I/ Đôi điều
về Thiền định
Thực ra, rất khó
định nghĩa về Thiền, về Định một cách khái quát, Thiền
(Phạn: dhyana, Pali: jhàna) có nghĩa là tư duy, tập trung tâm
ý, tĩnh lặng, thông hội tâm mình với ngoại cảnh; từ đó
hành giả tập trung vào một đề tài, một đối tượng, đấy
là định (S. samadhi). Như thế, nếu không kể đến mức độ
sâu cạn, thì thiền định là phương cách tư duy của mọi
người, thuộc một tôn giáo hay không tôn giáo nào chứ không
riêng của Phật giáo.
Trước thời và
trong thời Đức Phật, các tu sĩ Ấn Độ cũng đã rất quen
thuộc với Thiền định và rất nhiều vị đã đạt trình
độ cao, đã đạt được một số thần thông. Tam vô lậu
học của Phật giáo bao gồm Giới luật, Thiền định và Trí
tuệ. Như vậy, tu học Phật pháp, là tu sĩ hay tín đồ Phật
giáo, đều phải thực hành Thiền định. Khoảng một ngàn
năm sau thời Đức Phật, truyền thuyết kể rằng Tổ Bồ-đề-đạt-ma,
vị Tổ thứ 28 của Thiền tông Ấn Độ và là Sơ tổ của
Thiền tông Trung Hoa, đưa Thiền tông vào Trung Quốc, truyền
cho Nhị tổ Huệ Khả. Dòng Thiền được nối tiếp qua Tam
tổ Tăng Xán, Tứ tổ Đạo Tín, Ngũ tổ Hoằng Nhẫn và Lục
tổ Huệ Năng. Từ Lục tổ Huệ Năng, Thiền tông xuất hiện
các thoại đầu, công án với những cách dạy dỗ, phóng túng,
quát, đánh, những hành vi kỳ đặc, khác thường... Văn học
Thiền thường nhắc đến sự việc Đức Phật tại núi Linh
Thứu đã đưa cành hoa lên, cả hội chúng đều im lặng, chỉ
có Tôn giả Đại Ca-diếp rạng mặt mỉm cười và được
Đức Phật truyền mật pháp với lời dạy: "Ta có chánh pháp
nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng vi
diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền,
nay trao cho ma-ha Ca-diếp". Giai thoại này thực ra không hề
thấy chép trong kinh điển nào cả, chỉ là sự phổ biến
trong văn học Thiền Trung Hoa!
Kinh điển Đại
thừa là một sự triền khai tài tình, thiện xảo, sáng tạo
từ kinh điển Nguyên thủy, tạo triết học Phật giáo thành
một nền triết học đỉnh cao. Thiền tông Trung Hoa cũng là
một sự triển khai, tài tình, thiện xảo và sáng tạo từ
Thiền tông Nguyên thủy. Thế nhưng sự triển khai này của
Thiền tông (cũng như của Phật giáo Đại thừa) có khi mang
tính cường điệu hóa. Cho nên, văn học Thiền Trung Hoa có
khá nhiều các sự kiện, chi tiết khó có thể thuyết phục
người đọc; lắm khi lối ghi chép sự kiện pha lẫn với
tính chất tiểu thuyết, tưởng tượng, thậm chí hoang đường,
hoặc đôi khi có vẻ hung bạo: ví dụ, Nhị tổ tự chặt
tay, đứng suốt đêm ngoài tuyết để cầu đạo, Nam Truyền
chém mèo để dạy chúng, Câu Chi chặt đứt ngón tay của chú
tiểu... Ngay cả tôn chỉ "bất lập văn tự" trong Pháp bảo
Đàn kinh cũng không nhất quán: Tổ Huệ Năng vẫn giảng kinh
Kim Cương, Bát nhã, Niết bàn, Duy-ma-cật..., vẫn giảng nghĩa
các thuật ngữ tiếng Phạn, và nhất là yêu cầu các đệ
tử ghi chép "Pháp bảo Đàn kinh" do Tổ nói để phổ biến,
cứu đời... Các tông phái Thiền từ Tổ Huệ Năng trở về
sau cũng không khác gì nhau về nội dung tu tập: đó là sự
triển khai kinh Đại thừa, trong một cung cách đặc biệt:
vô ngã, vô niệm, vô đắc, không, bất nhị, phá chấp, tâm
ấn, đốn ngộ, sự tự tại, thong dong, vô vi gần như của
triết lý Lão Trang.
