Ngày
thứ 50 : 28-4-1975
Sài Gòn
thay đổi nhân sự
Ngày 28-4, Tổng
thống Trần Văn Hương từ chức, trao quyền cho ông Dương
Văn Minh, cựu đại tướng. Lễ bàn giao diễn ra vào chiều
ngày 28-4.
Trong buổi
lễ này, quân lực VNCH cử Trung tướng Trần Văn Minh, tư lệnh
không quân và Trung tướng Đồng Văn Khuyên. tham mưu trưởng
liên quân thay mặt Đại tướng Cao Văn Viên đến dự lễ.
Trước khi bước xuống bục để nhường cho ông Dương Văn
Minh đọc diễn văn nhận chức, Tổng thống Trần Văn Hương
đã công bố sắc lệnh giải nhiệm Đại tướng Cao Văn Viên
khỏi chức vụ tổng tham mưu trưởng (theo nguyện vọng của
đại tướng Viên).
Cũng trong ngày
28-4, căn cứ không quân Biên Hòa bị pháo kích dữ dội. Tất
cả các phi cơ được dời qua phi trường Tân Sơn Nhất hay
xuống phi trường Trà Nóc ở miền Tây. Sư đoàn 3 Không quân
bắt đầu phá hủy những phương tiện còn lại trong căn cứ
Biên Hòa.
Ngay sau lễ
trao quyền, khoảng 6 giờ chiều, 5 (?)
máy bay phản lực chiến đấu A37 Bắc quân lấy được từ
VNCH khi chiếm miền Trung, oanh tạc phi trường Tân Sơn Nhứt.
(SQTB K10B/72
- Đinh Từ Thức)
"Chúng mày giỏi. Lính tao
chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày..."
Cuộc oanh kích phi trường
Tân Sơn Nhất chiều 28-4-75 của năm chiếc phi cơ A37, đã
được Hà Nội tuyên dương như một chiến tích anh hùng.
Bài tường thuật đăng trên
tờ Lao Động ở Hà Nội xuất bản ngày 2-5-96 cho biết
"Phi đội quyết thắng" do Nguyễn Thành Trung bay ở vị
trí số một, vừa là chỉ huy "biên đội" (phi đội),
vừa là người dẫn đường. Bay số hai là Từ Đễ.
Bay số ba là Nguyễn Văn Lục. Bay số bốn là Hán Văn
Quảng. Máy bay số năm có hai người: Mai Vượng và Trung
úy phi công "Ngụy" Trần Văn On. (On và Xanh là hai phi công
VNCH, tù binh bị bắt ở Đà Nẵng, ép buộc phải thi hành
công tác huấn luyện cấp tốc cho giặc lái MIG).
Bọn giặc lái Vi-Xi (Lục, Đễ,
Quảng, Vượng) từ trước chỉ quen với máy bay MIG17 của
Nga, chưa từng biết tới A37 của Mỹ bao giờ. Giặc lái
Vi-Xi vào Đà Nẵng từ ngày 22-4-75 để học lái A37 cấp
tốc trong vòng năm ngày. "Nhân viên lái" Nguyễn Văn Lục
cho biết y chỉ bay tập được ba chuyến trong năm
ngày đó, ngày đầu tập ở buồng máy nhìn không ra những
đồng hồ bay to nhỏ với tiếng Mỳ viết tắt nên có người
định bỏ cuộc. Lục nói: Các bộ phận điều khiển
của máy bay A37 toàn là tiếng Anh, anh em chúng tôi nhờ
người dịch ra tiếng Việt, rồi cắt giấy dán đè
lên tiếng Anh để biết mà xử dụng... Y khoe, sau chiến
thắng trở về, đồng chí Đinh Đức Thiện gặp chúng
tôi, nói rất vui: Chúng mày rất giỏi. Lính tao
chuyển loại xe ô-tô cũng phải mất năm ngày, huống
gì là máy bay của chúng mày...Giỏi, giỏi lắm!
Cái "giỏi lắm" của bọn giặc
lái là cái giỏi... "nói phét!". Cái này phải hỏi cậu
Trác "Thuốc lào", tự nhà văn KQ Trác Vũ. Theo lời cậu
Trác "Thuốc lào" phi công C130 kẹt lại, cậu đã từng
bay chở cán bộ, bộ đội từ Bắc vào Nam công tác.
Sau cậu còn được trưng dụng dạy bay và dạy Địa huấn
cho bọn giặc lái trước khi "thầy" bị cho đi tù cải
tạo. Hồi vượt biển qua Mỹ, cậu một lần chịu không
nổi những quả...ngu của lũ giặc lái con cháu lão Hồ,
đã buột miệng chửi thề, xém bị mất cái chỗ đội
mũ vì lỡ "hỗn", lỡ coi thường các đấng đỉnh cao
trí tuệ. Cậu Trác kể...
(Chuyến bay cuối cùng - Đào
Vũ Anh Hùng)
- : Cậu
Trác "Thuốc lào" tên thật Bùi Văn Trác SVSQKQ 64D (Phạm
Hy Oánh)
Góp nhặt...ghi
chép...
Dương Văn
Minh vừa đọc xong bản diễn văn nhậm chức, thì giông bão
khủng khiếp ập đến Sàigòn. Mưa rơi xối xả. Những cơn
mưa đến sớm, lúc ấy chưa đến mùa mưa. Rồi xảy ra vụ
chiếc phi cơ dội bom Tân Sơn Nhất. Lúc ấy chúng tôi còn
ở tại văn phòng. Mặc dầu đã khoảng bảy giờ tối, chúng
tôi vẫn còn ở đấy vì lúc này Sài Gòn ban đêm chẳng có
gì khác để làm.
Khi nghe tiếng
nổ, chúng tôi đâm bổ xuống núp dưới gầm bàn. Bấy giờ,
tôi nhớ tôi đang ở trong phòng truyền tin. Nhân viên truyền
tin là những người lo phụ trách các báo cáo tình báo để
gửi đi bằng điện đài. Không bao lâu, chúng tôi xác định
được chuyện ấy. Chúng tôi chắc chắn đây là câu trả
lời của quân đội Bắc Việt phản ứng lại bài diễn văn
nhậm chức của ông Minh.
Trong bài diễn
văn này, ông ta nói ông sẽ tiếp tục chiến đấu.
Ông nói đủ
thứ lảm nhảm mà một tháng trước đấy ông ta không hề
nói. Tôi nghĩ hình ảnh chính xác để mô tả ông là hình
ảnh một người không đủ tài cán được đặt vào một
chức vụ quá khả năng, làm mọi người phải mệt với sự
bất lực của ông ta.
(Tears Before
The Rain - Larry Engelmann)
"Chúng mày giỏi. Lính tao
chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày..."
Cậu Trác kể: Phi công Vi-Xi,
chúng nó từng qua Nga học bay MIG. Nhiều đứa ở Nga đến
6, 7 năm mà khi về nước vưỡn đếch biết nói tiếng
Nga La Tư mới tếu! Bọn chúng nó đi học, có thông dịch
viên đi kèm theo để theo dõi, kiểm soát. Trong lớp thầy
dạy gì, kệ bố thầy, vì khi về phòng có thằng thông
dịch lại. Tớ bỏ công dịch tất cả sách kỹ thuật
tiếng Anh ra tiếng Việt, dạy chúng nó hoàn toàn bằng
tiếng Việt. Thế mà mình đọc, chúng không hiểu. Đánh
vần đi, đánh vần lại từng chữ như dạy trẻ con i-tờ-rít,
chúng nó vẫn không biết viết ra làm sao. Tớ lập đi
lập lại, bọn chúng vẫn ngớ ra như chúa tàu nghe kèn,
mặt đần độn trông phát giận. Một lần, nhịn không
được, tớ buột miệng chửi thề: ĐM, sao các anh ăn
gì mà ngu quá vậy?. Mình quen mồm như trước đây
đùa rỡn với bạn bè...Chúng nó sừng sộ hỏi tội
làm tớ xanh mặt.
Cậu Trác "Thuốc lào" tiếp:
Mẹ kiếp! Mà học chỉ vài ngày thì bay thế chó nào được
A37. Ngụy chúng nó trước khi học lái, phải tới Lackland
trụ trì ít nhất vài tháng học Anh ngữ chứ đâu có
đùa. "Nhân viên lái" Nguyễn Văn Lục sau đó kể rằng
y và đồng bọn được hai "nhân viên lái" mới được
lựa chọn từ trại tập trung về kèm cho các cậu học
Anh văn và học bay. Cả hai đều gầy nhom. Người cao để
râu tên là Xanh, người Quảng Bình, theo gia đình di cư
vào Nam năm 1954. Người thấp nhỏ là On, quê ở Gò Công.
Cả hai người đều ngạc nhiên khi thấy chúng tôi không
hỏi đến vấn đề cơ bản, không hỏi về cách xử
trí trong trường hợp máy móc có sự cố, mà hỏi ngay
vào công-tắc điều khiển những đồng hồ bay... Mẹ
kiếp! Chỉ cần từ ba tới năm ngày, nghe phát rét. Huống
hồ bọn giặc lái tiếng Anh tiếng u không biết một
mẩu, ngoài ba tiếng "oẳn tù tì" thì làm thế nào hiểu
chó được hết những tiếng Anh trong buồng lái để
khỏi phải nhớ các công-tắc, vị trí các đồng hồ?
Cái này phải xét lại ạ! "Những vấn đề cơ bản"
nghĩa là cần điều khiển phi cơ, là những nút bấm,
nút bật để mở máy, để chỉnh động cơ, để điều
khiển bánh đáp, góc dựng cánh lái đuôi, v...v...Các
con không cần hỏi tới thì bay cái củ gì?
