc hát trước khi vào hát thờ (hát Xoan), giữa
trai làng với các đào Xoan, vừa đi vừa hát từ bến đò
đến đình làng, nơi phường Xoan sẽ hát sau đó. Vì vậy,
trống ở đây không dùng "trống đất" mà dùng trống
con mặt da do đào Xoan khoác trước bụng, trai đánh trống...
và cũng do đó mà trình tự cuộc trống quân ở đây không
có giai đoạn hát giã. Một đặc điểm
khác ở trống quân Đức Bắc là sau một câu hát thường
có đệm câu: "Ta hỏi trống quân"...22
Trong bài: "Hát trống quân ở Dạ Trạch"
23,
nhà nghiên cứu Bùi Trọng Hiền đã đề cập đến một địa
điểm Trống quân cụ thể, không phải đồng bằng Bắc bộ
chung chung và nặng về văn hóa dân
gian, dân tộc học như một số khảo cứu khác. Đã
có những so sánh, dẫn chứng âm nhạc học có giá trị, nêu
được cái tiểu dị của Hát trống quân Dạ Trạch trong cái
chung của Trống quân Việt Nam. Cùng với những tư liệu điền
dã thực tế, phương pháp luận khoa học, bài khảo cứu chứng
tỏ tư cách là một tiểu luận nghiên cứu âm nhạc học,
và cũng chứng tỏ sự trưởng thành và tính chất chuyên nghiệp
của đội ngũ nghiên cứu, phê bình âm nhạc dân tộc học
Việt Nam cuối thế kỷ XX.
TÀI LIỆU DẪN VÀ CHÚ THÍCH
1. Phạm Phúc Minh
(1994), Tìm hiểu dân ca Việt Nam, Nxb Âm Nhạc, Hà Nội,
tr. 184.
2. Bùi Đình Thảo
(1990), Một số vốn ca nhạc cổ truyền ở Hà Nam Ninh",
Tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật, số 5.
3. Phạm Khương
(1984), Ca nhạc dân gian Vĩnh Phú, Văn hóa Dân gian, số
4.
4. Bùi Trọng Hiền
(1997), Ngày xuân tản mạn đôi điều về hát Xẩm,Văn
hóa Nghệ thuật, số 2.
5.Tạ Hữu Yên
(1985), Người hát Xẩm cuối cùng, Thể thao Văn hóa,
ngày 25-8.
6. Nguyễn Khắc
Xương (1975), Hát xoan Vĩnh Phú, Văn nghệ Vĩnh Phú số
4.
7. Nguyễn Khắc
Xương (1872), Mùa xuân hát xoan trên đất Tổ, Nghiên
cứu Nghệ Thuật số 2.
8. Nguyễn Lộc
(1974), Hát xoan Vĩnh Phú, Tạp chí Dân tộc học số 3.
9. Tú Ngọc (1976),
Những bài hát lễ nghi phong tục ở Việt Nam, Văn hóa
Dân gian, số 3/1975 và 4/1976.
10.
Nguyễn Đăng Hòe (1977), Hát Ghẹo Vĩnh Phú, Văn
nghệ Dân gian số 7.
11. Tú Ngọc (1982),
Những bài hát giao duyên, Tạp chí Âm nhạc số 3.
12.
Đức Thanh (1984),
Một vài nhận xét về điệu thức
hát Ghẹo Vĩnh Phú. Tạp chí Âm nhạc, số 3.
13. Georges Cordie
(1920), Essai de la littérature annamite – La chanson, Tạp
chí La Revue indochinoise 6-12, tr. 10, 11. Dẫn lại từ Trần Văn
Khê, Hát Hội, Bách Khoa số 42, tháng 10, 1958. tr.43 –
44
14. Maurice Durand,
phiên dịch và giảng giải.
Tập san Dân Việt Nam, số
1, 1958, tr. 3.
15. Phạm Duy (1952),
Hát trống quân, Tạp chí Mới, số 2, 29-11.
16. Vũ Ngọc Phan
(1957), Hát Trống quân, in sơ thảo lịch sử Văn học
Việt Nam.
17. Trần Văn Khê
(1958), Hát Hội, Bách Khoa, số 42 tháng 10.
18. Lê Văn Hảo
(1963), Sơ khảo về hát trống quân- Dân ca Bắc Việt, Đại
Học, số 31.
19. Nguyễn Hữu
Thu (1981), Hát trống quân, hình thức diễn xướng dân gian
của người Việt, Dân tộc học số 2.
20. Nguyễn Hữu
Thu (1991), Lề lối hát trống quân, Văn hóa Dân gian số
3.
21. Xem thêm:
Phạm Khương (1984), Ca nhạc dân gian Vĩnh Phú, VHDG số
4
22. Xem thêm:
Thân Đức Thu (1997), Sơ bộ tìm hiểu hát đối đáp
nam nữ cổ truyền ở Hà Bắc, Sáng tác Hà Bắc, số 5
và Vũ Hồng Đức (1993), Hải Hưng có hát Trống quân,
NCNT, số 5.
23. Bùi Trọng Hiền
(1999), Hát trống quân ở Dạ Trạch.NC Nghệ thuật số
10.
_________________________
[*]
- Nhạc sĩ, Vỹ Dạ, Tp. Huế
|