Thiền tông Việt
Nam cũng mang nội dung và hình thức tương tợ như vậy và
vì được truyền từ Thiền tông Trung Hoa, tất nhiên là chịu
ảnh hưởng rất lớn của thiền tông Trung Hoa và cũng tất
nhiên có một số khác biệt.
II. Các Thiền
phái tại Việt Nam
Như trên đã nói,
Tu học Phật pháp là phải tu học và thực hành Thiền định.
Từ thế kỷ thứ I TL, Đạo Phật đã du nhập Giao Châu do
các nhà sư Ấn Độ theo thuyền buôn mà đến. Đây chỉ là
tư tưởng Phật giáo của người bình dân. Nhưng đến thế
kỷ II hoặc đầu thế kỷ III, khi Trung tâm Phật giáo Luy Lâu
được thành lập, chùa Phật ở Giao Châu đã có vài trăm
và kinh điển đã được phổ biến, dịch thuật ra Hán ngữ,
hoặc sáng tác, chú giải, luận giải như Lý hoặc luận, Lục
độ tập kinh, Nê-hoàn phạm hối… Đáng chú nhất là Khương
Tăng Hội, gốc người Sogdiane, đã dịch Lục độ tập kinh
ra chữ Hán vào đầu thế kỷ III và các sách luận giải,
chú sớ của ngài như Pháp kảnh kinh, Đạo thọ kinh, An-ban
thủ ý (đề tựa)… Đây là các kinh sách đề cập đến
Thiền định rất sâu sắc.
Trước thời Khương
Tăng Hội, đất Giao Châu đã có hàng trăm chùa, nghĩa là Thiền
tông đã có mặt tại vùng châu thổ sông Hồng và đến thời
Khương Tăng Hội thì Thiền học đã có phần đậm đà bản
sắc. Thế nhưng chưa có chứng cứ cụ thể nào để xác định
ngài Khương Tăng Hội khai sơn ở đâu, mở Pháp hội nào,
truyền pháp cho ai… Ta cũng không thấy tài liệu nào gọi
ngài là Tổ thiền của một tông phái.
Các sách lịch sử
Phật giáo Việt Nam ghi nhận cụ thể các vị Đại thiền
sư từ Trung Hoa sang Việt Nam, đến ngôi chùa Việt, thành lập
một tông phái Thiền và được xem là Tổ. Có tông phái này
được kế thừa bởi nhiều thế hệ nhưng về sau có sự
ảnh hưởng qua lại giữa tông phái này và tông phái khác,
nhiều vị Sư thuộc tông phái này lại đến tu tập, cộng
cư với các vị thuộc tông phái khác. Càng về sau, ý niệm
về tông phái không còn đậm đà. Hiện nay, ý nghĩa tông phái
tại các tự viện không còn sâu đậm, không mang nét đặc
thù của từng tông phái.
1/ Thiền phái
Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci, Nam Ấn) sang Trung Hoa năm 562,
đệ tử của Tam Tổ Trung Hoa là Tăng Xán. Đại sư sang Việt
Nam năm 580 đến chùa Pháp Vân, gặp Sư Pháp Hiền đang dạy
chúng và truyền pháp cho Pháp Hiền. Thiền pháp Tỳ-ni-đa-lưu-chi
kể từ Pháp Hiền thì được 18 thế hệ.
Đại sư Tỳ-ni-da-lưu-chi
mang Thiền của Tổ Tăng Xán, vị Tổ nổi danh với bài "Tín
tâm minh", biểu lộ tính tự tại, vô chấp, vô cầu. Thiền
phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi cũng được xem là có nội dung tu tập
gồm Thiền tông và Mật tông. Có lẽ các học giả về sau
căn cứ vào sự việc Tỳ-ni-đa-lưu-chi dịch kinh Tượng đầu
(tư tưởng Thiền), kinh Siêu việt hữu vô và kinh Tổng trì
(tư tưởng Mật).