"Người lái" kiêm nhà văn
Hữu Mai, hôm đầu tiên khi từ Gia Lâm vào Đà Nẵng đêm
đó lo cóc ngủ nghê gì được. Phần vì cấp trên giao
phó cho nhiệm vụ học bay A37 chỉ trong vài ngày. Tuy nhiên
Hữu Mai dẹp tự ái "đỉnh cao trí tuệ", ao ước: Giá
có mấy anh nhân viên lái cũ của Ngụy ở gần đây để
yêu cầu họ ghi lại cho những hàng chữ Anh ở trong buồng
lái thì hay quá...
(...)
Góp nhặt...ghi
chép...
Ngày 28-4, Dương
Văn Minh nhậm chức tổng thống, việc đầu tiên là gửi điện
văn cho đại sứ Martin vào sáng sớm 29-4, yêu cầu các nhân
viên của cơ quan tùy viên quốc phòng DAO rời khỏi Việt Nam
trong 24 giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975.
Thời điểm
yêu cầu của Dương Văn Minh trùng hợp với lịch trình
rút lui đã được định trước của Hoa Kỳ. Theo Kissinger,
lời yêu cầu này của ông Dương Văn Minh đã tránh tiếng
dùm cho Hoa Kỳ là đã bỏ rơi miền Nam Việt Nam. (Tears
Before The Rain - Larry Engelmann)
"Chúng mày giỏi. Lính tao
chuyển lái xe ô-tô cũng phải mất 5 ngày..."
Để biết rõ cái "giỏi lắm"
của những chiến sĩ "người lái anh hùng" Vi-Xi thế
nào, mời bạn đọc hãy cùng chúng tôi đọc truyện ngắn
"Trận đánh cuối cùng" của văn hữu...Hữu Mai viết
ca tụng "anh hùng" Nguyễn Thành Trung và các đồng chí
giặc lái Vi-Xi một cách vô duyên trong Tạp chí Văn nghệ
Quân đội, số 25, năm 82, để thấy trình độ nói phét
của Vi-Xi nó "siêu" đến chừng nào mà cười đau khóc
hận cho vận số hẩm hiu đất nước...
Cứ như trong xi-nê-ma! Cảnh
5 chiếc A37 đánh phá Tân Sơn Nhất được mô tả y hệt
trong phim "Bla Bla Black Ship" vừa bay bỏ bom, bắn cà nông,
vừa cười vui vẻ. Nguyễn Thành Trung đánh trước, bom
không ra, làm vòng tiếp. Đại đội phó Từ Đễ theo
sau Trung, nhắm hangar A37 nhưng bom rơi mẹ nó sát chiếc C130
vừa hạ cánh ở tuốt luốt bên này bãi đậu Whiskey
Five (W-5). Rồi đại đội trưởng Lục thả bốn trái
nhưng lóng ngóng chỉ rơi có hai. Sau đó là Vượng và
On, theo tớ Vượng chỉ là... "thợ vịn"! Ngoài Bắc chúng
gọi bằng danh từ rất kêu, là "tháp tùng tử" nhắm
vào hangar A37 nhưng đều trật lất! Đến lúc đó mới
nghe thấy tên trực ở sân bay bắt đầu kêu lên:
- Tân Sơn Nhất bị pháo kích...!
Một giọng nói khác bằng
tiếng Anh, chắc là của một tên Mỹ:
- A37 của phi đoàn nào?
Giọng hách dịch của tên Mỹ
làm cho đại đội phó Từ Đễ nổi nóng. Anh quát to:
- Phi đoàn A-Mê-Ri-Ca đây!
Mẹ kiếp, thối không ngửi
được. Đang bay trên trời, trong phòng lái kín mít, lo
bỏ bom, nhắm bắn mục tiêu mà có "thiên lý nhĩ", nghe
được cả "tiếng tên trực ở sân bay bắt đầu kêu
lên..." thì quả là Tề thiên đại thánh! Rồi đang từ
một thằng "người lái" mới vài hôm trước không biết
tiếng Anh và "làm thế nào hiểu được hết những
tiếng Anh trong buồng lái..." vậy mà hôm sau đã nghe rành
rọt "giọng một tên Mỹ" mới ly kỳ!
Bây giờ từ sân bay mới vang
lên những tiếng hoảng hốt:
- Bốn A37 ném bom Tân Sơn Nhất...Đề
nghị các máy bay hãy tránh xa!
Cái vụ "nghe thấy tên trực
sân bay" ở đoạn trên có thể tạm hiểu là đương sự
nghe trên tần số hành quân của bọn Ngụy cũng được
đi. Nhưng việc "từ sân bay bấy giờ mới vang lên những
tiếng hoảng hốt" thì đúng là..."bu-siệt"! Không
quân miền Nam đâu có lối nói lịch sự kiểu Vi-Xi "đề
nghị"? Người miền Nam nói "yêu cầu tránh xa" chứ trong
trường hợp bấn xúc xích đó, làm quái gì có mục..."đề
nghị tránh xa"?
Văn hữu Hữu Mai vớt vát
thể diện cho biên đội trưởng Nguyễn Thành Trung và
bọn thợ gắn bom mà bom không nhả (có thể lính của
ta bị ép buộc trang bị bom đạn cho Vi-Xi đã cố tình
chơi đểu (?)... Chiếc máy bay của biên đội trưởng
đã giận dữ lao xuống lần thứ ba. Lần này, bốn
trái bom của anh cùng rơi một lúc. Một đám cháy
mới bùng lên tại khu vực tập trung máy bay tiêm kích
F5...
Xạo ke! Tân Sơn Nhất làm
chó gì có khu vực nào tập trung F5?
(Chuyến bay cuối cùng - Đào
Vũ Anh Hùng)
- : Tất
cả đài kiểm soát hạ và cất cánh phi trường cũng như đài
không lưu đều là người Việt, không có cố vấn Mỹ làm
việc trên vô tuyến. (Phạm Hy Oánh)
- : Nguyễn
Thành Trung hay Ðinh Thành Trung, con rớt của một cán bộ tập
kết ở Bến Tre, nằm vùng trong Không quân VNCH.
Góp nhặt...ghi
chép...
Tướng Trần
Văn Đôn kể lại những biến cố, sự kiện trong ngày 28-4-1975:
Vào 6 giờ
chiều, cuộc lễ xong, ông Minh tiễn cụ Trần Văn Hương ra
cổng. Nhà của cựu Trung tướng Trần Văn Đôn ở gần dinh
Độc Lập nên chỉ vài phút sau ông đã về đến nhà, lại
nghe tiếng nổ ầm ầm, súng bắn lung tung, phi cơ bay. Nưả
giờ sau, tiếng súng ngưng nổ, tiếng động cơ máy bay nhỏ
dần rồi im lặng. Tướng Đôn điện thoại cho Bộ tổng tham
mưu và Bộ tư lệnh không quân thì được báo cáo có 3 phi
cơ của Không quân VNCH bị bỏ lại ở Đà Nẵng và họ đã
sử dụng để bay vào Sài Gòn dội bom. Hai phản lực cơ F5
của Không quân từ Biên Hoà đã bay lên nghinh chiến đuổi
3 phi cơ này.
- :Tài
liệu của Đại tướng Cao Văn Viên cũng cho biết chỉ có
3 phi cơ trong cuộc dội bom.
- : Trong
Những
ngày cuối cùng của Sài Gòn, Winfried Scharlau viết: 4
chiếc máy bay.
- : Hãng
thông tấn Reuter đánh đi một bản tin về Nguyễn Thành
Trung, phi công A37 của không lực VNCH đã lấy máy bay xạ
kích dinh Độc Lập. Và hướng dẫn 3 chiếc A37 khác
đánh phá phi trường Tân Sơn Nhất chiều ngày 28-4-75,
ngày hấp hối của miền Nam Việt Nam.
10 ngày cuối
cùng của VNCH
Thứ Hai 28-04-1975
Ông Trần Văn Đôn kể lại trong
Việt
Nam nhân chứng rằng tối hôm trước ông nói với ông Dương
Văn Minh là nên "nhận liền nhiệm vụ để bắt tay vào việc"
thì ông Minh nói rằng: 5 giờ chiều mai. Ông Đôn nhận
xét rằng sở dĩ ông Minh muốn đợi đến 5 giờ chiều hôm
sau là vì "ông coi ngày giờ tốt trước khi nhận việc".
Ông
Trần Văn Lắm kể lại tối 27-4, ông Lắm đến gặp ông Minh
và đề nghị nên làm lễ bàn giao vào 9 giờ sáng ngày hôm
sau 28-4. Ông Minh đi qua phòng bên cạnh để bàn luận với
Trung tướng Mai Hữu Xuân là người rất tin bói toán, sau
đó ông Minh ra nói rằng: 9 giờ sáng không được tốt,
bàn giao lúc 5 giờ rưỡi’ chiều đi.
Theo Tiziano Terzani tác giả cuốn
sách Giải phóng! (The Fall and Liberation of Saigon), người
ký giả Ý bị trực xuất ra khỏi Việt Nam trước đó ít
lâu và vừa mới trở lại Sài Gòn sau khi ông Thiệu từ chức.