Các vị Đại sư
kế tục Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi, ngoài tư tưởng Thiền,
còn là những vị nghiêng về Mật tông, với Sấm ký, pháp
thuật như Sùng Phạm, Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Pháp Thuận…
2/ Thiền phái
Vô Ngôn Thông:
Đại sư Vô Ngôn
Thông người Quảng Châu, Trung Quốc từng ngộ pháp từ câu
nói của Đại sư Bách Trượng (thuộc thế hệ thứ 3 từ
sau Lục tổ Huệ Năng). Năm 820, Đại sư từ Quảng Châu sang
Việt Nam, đến chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng ở Bắc Ninh,
truyền pháp cho ngài Cảm Thành. Thiền phái Vô Ngôn Thông bắt
nguồn từ đó, truyền được 16 thế hệ sau khi Vô Ngôn Thông
tịch, tức gồm tất cả 17 thế hệ.
Thiền phái này
chú trọng sự đốn ngộ, Phật chính là tâm, bất nhị, vô
đắc. Có lẽ phương pháp thoại đầu thiền là rõ nét nhất
trong việc giáo hóa, truyền pháp của Thiền phái Vô Ngôn Thông:
các Thiền sư phái này như Thiện Hội (thế hệ 3), Định
Hương (thế hệ 7), Ngộ Ấn (thế hệ 9). Ngoài ra, cần kể
một nét đẹp, đặc sắc của Thiền phái này là các Thiền
sư thường là những nhà thơ thiền, dùng thơ để giải đáp
cho người vấn đạo, mở đầu cung cách nêu thoại đầu bằng
thi ca, tạo thành nét đẹp, đặc sắc trong Văn học Thiền
Việt Nam: Thiền Lão (thế hệ 7), Viên Chiếu (thế hệ 8),
Trí Bảo (thế hệ 11), Tịnh Không (thế hệ 11).
3/ Thiền phái
Thảo Đường
Đại sư Thảo Đường
là người Trung Hoa, đệ tử của Thiền sư Tuyết Đậu (tịch
năm 1052). Tuyết Đậu, Đệ tử của Đại sư Vân Môn Văn
Yển (864 – 949) là một Thiền sư, một bậc trí giả Phật
học, Tác giả của nhiều tác phẩm trong đó nổi tiếng nhất
là bộ Tuyết Đậu ngữ lục. Ngài Thảo Đường thuộc thế
hệ thứ 8 của dòng Thanh Nguyên Hành Tư, tức là thuộc thế
hệ thứ 9 của Lục tổ Huệ Năng. Trong lúc hành hóa ở Chăm-pa,
Đại sư Thảo Đường bị vua Lý Thánh Tông trong lúc đem quân
chinh phạt Chăm-pa bắt làm tù binh (năm 1069) và đem về Đại
Việt. Tại đây người ta phát hiện ngài là vị Đại sư,
tài trí, đức độ cao vời, được vua phong làm Quốc sư.
Từ đó, ngài Trụ trì chùa Khai Quốc tại kinh thành Thăng
Long, lập ra Thiền phái Thảo Đường của Việt Nam, gồm 6
thế hệ, trong đó các Đại sư Bát Nhã (thế hệ 2), Không
Lộ, Định Giác (thế hệ 3) là các Đại sư nổi tiếng.
Thiền phái Thảo
Đường không có ảnh hưởng lâu dài nhưng so với thời trước
đó, đây là Thiền phái trí thức, gồm vua quan và một số
cư sĩ trí thức. Điều đáng lưu ý là Thiền phái này có
sự dung hợp với Thiền phái Vô Ngôn Thông và một phần có
sự ảnh hưởng của Mật tông, ví dụ trường hợp của Bát
Nhã và Đại Điên - vốn đã có từ Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi
và Thiền phái Vô Ngôn Thông.
4/ Thiền phái
Trúc Lâm Yên Tử
Tổ khai sơn của
Thiền phái Yên Tử là Đại sư Hiện Quang (mất năm 1220),
tu ở Chùa Lục Tổ do Đại sư Thiền Chiếu (Thiền phái Vô
Ngôn Thông) trụ trì, về sau tham học với các ngài Trí Không,
Pháp Giới rồi khai sơn núi Yên Tử, thường được là Trúc
Lâm Đại Sa-môn được phong làm Quốc sư. Từ đó, truyền
thống Trúc Lâm Yên Tử được hình thành.
Đại sư Hiện Quang
tịch, nối tiếp truyền thống Trúc Lâm là Đạo Viên (thầy
của vua Trần Thái Tông). Đại Đăng (thầy của vua Trần Thánh
Tông), Tiêu Diêu (thầy của Tuệ Trung), Huệ Tuệ, Trúc Lâm
(tức Trần Nhân Tông), Huyền Quang, Pháp Loa... cho đến Vô
Phiền; tổng cộng là 23 vị, 5 thế hệ đầu của truyền
thống Trúc Lâm Yên Tử , nổi bật về cung cách tu tập Thiền
tông chỉ gồm vua Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ,
nhưng hai vị này là cư sĩ và không cụ thể truyền pháp cho
ai. Sự truyền thừa chỉ gần như là nối nghiệp trụ trì.
Đến Trúc Lâm Đầu-đà Điều Ngự Trần Nhân Tông, vị vua
anh minh, anh hùng, vị Thái thượng hoàng cao quý, bỏ ngai vàng
để thành Sa-môn, Đại Thiền sư, lập Thiền am trên núi Yên
Tử, trở thành vị Tổ của 17 Đại sư thuộc 17 thế hệ
sau của truyền thống Trúc Lâm.
Đất nước và
Phật giáo Đại thừa phát triển mạnh mẽ, rực rỡ nhất
vào thời nhà Trần, tức vào thời Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử được thành lập. Nội dung thực hành chủ yếu nhằm
vào tư tưởng của Trần Thái Tông, Tuệ Trung, Sơ tổ Trúc
Lâm, Nhị tổ Pháp Loa và Tam tổ Huyền Quang: Phật tại tâm,
Chân tâm, Bất nhị, Sự thong dong tự tại, Ý nghĩa truyền
tâm, truyền y bát. Đặc biệt, Thiền phái này có lối ứng
cơ tiếp vật qua các thoại đầu, chen lẫn thơ ứng khẩu
nhưng nội dung thực hành thì không khác với Thiền tông Trung
Hoa, lại có sự pha trộn ít nhiều với Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi
và
Vô Ngôn Thông.
Do việc mở mang
đất nước, chống ngoại xâm của Trúc Lâm Sơ tổ Trần Nhân
Tông mà nhiều nhà nghiên cứu hiện nay cho rằng Thiền học
đời Trần, cụ thể là Trúc Lâm Yên Tử, mang màu sắc dân
tộc, lòng yêu nước, ý chí độc lập tự cường… Thiết
nghĩ, quan niệm như thế quả là không phù hợp với Thiền.
Đáng tiếc là thời
kỳ hưng thịnh này của Thiền phái Trúc Lâm không kéo dài
được bao lâu, 15 thế hệ sau Tam tổ Huyền Quang không thấy
có hoạt động gì ngoài việc chỉ được nêu pháp danh, pháp
tự của mỗi một người thuộc một thế hệ!
Một số học giả
cho rằng Thiền sư Chơn Nguyên (mất 1722) đã phục hưng Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử vì ngài là người được truyền thừa
y bát Trúc Lâm, ngoài việc ngài và các đệ tử trú tại Trúc
Lâm và các ngôi chùa của phái này và trùng san một số sách
đời Lý Trần; điều này không vững vàng và cũng không thấy
chủ trương tu tập của ngài giống với Trúc Lâm. Gần đây,
Hòa thượng Thích Thanh Từ từ 1971 đến 2011 đã xây dựng
khoảng 40 Thiền viện, được cho rằng ngài khôi phục Thiền
phái Trúc Lâm Yên Tử. Công lao và trí tuệ, đạo đức của
ngài là rất lớn, nhưng qua sinh hoạt của các Thiền viện
(đặc biệt là các Thiền viện Trúc Lâm mới được tạo
lập) vẫn không mang sắc thái của truyền thống Trúc Lâm.