Tiziano Terzani, một trong hơn 100 ký giả đã chứng kiến buổi
lễ giao quyền 5 giờ chiều 28-4 tại dinh Độc Lập, đã tả
lại như sau:
Sau khi cựu Tổng Thống Trần
Văn Hương trở về chỗ ngồi, bục diễn đàn vẫn trống
trơn. Dương Văn Minh vẫn ngồi yên không hề nhúc nhích. Một
người lính tiến vào tháo gỡ lá Quốc kỳ sau bục diễn
đàn rồi gỡ quốc huy của Việt Nam Cộng Hòa và thay thế
bằng huy hiệu mới của Dương Van Minh, đó là hình hoa mai
năm cánh nằm trong dấu hiệu âm dương của người Trung Hoa,
tượng trưng cho hai yếu tố đối nghịch tạo thành sự đồng
nhất trong vũ trụ". (*** Tiziano Terzani, Sđd, trang 40-41).
Nhiều nhân chứng dự buổi lễ
trao quyền hôm đó đã xác nhận rằng ông Dương Văn
Minh chỉ đọc diễn văn mà không hề tuyên thệ "trung thành
với Hiến pháp VNCH", điều đó có nghĩa là tân Tổng thống
Dương Văn Minh không còn công nhận bản Hiến Pháp l967 của
nền đệ nhị cộng hòa. Như vậy, cho tháo gỡ lá quốc kỳ
trước khi đọc diễn văn và không tuyên thệ khi nhậm chức
tổng thống VNCH, phải chăng ông Dương Văn Minh muốn gián
tiếp nói với phe bên kia rằng không còn liên hệ gì đến
đệ nhất và đệ nhị cộng hòa mà tượng trưng là lá cờ
vàng ba sọc đỏ vừa được ông cho gỡ xuống cất đi?
(Trần Đông Phong)
Góp nhặt
sỏi đá
Tướng Cao Văn Viên làm đơn
từ chức tổng tham mưu trưởng, trong khi chờ đợi Tổng Thống
Trần Văn Hương ký sắc lệnh. Tướng Cao Văn Viên chỉ định
Trung tướng Đổng Văn Khuyên, tổng cục trưởng tiếp vận,
xử lý thường vụ tham mưu trưởng.
Rồi tướng Cao Văn Viên di tản
ra Hạm đội 7 vào trưa thứ hai ngày 28-4-1975.
Quân sử ngoại truyện
Mấy ngày sau tôi (sau buổi duyệt
binh ngày 2-9-1975) và anh Ba (Lê Duẩn) vào Nam, tôi đã đến
quan sát Bộ tổng tham mưu quân đội Nguỵ. Tại phòng làm
việc của tổng tham mưu trưởng, tôi chú ý đến tờ lịch
ngày
28 tháng 4 còn bóc dở.
Trong phòng trang trí vũ khí, nhiều
loại vũ khí hiện đại đều được trưng bày. Trên một
tấm bản đồ Đông Dương chi chít những dấu chấm xanh, đỏ,
đánh dấu những nơi mà vũ khí mà trang bị điện tử phát
hiện các căn cứ của ta, nhất là trên đường vận chuyển
chiến lược Trường Sơn. Cảm tưởng sâu sắc nhất của
tôi là: Vũ khí kỹ thuật Mĩ dù hiện đại vậy đấy mà
vẫn thất bại.
(Tổng hành dinh trong mùa xuân
toàn thắng - Võ Nguyên Giáp)
Tái chiếm trường Bộ Binh
Long Thành
Sáng hôm sau chúng tôi rút về
Long Bình. Ngày 28-4-1975, Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân có
nhiệm vụ hỗ trợ cho một đơn vị bạn tái chiếm trường
Bộ Binh Long Thành.
Tối hôm đó, từng đoàn xe vận
tải của Bắc quân đã đổ hàng trăm bộ đội xuống khu
rừng hướng bắc ngọn đồi trọc mà chúng tôi trấn giữ.
Khoảng tám giờ tối, đoàn xe bật đèn rọi đường cho bộ
binh theo sau T54, dàn hàng ngang xung phong biển người vào tuyến
phòng ngự của Tiểu Đoàn 82 Biệt động quân. Ngay loạt đạn
100 ly mở màn, đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ là người chết
đầu tiên. Tôi bò sang hố của ông, quấn tấm thân đầy
máu của ông bằng tấm poncho. Khi tôi di chuyển sang kiểm soát
vị trí phòng ngự thì bộ binh địch bắt đầu hô "Xung phong".
Chúng tôi phải dùng lựu đạn M26 để chặn bước tiến của
địch. Những trái M72 bắn xéo qua xéo lại từ đỉnh đồi
đã khiến cho chiến xa địch thoái lui.
Chợt đèn xe vụt tắt, tiếng
động cơ chiến xa rú lên. Khoảng năm sáu chiếc T54 tắt đèn
và mở hết tốc lực chạy lên đồi, xe đè nát thân thể
những người không kịp tránh né rồi chạy đi. Chúng tôi
chưa kịp phản ứng thì chiến xa địch đã chạy khuất xuống
chân đồi. Ông Thượng sĩ Phạm Hoa, thường vụ tiểu đoàn
bị xích xe tank nghiến nát ngực chết cùng với anh B1 Bích,
người nấu cơm cho tôi. Tôi chưa kịp chấn chỉnh lại đội
hình thì đạn 100 ly lại ầm ầm dội trên đỉnh đồi, rồi
đèn xe lại bật sáng soi đường bộ binh địch mở đợt
biển người tiếp theo. Lần này chúng tôi ngăn chúng từ xa
bằng những quả lựu đạn M67 nổ chậm. Chúng tôi ném hết
sức thẳng tay những quả M67 xuống chân đồi. Đèn xe soi
rõ những thân hình cán binh địch loạng choạng ngã chúi xuống
đất vì trúng mảnh lựu đạn. Hai khẩu M60 vẫn đan cánh
sẻ. Những xác người chết đè lên nhau, những tiếng thét
đau đớn vang lên man rợ trong đêm đen.
Đèn xe lại tắt, tiếng chiến
xa lại hú. Những nòng M72 đã sẵn sàng phóng đạn. Hai khẩu
M60 được nâng cao lên nhằm vào những xạ thủ phòng không
trên tank. Vài chiếc tank bị trúng đạn, nằm lại giữa triền
đồi, xạ thủ 12.8 ly trên xe đã chết, cái dây xích còn móc
vào chân xạ thủ, treo tòn ten cái xác xạ thủ đung đưa bên
hông chiến xa.
(Vương Mộng Long)
Góp nhặt...ghi
chép...
Sau khi Trung
tướng Đồng Văn Khuyên, rời bộ tổng tham mưu trưa ngày
29-4. Tiếp đến là Trung tướng Nguyễn Văn Minh. quân lực
VNCH coi như không còn cấp chỉ huy.
3 giờ chiều
29-4, tân Tổng thống Dương Văn Minh cử một số cựu tướng
lãnh đã về hưu giữ các chức vụ trọng yếu: Trung tướng
Vĩnh Lộc, tổng tham mưu trưởng, phụ tá là Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh. Chiều 30-4, tướng Vĩnh Lộc triệu tập
cuộc họp với các tướng lãnh tại bộ tổng tham mưu yêu
cầu "mọi người đừng bỏ đi, hãy ở lại để làm việc
với tất cả trách nhiệm".
Sáng 30-4, Trung
tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Trần Văn Trung, tổng cục
trưởng tổng cục chiến tranh chính trị đến bộ tư
lệnh hải quân tìm phương tiện di tản. Chuẩn tướng Hạnh
"đương nhiên" là tổng tham mưu trưởng của tân Tổng thống
Dương Văn Minh.
Giây phút
hấp hối của VNCH
Big Minh nhận chức vụ vào trưa
ngày 28-4 với phó tổng thống là Thương nghị sĩ Nguyễn Văn
Huyền, Giáo sư Vũ Văn Mẫu, cựu khoa trưởng luật khoa giữ
chức vụ thủ tướng. Khoảng 2 giờ trưa ngày 28-4, Lý Quý
Chung điện thoại yêu cầu hệ thống trưởng hệ thống truyền
thanh sang họp. Tôi điện thoại về nhà thiếu tá Thăng, không
có ai bốc điện thoại. Buộc lòng tôi phải đại diện ông
sang họp. Buổi họp kéo dài khoảng 15 phút. Chỉ thị duy nhất
của ông Chung vắn tắt có bấy nhiêu lời: Tình hình nghiệm
trọng, có nhiều phần trăm chúng ta phải đầu hàng, nhưng
nhiệm vụ của truyền thanh và truyền hình là phải túc trực
để nhận chỉ thị. Còn nước còn tát.
Sau đó ông Chung ra lệnh phải
bỏ tất cả nhạc quân hành của cục chính huấn. Có thể
nói tình thế tuyệt vọng được phản ảnh qua hiện tình
của "Tiếng nói nước Việt Nam Cộng Hòa, phát thanh từ thủ
đô Saigon" vào lúc đó. Chúng tôi còn khá đủ biên tập viên,
phóng viên, kiểm thính viên và kỹ thuật viên teletype cần
thiết để làm việc. Bộ phận quan trọng nhất về kỹ thuật
và đài dự phòng tại trung tâm phát tuyến Quán Tre ở Quang
Trung. Nhưng các phóng viên tại hai mặt trận Long Khánh và
Long An thì không còn phương tiện gởi bản tường trình nào
nữa kể từ 5 giờ chiều ngày 28-4. Trước đó, Tổng thống
Dương Văn Minh đích thân gọi điện thoại vào đài phát thanh.
Vẫn giọng hiền lành và dùng chữ "qua" làm ngôi thứ nhất,
ông cho biết đã cử tướng Lâm Văn Phát làm tổng tham mưu
trưởng quân đội và yêu cầu tôi loan báo trước khi văn
thư chính thức đến đài được gởi tới đài vào sáng hôm
sau.
Xong, Big Minh hỏi tên và tuổi:
Em còn trẻ, sao không tìm cách đi đi?
Tôi trả lời vắn tắt: Thưa
tổng thống chẳng còn đường, tôi lại quen biết ít.
Ông lại hỏi tiếp: Qua thấy
tình hình không hy vọng gì. Cụ Huyền đang ở Tân Sơn Nhất
để thương lượng với họ (Cộng sản), mặt trận Long Khánh
tan rồi, họ đưa xe tăng và hỏa tiễn vào sát Sài Gòn. Em
liệu giữ được tiếng nói quốc gia trong bao lâu nữa.
Tôi đáp: Chừng nào tôi còn
được bảo vệ, chừng đó làn sóng phát thanh vẫn còn duy
trì được tiếng nói quốc gia, thưa tổng thống.
(Vũ Ánh)
Tái chiếm trường Bộ Binh
Long Thành
Khoảng nửa đêm, đèn xe lại
rọi sáng, đạn 100 ly lại cày xới ngọn đồi không tên.
Dưới ánh đèn xe, những cán binh Bắc quân trong đợt xung
phong này hình như không còn hăng hái như hai đợt trước,
họ bắt đầu bò lên, nương theo những mô đá nhấp nhô.
Khi những quả lựu đạn vừa bật mỏ vịt nổ "Ùm!" thì
những anh bộ đội cũng quay lưng chạy thục mạng ngược
về hướng rừng. Chừng mười phút sau đoàn xe tank lại ào
ạt tiến lên đồi lần thứ ba. Lần này chúng theo đội hình
hai hàng dọc, đâm thẳng lên đỉnh đồi rồi đồng loạt
pha đèn, chia hai ngả, trái, phải giày xéo vị trí trú quân
của chúng tôi. Chúng tôi giờ này như những con thú bị thương,
miệng la, "Biệt Động!...Sát!" tay bóp cò M16 nhắm
những cái đầu địch nhấp nhô trên pháo tháp. Bây giờ chúng
tôi đã mất trí, không còn biết sợ chết nữa! Chúng tôi
trở thành những tay giác đấu, gắng sức leo lên lưng những
con quái vật T54 để đánh quả lựu đạn sau cùng.
Tôi đã leo lên đến cái pháo
tháp, tôi lần tay tìm trên sợi dây ba chạc, còn một quả
mini và một quả lân tinh! Tay tôi chưa kịp mở chốt quả
mini thì một cái đầu địch nhô lên, nó đập một trái thủ
pháo trên mũ sắt của tôi rồi ra sức xô tôi xuống xe. Hai
con vật giằng co, quả mini tụt tay tôi rơi mất! Tôi gỡ cái
nón sắt ra, thẳng tay choảng vào đầu thằng giặc, đầu
nó ngúc ngoắc, rồi nó thụp vào lòng xe. Tôi đang cố gỡ
trái lân tinh móc trên dây ba chạc thì cái pháo tháp xoay tròn,
tôi bị gạt rơi xuống xe. Tôi lăn sang sau một ụ đá, chiếc
xe đảo một vòng, xích sắt cày sâu trên đất, cát bụi tưới
rát mặt, tôi thoát chết trong đường tơ kẽ tóc!
Chuyện thời
hậu chiến
Thường, sau
khi chết, linh hồn người ta còn lại nhưng thân xác thì mục
rữa. Riêng hắn, sau khi tử trận vào ngày 30-4-75, linh hồn
đã tan mất nhưng thân xác thì vẫn còn. Hiện hắn đang ở
Mỹ, trông rất hồng hào. Mỗi lần hắn đi khám bệnh, các
bác sĩ đều bảo: "OK".
(Website Tiền
Vệ - Truyện cực ngắn hay Truyện chớp)
Chúng tôi giờ này như những
con cọp bị thương, bị dồn vào đường cùng! Chúng tôi chạy
bộ đuổi theo đoàn chiến xa đang rút đi. Trong đám bụi mù,
một biệt động quân đã bỏ được một trái M26 vào trong
lòng chiếc T54 hướng ĐĐ4/TĐ82 khiến nó quýnh quáng đâm
vào hông một chiếc khác rồi lật nhào xuống triền đồi
bốc cháy. Chiếc xe bị đâm trúng thì đứt xích, từ trên
xe, bốn tên nhảy xuống, chúng chưa đứng vững thì năm sáu
họng M16 đã nhả hàng trăm viên đạn trên người chúng, bọn
xâm lăng chết không kịp than tiếng nào. Có vài biệt động
quân còn bám trên pháo tháp những chiếc tank đang đổ dốc,
họ cố chúi mũi M16 vào miệng pháo tháp bóp cò vô vọng.
Pháo tháp xoay tròn, họ rơi xuống đất. Chiếc xe chạy sau
đè lên thân họ.
Đoàn xe biến dạng trong đêm.
(...)
10 ngày cuối
cùng của VNCH
Thứ Hai 28-04-1975
Trong Decent Interval, Frank
Snepp cho biết cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn Tiến Dũng
nói: Chiều 28-4, bộ tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh phân
tích tình hình toàn bộ ở Sài Gòn và thấy rằng phe địch
rất hoang mang, bộ chỉ huy mất trật tự trong hai ngay đầu
của chiến dịch, các mũi tiến quân của ta vẫn hoạt động
theo đúng kế hoạch. Do đó Văn Tiến Dũng ra lệnh cho
cuộc tổng tấn công phải được khởi sự vào sáng ngày
29-4 để tiến
về Sài Gòn. Lệnh này đã được gởi đến mọi đơn
vị cũng như thông báo cho Hà Nội. Tối hôm đó Lữ đoàn
chiến xa 203 của Bắc Việt với nhiệm vụ tiến thẳng vào
Sài Gòn đã được lệnh xuất từ Biên Hòa, tắt đèn tiến
theo Quốc lộ 1 hướng về Sài Gòn". (*** Frank Snepp, sđd, trang
470)
Trong khi Dương Văn Minh đang chuẩn
bị tổ chức lễ trao quyền tại dinh Độc Lập thì Bắc Việt
đã lấy phi cơ A37 của VNCH vào hồi đầu tháng 4 từ Nha Trang
bay vào oanh tạc dinh Độc Lập. Việc này có nghĩa là tuy đã
được biết Dương Văn Minh nhận chức tổng thống để thương
thuyết theo sự đòi hỏi của họ như ông ta đã rêu rao, những
"người anh em bên kia" của ông vẫn ra lệnh cho phi cơ bay vào
oanh tạc Sài Gòn. Trong cuốn Đại thắng mùa xuân, Văn
Tiến Dũng đã nói rằng: Đó là một cuộc phối hợp một
cách tuyệt vời.
(...)
Giây phút
hấp hối của VNCH
Buổi chiều 28 là buổi chiều
có khá nhiều biến chuyển. Khoảng 6 giờ 30 chiều, Thủ tướng
Vũ Văn Mẫu yêu cầu chúng tôi có mặt tại đài truyền hình
THVN9 ở ngã tư Hồng Thập Tự-Cường Ðể để thu hình và
thu thanh lời yêu cầu của ông đòi chính phủ Hoa Kỳ rút
hết lực lượng bảo vệ sứ quán Mỹ, các nhân viên và chuyên
viên Hoa Kỳ ra khỏi Việt Nam trong vòng 24 giờ đồng hồ.
Ðó là lần cuối cùng tôi gặp
Thủ tướng Vũ Văn Mẫu. Từ phòng thu hình ra, ông Mẫu không
nói năng gì thêm ngoại trừ trả lời một câu hỏi của tôi
về hiện tình. Ông nói thẳng:
Tình hình tuyệt vọng. Họ (những
nhà lãnh đạo trước) đã làm nát bấy đất nước trước
khi quá muộn để phía bên kia thương lượng với chúng ta.
Việc yêu cầu Mỹ rút hết những người Mỹ cuối cùng ra
khỏi Việt Nam chỉ để thành phố này không thành biển máu
vô ích mà thôi.
Tôi không nhớ hết những điểm
giải thích của thủ tướng Mẫu nhưng những điểm chính
trong lời lẽ của ông thì không thể nào quên được. Vì
đài truyền hình và đài phát thanh chỉ cách nhau sân vận
động Hoa Lư nên chúng tôi lội bộ về đài. Gặp Vũ Thành
An vào tăng cường, tôi giao cuốn băng ghi âm cho anh yêu cầu
hoàn chỉnh với nhạc hiệu và cho phát thanh cứ 15 phút một
lần.
Sau khi tắm rửa xong, tôi ghé
qua phòng tin tức. Ðủ tám biên tập viên và chủ bút cho ca
chiều. Ông H.C đưa tôi một bản tin của AP nói đến việc
di chuyển của hàng không mẫu hạm chở trực thăng Midway ra
khỏi Vịnh Thái Lan hướng về Việt Nam. Ông HC là một chủ
bút rất giỏi và nhạy bén với tình hình. Lúc tôi còn học
lớp huấn luyện phóng viên vô tuyến truyền thanh, ông là
một người thầy tận tụy chỉ dẫn cho chúng tôi cách viết
một bản tin, cách chuyển một bản tin từ tiếng Anh qua Việt
ngữ, cách phỏng vấn và làm sao khi dự một cuộc họp báo
xong chỉ 10 phút sau có một bản tin ngắn. Ông nói: Muốn được
như vậy cần có kiến thức thời sự và nắm bắt được
điểm chính trong những lời tuyên bố tràng giang đại hải
của người chủ trì họp báo.