5. Thiền phái
Lâm Tế:
Một số sách về
lịch sử Thiền Việt Nam ghi rằng từ thời chúa Nguyễn Hoàng
(1559-1513), khoảng mười vị sư từ Trung Quốc sang Việt Nam,
đến các tỉnh Quảng Trị, Thuận Hóa (Huế), Quảng Nam, Quảng
Ngãi, Phú Yên…lập chùa, phần lớn là thuộc dòng Thiền
Lâm Tế. Thuận Hóa là kinh đô nên nhiều thiền sư đến hoằng
hóa. Đáng kể nhất là Đại sư Minh Hoằng Tử Dung (nguyên
quán Quảng Đông, đời thứ 34 dòng Lâm Tế) khai sơn cùa Ấn
Tôn, truyền Thiền Lâm Tế cho Đại sư Liễu Quán vào năm
1708. Ngài Liễu Quán (mất năm 1793) trở thành Tổ của dòng
Lâm Tế Việt Nam và thuộc thế hệ 35 dòng Lâm Tế, người
xây dựng, trú trì các chùa Thiền Tông, Viên Thông ở Thuận
Hóa, Hội Tông, Cổ Lâm, Bảo Tịnh tại Phú Yên. Thiền phái
này vẫn theo truyền thống truyền tâm, truyền công án, thoại
đầu.
Đến nay, Thiền
phái này vẫn tồn tại nhiều nhất tại Thừa Thiên Huế.
Đại sư Nhất Hạnh, xuất thân từ chùa Từ Hiếu, thuộc
thế hệ thứ 8 dòng Liễu Quán và thứ 42 dòng Lâm Tế, người
đã phát triển Thiền Việt Nam ở hải ngoại, trở thành vị
Thiền sư nổi tiếng khắp thế giới.
Khoảng thời gian
này có Đại sư Nguyên Thiều (phái Lâm Tế) và Đại sư Thạnh
Liêm (phái Tào Động) đến Đại Việt, nhưng hai vị này dựng
chùa, giảng Phật pháp chứ chưa thấy tài liệu nào ghi nhận
hai ngài đã lập Thiền phái Lâm Tế hay Tào Động tại Việt
Nam...
6/ Thiền phái
Tào Động
Thiền phái Tào
Động khởi từ phép tu của Động Sơn Lương Giới và Tào
Sơn Bổn Tịch (thế kỷ IX) ở Trung Hoa, quan điểm của phái
này được tượng trưng bằng nghiêng và thẳng.
Thẳng
là tuyệt đối, chân không pháp thân, nghiêng là tương
đối hiện tượng diệu hữu. Thẳng và nghiêng
vốn
là một.
Tổ Thiền phái
Tào Động Việt Nam là Đại sư Thủy Nguyệt (1636 – 1704),
quê ở Thái Bình, sang Trung Quốc tu học. Đến năm 1667, sau
ba năm ở Trung Quốc, ngài về nước, trú tại chùa Vọng Lão,
huyện Đông Triều, Hải Dương. Đại sư thành lập Thiền
phái Tào Động tại Đàng Ngoài, phát triển mạnh mẽ hơn
100 năm. Về sau, tuy Thiền phái này không còn mạnh như trước,
có dấu hiệu lụi tàn dần nhưng không bị mai một. Đến
ngày nay khá nhiều chùa và chư Tăng Ni thuộc Thiền phái Tào
Động ở nhiều tỉnh thành ở miền Bắc.
III. Tổng quan
về các Thiền phái ở Việt Nam
Các Thiền phái
Việt Nam đều xuất phát từ các Thiền phái Trung Hoa, dĩ nhiên
mang đậm tính chất Thiền Trung Hoa và dĩ nhiên cũng có đặc
điểm riêng của Thiền Việt Nam. Những đặc điểm ấy là
gì?
1/ Thiền Việt Nam
không phân biệt các đặc điểm của từng Thiền phái, không
phải vì các Đại sư Trung Hoa theo Thiền phái nào của Trung
Hoa mà các Thiền phái Việt Nam phải theo đúng phương cách
tu tập của Thiền phái ấy. Hơn nữa, các Đại sư Trung Hoa
đến Việt Nam để hành đạo, thuyết giảng giáo lý Đại
thừa chứ không nhằm phát triển Thiền phái của các ngài.