Khi tôi vừa xem xong bản tin AP,
ông HC nói: Chắc mất rồi bạn ơi. Nhưng thôi kệ mẹ nó.
Hút một điếu thuốc lào không. Tao có trà nóng ngon lắm.
Hồi chiều trước khi đi làm, vợ mới mua cho một ít bánh
bía nhân hạt sen mới sang chứ.
(...)
Tái chiếm trường Bộ Binh
Long Thành
Đêm ấy tôi đã sống sót sau
một trận chiến đấu đẫm máu và dã man nhất trong cuộc
đời mười năm trận mạc. Cái lều của tôi bẹp dí. Chiếc
máy PRC25 của tôi cũng bẹp dí. Chiến xa địch đã rút xa,
tôi còn đứng sững trên đỉnh đồi nhìn theo chúng. Tay tôi
còn cầm chắc quả lựu đạn lân tinh cuối cùng, tiếc rẻ.
Tôi bước rảo quanh ngọn đồi
trọc đã xác xơ. Thuộc cấp của tôi chết phơi thây trên
miệng hố, la liệt đó đây. Không còn khẩu M72 nào, lựu
đạn cũng cạn, pháo yểm không có, không yểm cũng không có.
Tôi quyết định cho đơn vị rút lui. Một trái mìn cóc nổ
dưới chân chuẩn úy Trung, người sĩ quan trẻ theo sau lưng
tôi đi kiểm tra trận chiến, bàn chân trái của Trung toe ra
như miếng bã trầu đẫm máu. Tôi dìu Trung vào cái lều sập
của đại úy Hoàn, xác đại úy tiểu đoàn phó đã bị pháo
100 ly xẻ thành từng mảnh, đầu văng một nơi, tay chân văng
một ngả. Chúng tôi xuống đồi tuần tự, các đại đội
3,4,2,1 rút lui qua con suối dưới chân đồi, tất cả đã ra
đi êm ả, tất cả đã ra đi kiêu hùng. Đêm 28-4-1975 máu chúng
tôi, máu những người biệt động còn tưới ướt đẫm một
ngọn đồi không tên của quê hương.
Khi chúng tôi xuống tới vườn
cam dưới chân đồi thì xe tank địch ào ạt lên đồi lần
thứ tư. Những trái đạn 100 ly bắn dài, vượt qua đỉnh
đồi, bay trên đầu chúng tôi rồi rơi bên bờ suối. Đất
đá bụi mù sau lưng chúng tôi. Trong đêm tối, tôi cho quân
lội nhanh qua bờ bên kia.
Đêm 28-4, chợ chiều rồi! Không
ai đáp ứng lời xin tác xạ yểm trợ. Không ai đáp ứng lời
tôi xin một trái hỏa châu! Qua suối, tôi cho đơn vị dấu
đội hình trong bãi mía. Từ đây, sáng hôm sau tôi nhìn lại
bên kia bờ, ngọn đồi trọc đẫm máu không một bóng người,
những chiếc xe tank bị phá hủy đêm qua đã được kéo đi.
Không thấy bóng dáng quân thù, không nghe tiếng động cơ chiến
xa. Ngọn đồi nằm phơi dưới nắng mai im ắng. Vào lúc này,
bên trái cái lô cốt hướng bắc, cạnh một gốc bằng lăng,
đại úy Hoàn TĐP/TĐ82 BĐQ thoải mái nằm ngủ yên trên đó,
đầu một nơi, thân một ngả. Có cả chục người lính can
trường yên nghỉ trên ngọn đồi này cùng ông.
Gió ngàn lồng lộng, hoa mía
bay lồng lộng...
(Vũ Mộng Long)
- :
Sư đoàn 325 (F325) đánh chi khu Long Thành, ngoài đụng độ
với biệt động quân ở trên còn đụng trận với thủy quân
lục chiến ở khu vực này. Sư đoàn 325, tổng trừ bị quân
đội miền Bắc, đơn vị chủ lực trong trận tấn công Nha
Trang, Phan Rang ngày đầu tháng 3-1075.
Giây phút
hấp hối của VNCH
Tôi áp dụng phương thức khẩn
cấp: Loại bỏ tất cả những tin nào có thể gây hoang mang
trong dân chúng khiến họ đổ vào sứ quán Mỹ trên đường
Thống Nhất vì những vụ đạp lên nhau và những vụ người
di tản cố gắng trèo lên tường sứ quán bị TQLC Hoa Kỳ
đánh trọng thương đã xảy ra. Trong những ngày cuối cùng,
phải nói rằng các hãng thông tấn AP, UPI. Reuters làm việc
rất hữu hiệu. Những bản tin họ phát đi giúp tôi nhận
ra ngay chiều hướng của tình thế:
"Kế hoạch dùng TQLC bảo vệ
hành lang Saigon-Vũng Tầu để di tản những nhân viên cao cấp
của chính phủ VNCH mà tính mạng sẽ nguy hiểm nếu lọt vào
tay Bắc Việt không thể nào thực hiện được sau khi có lời
tuyên bố của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu đòi Hoa Thịnh Ðốn
rút toàn bộ nhân viên Mỹ ra khỏi Việt Nam.
Khoảng chín giờ tối 28, chủ
bút H.C đưa tôi bản phân tích của hãng thông tấn AP và nói:
Bọn Mỹ có thể sẽ phải áp
dụng kế hoạch di tản khẩn cấp nhân viên Mỹ bằng trực
thăng vào ngày mai ra tầu Midway lúc đó đậu cách Vũng Tầu
có 40 hải lý và hai hàng không mẫu hạm và các khu trục hạm
của Ðệ thất hạm đội cũng đang tiến sát Vũng Tầu.
Ông còn cho tôi xem một bản
tin khác nói đến việc mất tuyến Long Khánh và bộ chỉ huy
của tướng Lê Minh Ðảo rút về tới Biên Hòa. Bản tin cũng
còn nói Sư đoàn 18 là sư đoàn duy nhất của VNCH còn chống
trả khá mãnh liệt trên đường rút. Văn phòng trưởng của
hãng thông tấn AP lúc đó là George Esper cũng gởi trên máy
một bản tin rất dài về việc rút lui có trật tự của Liên
đoàn 81 Biệt kích dù và các sinh viên sĩ quan các khóa cuối
cùng của trường Võ Bị Quốc Gia Ðà Lạt.
Ông hỏi tôi: Loan chứ?. Tôi
nói: Có gì mà không loan nhưng sẽ phải viết rất khéo, tránh
gây xúc động cho gia đình những đơn vị nào chưa biết số
phận chồng con họ ra sao. Vị chủ bút đầy kinh nghiệm này
cười và nói: Ðược cậu khỏi lo, đó là nghề của tao.
Sở dĩ tôi nhắc lại chi tiết
này để cho thấy rằng cho tới giờ phút hấp hối của chế
độ đài phát thanh Saigon vẫn là tiếng nói VNCH, tuy có người
bỏ chạy nhưng không phải là tất cả. Những người được
giao phó làm công việc của mình vẫn làm việc với một thái
độ bình tĩnh...
Chứ không đã tan hoang như
Văn Tiến Dũng viết trong cuốn Ðại thắng mùa xuân,
một cuốn sách viết hết sức cẩu thả và dựng đứng
nhiều chi tiết.
(...)
Tháng Tư đen-
A
Vào
đúng dịp kỷ niệm 37 năm kết thúc cuộc chiến Việt Nam,
một cuốn sách về những ngày cuối của xung đột kéo dài
hai thập niên với sự thiệt mạng của hàng triệu người
đã ra mắt mang tên Tháng Tư đen, sách dày gần 600 trang
của tác giả George J. Veith vẽ lại bức
tranh hãi hùng của những trận chiến cuối cùng với sự thiệt
mạng của 100.000 lính Nam Việt Nam.
Bản thân Hà
Nội ước tính họ mất 6.000 bộ đội chỉ trong vài ngày
cuối tháng Tư năm 1975, theo điểm sách Tháng Tư đen
trên báo Wall Street Journal của chuyên gia tư vấn quốc phòng
Mark
Moyar, người
cũng là tác giả cuốn Thắng lợi bỏ lỡ: Cuộc chiến
Việt Nam, 1954-1965.
Moyar đánh
giá Tháng Tư đen đã "điền vào khoảng trống lịch
sử" của giai đoạn 1973-1975 khi Hoa Kỳ đã rút quân và cuộc
chiến Việt Nam không còn là mối quan tâm hàng đầu của các
phóng viên Hoa Kỳ, khiến các tài liệu tham chiếu bằng tiếng
Anh để viết về giai đoạn này không có nhiều. Ông Veith
nhận xét thất bại trong tháng 4-1975 không phải do sự lúng
túng của chính quyền miền Nam và càng không phải do sự yếu
kém trên chiến trường của lực lượng VNCH. Theo ông, lực
lượng Nam Việt Nam bao gồm nhiều chỉ huy từng đẩy lùi
cuộc tấn công của miền Bắc hồi năm 1972 và đã có những
trận đánh thành công nhưng ít được biết tới trong giai
đoạn 1973-1975. Theo bài điểm sách của chuyên gia Moyar nói:
Ông Veith đã minh chứng rằng lý do gốc rễ của sự thất
bại ở miền Nam là việc cắt giảm trợ giúp của quốc hội
Hoa Kỳ trong năm 1974. Ngoài ra nguyên nhân khiến VNCH bị sụp
đổ để rộng đường dư luân. Đồng thời qua tuyên bố
của tướng Westmoreland (tại Nam Cali vào tháng 9, 1995), vì mục
tiêu chiến lược của Mỹ, nên ông ta không được tiến
quân ra Bắc, không được phá đường mòn HCM(!).
Ông Veith nói
sự thiếu hụt không quân cũng làm cho miền Nam không thể
cho máy bay ném bom lực lượng miền Bắc ngay cả khi họ biết
những nơi đối thủ tập trung đông quân (1).
Theo các con số từ sách Tháng Tư đen được cây viết
Moyar trích dẫn, Nam Việt Nam có tới hơn 760.000 binh sĩ nhưng
chỉ tập hợp được 110.000 ở Sài Gòn trong trận đánh cuối
cùng.
Thêm nữa việc
dân thường di tản với số lượng lớn cũng ảnh hưởng
đến khả năng triển khai và di chuyển quân của Nam Việt
Nam. Ông Veith nói việc Bắc Việt Nam giết hại những người
không cầm súng ở Huế năm 1968 và dọc Quốc lộ 1 năm 1972
khiến người dân phát hoảng và họ đã tràn ra các ngả đường
khi quân miền Nam rút đi. Việc tắc nghẽn đường và cầu
khi dân thường di tản làm cho một số đơn vị chiến đấu
của VNCH không rút kịp và bị lực lượng miền Bắc tiêu
diệt. Một trong những ví dụ ông Veith đưa ra và được chuyên
gia Moyar dẫn lại là đợt rút quân của Nam Việt Nam để
cố thủ ở Đà Nẵng.
Phần kết
thúc bài điểm sách cuốn Tháng Tư đen, chuyên gia quốc
phòng Moyar nói cuốn sách là lời nhắc nhở Hoa Kỳ về cái
giá phải trả bằng nhân mạng khi rời bỏ một đồng minh.
Ông nói 100.000 lính Nam Việt Nam, những người từng sát cánh
với Hoa Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng,
bị hành quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các
trại "cải tạo". Hơn nửa triệu người Nam Việt Nam cũng
đã bỏ mạng trên biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản.
(Alan Dawson)
(1)Xem
"Rules Of Engagement" của Mark Berent ở trang dưới.
- : George
J. Veith là nhà văn đồng thời cũng là sử gia.
- : Tháng
Tư đen, dịch giả Nguyễn Ngọc Anh.
Nguyên tác Black April: The Fall
of South Viet Nam, tác giả George J. Veith.
- : Khác
với cùng tựa đề Tháng Tư đen của dịch giả Nguyễn
Kim Vinh.
Nguyên tác Cruel April (The
Fall Of Sai Gon), tác giả Ouvier Todd).
Tháng Tư đen -
B
Cú
lừa đảo lớn nhất thế kỷ 20 do Cộng sản Việt Nam thực
hiện, đã hoàn toàn thành công bằng "Cái chết của Sài Gòn"
ngày 30-4-1975, khi quân đội chính quy Bắc Việt dưới là cờ
ngụy trang hai màu xanh đỏ với ngôi sao vàng của Mặt trận
giải phóng miền Nam, tiến vào thủ đô Sài Gòn. Hàng triệu
người miền Nam, và hàng triệu người miền Bắc cùng rơi
lệ trong ngày đó.
Người ta không
chỉ khóc vì đau khổ mà còn khóc vì sung sướng nữa. Không
chỉ ở các nước thuộc khối xã hội chủ nghiã, ngay ở
các nước phương Tây, và ngay chính ở Mỹ người ta cũng
ăn mừng ngày 30-4-1975. Để thoả mãn cái mặc cảm tự ti
thua kém chăng? Ngày 30-4-1975, ở Paris, London, Washington, những
người phản chiến và thiên tả mở champagne ăn mừng, rồi
tràn ra đường reo hò cho chiến thắng của người cộng sản
miền Bắc với những đoá hoa cẩm chướng màu đỏ đeo trên
áo hay cài trên tóc. Nhưng cuộc vui đã không kéo dài.
Phải mất
"20 năm đánh giết" mới có được "một ngày" vui toàn
thắng, thế mà niềm vui chiến thắng lại vội sớm ra đi.
Nhất là đối với những người cộng sản miền Nam trong
Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam (1973), tiền
thân là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam được thành
lập ngày 20-12-1960 ở Tân Lập, một xã trong vùng "giải phóng"
Tây Ninh theo nghị quyết của miền Bắc năm 1959, với nhiệm
vụ kết hợp các lực lượng võ trang ở miền Nam.
Mặc dù là
con đẻ của người miền Bắc, nhưng mặt trận giải phóng
luôn tuyên truyền và xuất hiện trong mắt của thế giới,
như một phong trào võ trang của nhân dân miền Nam tự đứng
lên để giải phóng miền Nam. Và họ đã được 70 quốc gia
(1)
trên thế giới công nhận sau đó.
Cuộc vui không
kéo dài cho những người cộng sản miền Nam, vì ngày 15-11-1975,
chỉ 7 tháng sau ngày chiến thắng 30-4. Tại dinh Độc Lập
cũ, và người miền Bắc tuyên bố: "Thống nhất đất nước,
nước Việt Nam là một".
Mặt trận giải phóng miền Nam đã bị các "đồng chí lãnh
đạo miền Bắc" khai tử như VNCH đã bị khai tử với "Cái
chết của Sài Gòn" 7 tháng trước.
Những người
miền Nam ngỡ ngàng nhớ lại lời Phạm Văn Đồng tuyên bố
năm 1968 tại Hà Nội: Miền Nam sẽ có chính phủ và chế độ
theo sự chọn lựa riêng. Bác sĩ Dương Quỳnh Hoa, bộ trưởng
y tế chính phủ cách mạng lâm thời là người đầu tiên
trả lại thẻ đảng cùng với..."niềm tin cách mạng". Phạm
Văn Đồng chấp thuận đơn xin ra khỏi đảng của bà với
điều
kiện chỉ được công bố 10 năm sau đó. Bộ trưởng
tư pháp chính phủ cách mạng lâm thời Trương Như Tảng sau
đó đã xuống thuyền vượt biên qua Pháp. Và ngay cả tướng
Trần Văn Trà, chủ tịch ủy ban quân quản Sài Gòn ngày nào
cũng được về hưu non dưới hình thức quản thúc tại
gia.
Thật ra mặt
trận giải phóng đã không còn lực lượng võ trang của mình
từ năm 1968. Trong cuộc Tổng tấn công Tết Mâu Thân năm 1968,
những nhà lãnh đạo miền Bắc sau khi vi phạm "Thoả thuận
ngưng bắn đón Tết Mâu Thân" giữa hai chính phủ, đã mượn
tay người Mỹ và quân đội VNCH giết chết gần 80% lực lượng
võ trang của mặt trận giải phóng (2),
khi đưa những "người đồng chí miền Nam" ra làm lực lượng
xung kích, dẫn đường cho quân chính quy Bắc Việt đi sau,
trong cuộc tấn công vào các thành phố miền Nam để ngăn
trừ hậu hoạn sau này.
Thế giới
bắt đầu hoài nghi với những cái nhìn quan ngại về Việt
Nam, nhưng 70 quốc gia đã từng công nhận Mặt trận giải
phóng miền Nam vẫn không lên tiếng sau ngày Chính phủ cách
mạng lâm thời bị khai tử. Trong thế giới ngày càng có mấy
ai đủ can đảm để thú nhận những lỗi lầm của mình?
Phải mất 40 năm người ta mới hiểu rõ điều gì đang xẩy
ra ở Liên Xô. Phải mất 30 năm người ta mới hiểu rõ điều
gì đang xẩy ra ở Trung Quốc. Nhưng chỉ cần 3 năm người
ta hiểu ngay điều gì đang xẩy ra ở Việt Nam. Lương tâm
của thế giới bắt đầu rúng động trước thảm cảnh thuyền
nhân Việt Nam, với những con người liều chết bỏ nước
ra đi ngày càng đông. Người Mỹ đã rút quân từ năm 1973,
chính quyền Sài Gòn đã chết từ năm 1975. "Mỹ đã cút, Ngụy
đã nhào" rồi, vậy điều gì đã khiến người dân Việt
Nam liều chết rời bỏ đất nước ra đi, trên những chiếc
thuyền đánh cá nhỏ bé được chế tạo không phải để
vượt biển.
Những trí
thức thiên tả, những người phản chiến đã từng ủng hộ
nhà cầm quyền Hà Nội và Mặt trận giải phóng, những người
đã đeo những bông hoa cẩm chướng màu đỏ trên áo và cài
bên tai, những người đã thức suốt đêm uống champagne ờ
Paris, London, Washington ăn mừng ngày 30-4-1975 năm xưa bỗng thấy
lương tâm mình chao đảo. Lại những cuộc xuống đường
ở Washington do Joan Baez chủ xướng, nhưng lần này không phải
để ủng hộ nhà cầm quyền Hà Nội, mà là để lên án chính
phủ miền Bắc. Và với những giọt nước mắt muộn màng,
những trí thức thiên tả phương Tây đã thú tội với người
Việt Nam bằng cách quyên góp tiền mua tàu cứu vớt người
Việt Nam vượt biển.
Nhưng lịch
sử đã sang trang rồi.
Những giọt
nước mắt hối hận muộn màng của thế giới, và cả của
những người chiến binh miền Bắc tiến vào Sài Gòn ngày
30-4 năm xưa, không thể làm sống lại VNCH.