2/ Từ 2 ngàn năm
qua, các chùa Việt Nam là chùa Phật giáo Đại thừa, trong
thế kỷ XX, các chùa thuộc Phật giáo Nam tông, Khất sĩ Việt
Nam, Phật giáo Hòa Hảo xuất hiện. Tất cả các chùa đều
có tụng kinh, niệm Phật, hành thiền (tu Phật thì phải có
hành thiền), không phân biệt chùa thuộc Thiền phái nào.
3/ Thiền tông Việt
Nam không chú trọng "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền"
mà chú trọng vào sự tĩnh lặng, an định tâm thức để tiến
đến sự lĩnh hội tâm mình, nhận biết khổ, vô ngã, vô
thường mà Đức Phật đã dạy:
4/ Thiền Việt Nam
"nhẹ nhàng, hiền lành" chứ không có những cách đối cơ
tiếp vật "kỳ khu, khốc liệt" như Thiền Trung Hoa. Có lẽ
đây cũng là do sự kết hợp giữa tâm tính của người Việt,
do sự kết hợp chặt chẽ của Thiền và Tịnh.
5/ Thiền phái không
phải là yếu tố quan trọng ở Việt Nam. Sự kế tục vị
Thầy tổ khai sơn của một chùa, các đệ tử về sau thành
lập chùa riêng và chùa đầu tiên, được gọi là Tổ đình,
không mang ý nghĩa của một Thiền phái. Ý nghĩa Thiền phái
hầu như không còn trong Tăng-già mà chỉ tồn tại của các
dòng thầy trò kể từ vị sư khai sơn một chùa.
6/ Các Đại thiền
sư Việt Nam thường là thi sĩ, những học giả tạo tác nhiều
tác phẩm nghiên cứu, luận giảng Phật học. Các công trình
của chư vị đã đóng góp lớn lao cho văn học Phật giáo
và văn học Việt Nam nói chung.
Thời đại mới,
quan niệm về Thiền cũng có phần đổi mới, ở Trung Quốc
cũng như ở Việt Nam và có lẽ ở hầu hết tự viện trên
thế giới đã bớt đi, hoặc chấm dứt sự quan trọng của
Thiền phái. Cung cách trao truyền, công án, thoại đầu, tâm
ấn v.v… của Tổ sư Thiền (Trung Quốc) cũng hầu như đã
mai một, Thiền Việt Nam cũng vậy. Hiện nay có nhiều trung
tâm dạy Thiền theo cung cách của các Thiền sư thời đại
mới, không chú trọng gì đến Tổ sư Thiền của Trung Quốc
và của Việt Nam và số Tăng Ni, cư sĩ tại Việt Nam cũng
như tại rất nhiều quốc gia tham gia học tập và thực hành
thiền là khá đông đảo./.
Tài liệu tham
khảo:
- Nguyễn Lang, Việt
Nam Phật giáo Sử luận, I, II, III, nxb Văn Học, 1992.
- Thích Mật Thể,
Lược sử Phật giáo Việt Nam, nxb Minh Đức, 1960.
- Trần Văn Giáp,
Le Bouddhisme en Annam,Tuệ Sỹ dịch, Đại học Vạn Hạnh, 1967.
- Lê Mạnh Thát,
Lịch sử Phật giáo Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1999.
- Nguyễn Đăng Thục,
Thiền học Việt Nam, nxb Thuận Hóa, 1997.
- Lê Mạnh Thát,
Nghiên cứu về Thiền uyển Tập anh, nxb Thành phố Hồ Chí
Minh, 1999.
- Thích Thanh Từ,
Kinh Pháp bảo đàn giảng giải, nxb Tôn Giáo, 2003.
- HT Thích Thanh Kiểm,
Lịch sử Phật giáo Trung Quốc, nxb T/P Hồ Chí Minh, 1991.
- Vô Môn Huệ Khai,
Vô môn quan, Trần Tuấn Mẫn dịch chú, nxb Lá Bối, 1972.
- Tứ Đại thiền
gia ngữ lục, Trần Tuấn Mẫn dịch chú, nxb Phương Đông,
2006.
|