VNCH đã chết
40 năm rồi. Nhưng cái chết của VNCH đã không trở thành vô
ích. VNCH đã đóng góp phần mình vào công cuộc chống lại
sự phát triển của chủ nghiã cộng sản cho nhân loại, đã
giúp thế giới phá vỡ huyền thoại "cách mạng và giải phóng"
để nhận diện rõ ràng chân tướng của người cộng sản.
Nhưng bất hạnh thay, VNCH đã hy sinh mà không giúp được chính
mình trước cú lừa đảo lớn nhất trong thế kỷ 20, hay còn
có thể là cú lừa đảo lớn nhất trong lịch sử nhân loại,
mà đảng Cộng sản Việt Nam đã biên kịch, đạo diễn và
thủ vai chính.
Bằng cái chết
của Sài Gòn ngày 30-4-1975, Việt Nam là đất nước bất hạnh
cuối cùng trên thế giới, rơi vào tay người cộng sản sau
cái chết của Nam Vang 18 ngày trước đó.
(The Fall Of
Sai Gon - Ouvier Todd)
Olivier Todd là nhà văn, nhà báo
thiên tả Pháp. Thiên tả và là chuyên gia về chiến tranh VN
đã viết nhiều bài báo gây bất lợi cho VNCH. Đến năm 1973,
sau Hiệp định Paris mới có cơ hội nhìn thấy sự thật nên
đã nhận sai lầm và viết tác phẩm nổi tiếng Cái chết
của Sài Gòn.
(1) Chỉ
có 23 nước công nhận Chính phủ cách
mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, trong đó có 21
nước đã đặt quan hệ ngoại giao. Những nước này là các
nước thuộc khối Xã hội chủ nghĩa và một số nước thuộc
Thế giới thứ ba.
(2)Trận
Mậu Thân, xem Thâm u bí sử 1 với Võ Văn Kiệt, Thâm u bí
sử 2 với Trần Văn Trà,
nằm ở tiết mục Ngày
thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.
Quân sử ngoại truyện
Tháng 9 năm 1975, tại Hà Nội,
Hội nghị trung ương lần thứ 24 của Đảng lao động Việt
Nam xác định mục tiêu thống nhất đất nước về mọi mặt.
Đại diện đoàn chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa, do
ông Trường Chinh đứng đầu, và đoàn Chính phủ cách mạng
lâm thời cộng hòa miền Nam Việt Nam, do ông Phạm Hùng đứng
đầu. Thống nhất đất nước về mọi mặt:
Xóa bỏ khu phi quân sự theo vĩ
tuyến 17.
Quốc kỳ, quốc huy là cờ đỏ
sao vàng.
Lấy tên nước là Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc ca là bài Tiến quân ca.
Thủ đô là Hà Nội.
Đổi tên thành phố Sài Gòn
- Gia Định thành...thành phố Hồ Chí Minh.
Những quy tắc giao chiến
Thiếu tá phi công Mark Berent cho
rằng Mỹ và đồng minh Việt Nam có thể đã chiến thắng
tại chiến trường vào những năm 67, 68. Nhưng qua những vụ
ngưng ném bom trên đường mòn Hồ Chí Minh và miền Bắc Việt
Nam, đã giúp cho Bắc Việt mang quân và vũ khí vào miền Nam
để đi đến chiến thắng cuối cùng vào tháng 4-1975. Hãy
nghe Mark Berent tâm sự:
Lần đầu tiên tôi tham chiến
tại Việt Nam là vào năm 1965. Ðơn vị của tôi cất cánh
từ căn cứ Ubon, Thái Lan. Tôi thuộc phi đoàn Cú Ðêm (Night
Owls), có nhiệm vụ bay trên đường mòn Hồ Chí Minh trong vòng
7 tháng. Cuối cùng, 5 tháng chót tôi được chỉ định chỉ
huy Woff FAC (Lực lượng không kiểm tiền phương (Forward Air
Control)). Lực lượng này bao vùng đường mòn Hồ Chí Minh
từ Lào đến suốt Bắc Việt Nam. Ðó là thời điểm mà tổng
thống Johnson ra lệnh ngưng ném bom. Do đó, có lúc các
phi vụ được chấp thuận ném bom, có lúc phi vụ không được
chấp thuận. Chẳng cần dấu diếm, nhiều lần một số anh
em phi công chúng tôi tự thi hành nhiệm vụ thả bom đường
mòn, mà không cho ai biết.
Trong giai đoạn đó chúng tôi
bay trên lãnh thổ Bắc Việt. nhưng vì "Những quy tắc giao
chiến" (Rules Of Engagement): Chúng tôi đã chiến đấu một
cuộc chiến mà tay chúng tôi đã bị trói chặt, mắt chúng
đã bị chọc thủng mù lòa và một nửa đạn dược trang
bi đã bị cắt giảm. Trước kia tôi vẫn nghĩ rằng với
sự giúp đỡ của Mỹ, chính phủ Sài Gòn biết phải làm
gì để chiến thắng. Nhưng một thời gian sau đó, tôi nhận
thức được rằng: Hình như người ta (Mỹ) không muốn
và không cho phép để thắng cuộc chiến tranh này!chỉ
vì Hoa Thịnh Ðốn đã áp đặt cái nguyên tắc giao chiến
oái oăm này!?. Chúng tôi cũng không thể thả bom đường xe
lửa tiếp tế từ Trung Cộng vào Bắc Việt. Mỹ cũng không
thể phong tỏa hải cảng Hải Phòng...Tất cả những gì Nixon
làm năm 1972 là để Bắc Việt có cơ hội mang tiếp tế vào
miền Nam. Ðáng lẽ chúng ta phải chặn đứng việc Bắc Việt
tiếp tế vũ khí cho chiến trường miền Nam mới phải?
Thật là đau lòng cho một cuộc
chiến mà chúng ta không muốn thắng!
(To Bear Any Burden - Al Santoli)
- : Trần
Văn Trà, tư lệnh khu 7 báo cáo về tình hình quân sự. Phạm
Hùng hỏi về tiếp liệu đạn dược, viên cán bộ phụ trách
hậu cần trả lời: "Báo cáo đồng chí, ta có đủ đạn để
bắn (bọn Ngụy) sợ đến ba đời ...". (...trích
lục lại)
Lạc đạn
Lịch sử xuất phát đường
Hồ Chí Minh, hay đúng ra là một hệ thống đường dùng để
tiếp viện cho các phong trào võ trang của cộng sản ở miền
Nam, bắt đầu sau khi Nghị quyết 15 ra đời vào tháng 5-1959.
Trong quyết nghị này, nói một cách tổng quát, bí thư thứ
nhất Lê Duẩn biểu quyết là phải dùng bạo lực võ trang
để chiếm miền Nam và thống nhất đất nước. Muốn thực
hiện mục đích đó, miền Bắc phải tìm cách du nhập vũ
khí, cán bộ khung (cán bộ nồng cốt) vào Nam để chuẩn bị
cho một cuộc chiến trường kỳ.
Từ nghị quyết đó, cộng cản
Việt Nam cho thành lập một tổ chức có tên là "Đoàn 559"
để tìm và thành lập một con đường tiếp vận vào Nam.
Về giai đoạn thành hình đường Hồ Chí Minh, tác phẩm cho
một cái nhìn tổng quát và khá chi tiết là Mở đường Trường
Sơn - đường mang tên bác, của Thiếu tướng Võ Bẩm, lúc
đó mang quân hàm thượng tá.
(Binh đoàn, binh Trạm, và đường
đi B – Nguyễn Kỳ Phong)
Những quy tắc giao chiến
Các phi công của không quân Hoa
kỳ khẳng định rằng, tăng cường ném bom Bắc Việt ngay
từ đầu chứ không phải leo thang dần dần theo kiểu Johnson
hẳn đã có thể nghiền nát Bắc Việt trước khi Liên Xô,
Trung Quốc kịp giúp họ xây dựng các đơn vị phòng không
hết sức hữu hiệu.
Đại tá Harry G. Summers Jr., một
nhà phân tích xuất sắc, tỏ ra ít cay cú với báo chí và
chính trị gia hơn là nhiều sĩ quan đồng sự của ông. Nhưng
ông phê phán các nhà kế hoạch quân sự Mỹ về việc truy
lùng quân du kích, những người được bố trí để quấy
rối quân Mỹ cho đến khi các sư đoàn Bắc Việt có thể
tiến hành những cuộc tấn công quy mô lớn. Nói tóm lại,
người Mỹ đã tự làm cho mình kiệt sức vì những nỗ lực
vô ích để chống nổi dậy: Giống như một con bò mộng
chỉ tấn công tấm choàng màu đỏ của người giác đấu
hơn là tấn công chính người giác đấu.
("Vietnam – A History" - Stanley
Karnow)
Stanley Karnow là phóng viên có
mặt ở Việt Nam từ đầu đến cuối cuộc chiến tranh. Tác
phẩm Vietnam – A History của
ông là một cuốn sử về nước Việt Nam hiện đại từ khi
tiếp xúc với phương Tây, trọng tâm là cuộc chiến tranh
giữa hai miền Nam-Bắc.
Lạc đạn
Để sửa soạn cho đường Hồ
Chí Minh, tướng Trà đã đích thân đến nhà của bí thư Lê
Duẫn, để xin cho một số cán bộ nồng cốt, đa số là các
cán bộ tập kết ra bắc năm 1955 như Trà xâm nhập trở lại
miền Nam. Tướng Trà nói ông xin 100 người nhưng Lê Duẫn
chỉ cấp cho trước 25 người như một thử nghiệm đầu tiên.
Sách của tướng Trà chỉ nói sơ qua đường Hồ Chí Minh,
và những chi tiết tổng quát đều giống như những gì tướng
Võ Bẩm viết. Nhưng qua sách của tướng Trà chúng ta biết
được thêm cộng cản Việt Nam có hai kế hoạch song song:
nhiệm vụ dọn đường, tuyển mộ cán bộ cấp dưới là
nhiệm vụ của tướng Bẩm, tuyển chọn một số cán bộ
"khung," cán bộ có kinh nghiệm quân sự gởi vào B để thành
lập và chỉ huy các đơn vị chủ lực Miền (các trung đoàn
cơ hữu của Trung ương cục miền Nam), là nhiệm vụ của
tướng Trà. Theo hai sách này, toán phụ trách chuyển vận đầu
tiên được gọi là Tiểu đoàn 301. Cấp số quân khoảng 470
người, được tuyển chọn từ Sư đoàn 305, một đơn vị
được thành lập từ các đoàn quân từ miền trung (Liên khu
5, trong thời chiến tranh Việt-Pháp) tập kết ra Bắc.
Trên đường di chuyển bị oanh
tạc, bị dội bom phá hủy, tổng số thiệt hại về nhân
mạnh trên đường Hồ Chí Minh là 12.487 người chết và 21.802
bị thương.
(Binh đoàn, binh Trạm, và đường
đi B – Nguyễn Kỳ Phong)
Góp nhặt...ghi
chép...
Alan Dawson nói
100.000 lính miền Nam, những người từng sát cánh với Hoa
Kỳ trong các trận đánh cuối cùng, đã bỏ mạng, bị hành
quyết tức thì hay chết vì bị hành hạ trong các trại cải
tạo. Hơn nửa triệu người miền Nam cũng đã bỏ mạng trên
biển khi bỏ trốn chế độ Cộng sản.
Melvin R. Lairdcũng
nói vào thời điểm này, miền Bắc đã tổn thất 1,1 triệu
binh sĩ và thường dân. Ông thêm: Bắc Viêt chiếm đoạt được
miền Nam bằng võ lực nhưng đã không chiếm được lòng dân.
Chính sách xã hội hoá miền Nam và củng cố xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc đã thất bại hoàn toàn. Cộng sản Việt
Nam đã theo đuổi một cuộc chiến mà không có kẻ chiến
thắng. Chỉ có nhân dân ở cả hai miền Bắc và Nam
là những kẻ thua cuộc vì phải trả một giá rất đắt
bằng hàng triệu sinh mạng và đổ vỡ thê thảm về vật
chất và tinh thần. Biết bao gia đình bị ly tán và đạo đức
suy đồi, mà ảnh hưởng tai hại sẽ còn kéo dài qua nhiều
thế hệ.
- :Con
số lính miền Nam tử trận 220.350 người được dẫn từ
tài liệu lưu trữ của Bộ quốc phòng Mỹ, tính từ năm 1965
đến năm 1974. Cộng thêm con số tử trận trong giai đoạn
1974-1975 và trước đó cho ra ước tính khoảng hơn 250.000 tử
trận. Nhà sử học R.J. Rummel đưa ra con số ước tính cao
nhất có thể lên tới 315.000.
- :Theo
tài liệu Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975):
1,1 triệu quân nhân chết; trong
số đó có 300.000 quân nhân mất tích (chết trận mất xác).
Cuộc chiến tranh không
có người chiến thắng
Tác phẩm VietNam
– A History của Stanley Karnow,
trích đoạn ở dưới có tựa
đề: "The War Nobody Won".
Cuộc chiến
Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có người chiến thắng,
ít ra là theo ngôn ngữ nhân văn, đó là cuộc chiến tranh
giữa các nạn nhân. Nguồn gốc của nó cực kỳ phức tạp,
những bài học của nó luôn được tranh cãi và hậu quả
của nó các thế hệ mai sau nhận định. Nhưng cho dù đó
là một cuộc dấn thân hợp lý hay một nỗ lực sai lầm,
nó cũng là một bi kịch mang tầm vóc sử thi và văn học sử.
Tháng giêng
năm 1989, tại thành phố Hồ Chí Minh, tên trước kia là Sài
Gòn, một cựu thương binh du kích Việt Cộng tên là Trần
Văn Lê đã đưa cho người phóng viên truyền hình Mỹ Morley
Safer một bài
thơ mà ông ta viết để vinh danh sự trở lại của những
"lính Mỹ".
Bao nhiêu lính
Mỹ
Chết ở đất
này?
Bao nhiêu người
Việt
Vùi dưới
cỏ cây?
Hòa bình gặp
lại,
Bên ly rượu
đầy
Nào cùng nâng
chén
Nước mắt
tràn xuống tay.
(...)
Hơn bốn triệu
binh lính và thường dân VN ở cả hai bên, tức là khoảng
10 phần trăm dân số bị chết hoặc bị thương. Đa số những
người Nam Việt Nam chết được chôn cất trong những nghĩa
trang gia đình hoặc dòng tộc. Đi thăm miền Bắc đất nước
sau cuộc chiến, tôi đã thấy hàng hàng lớp lớp những bia
mộ trắng trong mỗi nghĩa trang làng xã, mỗi tấm bia mang dòng
chữ liệt sĩ. Nhưng những ngôi mộ ấy đều là mộ gió,
thi hài của những người đã khuất đã bị xe ủi đẩy xuống
những hố chôn chung trong những nấm mồ tập thể ở miền
Nam, nơi họ ngã xuống.
(The War Nobody
Won - Stanley Karnow)
(1) Mộ
gió là ngôi mộ không có tử thi, hài cốt, mộ người chết
đuối, chết trận không tìm được xác. Thân nhân làm hình
nhân bằng rơm rạ và làm lễ an táng như lễ an táng thông
thường.
Chuyện kể
thời hậu chiến
Khi chiến tranh
chấm dứt, gia đình hắn định mang hài cốt của hắn từ
nghĩa trang liệt sĩ về quê. Nhưng đào mãi, đào mãi, cái
huyệt vẫn trống trơn, không hề có vết tích gì cả.
Có người nói: Anh ấy hiển thánh rồi! Lại có người đề
nghị: Thôi thì mang tấm bia có tên tuổi của anh ấy về quê
cũng được. Nhưng tấm bia bằng đá ấy lại quá nặng.
Cuối cùng,
bố mẹ hắn quyết định chỉ đục tấm bia, lấy hai chữ
"liệt sĩ" mang về nhà.
Biên Hoà
không bị thất thủ
Theo Chuẩn tướng Trần Quang
Khôi: Có không ít bài viết lờ mờ hoặc viết sai về một
số sự kiện trong cuộc chiến. Đặc biệt khi viết về Biên
Hòa không có bên nào nói đúng. Ai cũng biết Biên Hòa là vị
trí chiến lược của miền Nam, phi trường Biên Hòa còn là
bản doanh BTL/Quân đoàn III. Để mất Biên Hòa là mất Sài
Gòn, mất miền Nam VN. Theo hồi ký Hoàng Cầm:
(,,) Đã sang ngày 28-4, như bộ
chỉ huy chiến dịch thông báo, hầu hết các hướng phát triển
thuận lợi, các binh đoàn chủ lực đã tới trước cửa ngõ
Sài Gòn, địch lập tại đây một tuyến phòng thủ và cũng
tại đây "lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh Đông
Dương", địch cấu trúc các tuyến hào chống tăng để chặn
đối phương. Ngoài hầm hào, rào kẽm gai bãi mìn chống bộ
binh ở các căn cứ, đồn bót sẵn có từ trước, địch đã
thiết kế những trận địa mới, đào hào, rải mìn chống
tăng, đưa các xe tăng M41, M48 nằm sâu dưới các ụ đất,
các hầm hào có bao cát bao quanh, chĩa nòng pháo về các con
đường tiến của xe tăng ta. Ngoài ra địch còn biến các
dãy phố thành trận địa. Chúng chất lên đó những bao cát
thành lô cốt, hoả điểm, thành những ổ đề kháng lợi
hại. Chúng đặt súng M72 hoả tiễn chống tăng, súng máy 12.7
ly, ĐKZ 57 trên những tháp chuông, cửa sổ nhà tầng, sẵn
sàng nhả đạn, chặn đường tiến của ta (...).
Vì vậy sáng ngày 30-4-1975, quân
đội Bắc Việt đi đường vòng qua Biên Hòa để đánh vào
Sài Gòn. Đến khi Chuẩn tướng Trần Quang Khôi được tỵ
nạn chính trị tại Hoa Kỳ sau 17 năm tù đày trong trại cải
tạo, có một số người mới biết sự thật rằng Biên Hòa
không hề thất thủ.
Quân sử ngoại truyện
Sư đoàn 341 thuộc Quân đoàn
4) của Thượng tướng Hoàng Cầm bỏ Biên Hòa, đi đường
vòng hợp quân với Quân đoàn 2 tấn công Sài Gòn vì địch
ở căn cứ Biên Hoà, khu vực phòng thủ mạnh nhất của địch
trước cửa ngõ Sài Gòn vẫn tiếp tục chống trả. Các đơn
vị quân đoàn chưa vượt được sang sông Đồng Nai. Bốn
giờ sáng, phân đội đi đầu của Sư đoàn 7 (Quân đoàn 4)
tiến đến cầu sắt xe lửa Biên Hoà nhưng tăng không qua được
vì cầu này yếu, trọng tải chỉ cho xe 12 tấn. Cầu Mới
bị địch phá. (Chiến tranh Việt Nam toàn tập - Nguyễn
Đức Phương) |