10 ngày
cuối cùng của VNCH
Thứ Sáu
25-04-1975
Khi đoàn xe chạy qua khỏi văn
phòng của hãng hàng không Air America, người lái xe trước
tắt đèn, Frank Snepp chở ông Thiệu trên xe sau cũng phải vội
vã tắt đèn theo. Bên ngoài trời quá tối, bỗng Frank Snepp
chợt nhìn thấy trùm Polgar chạy ra cách xe chỉ chừng mấy
thước, anh ta đạp thắng thật gấp và những người ngồi
băng sau kể cả ông Thiệu đều bị dội vào băng ghế trước,
tuy nhiên chẳng có ai bị thương tích gì. Polgar mở cửa xe
và dẫn ông Thiệu đến phi cơ đậu cách đấy không xa. Ông
Thiệu quay lại vỗ vai và cám ơn Frank Snepp, mắt ông ta long
lanh và nắm tay người tài xế Mỹ khá lâu, nói mấy lời
cám ơn rồi bước vội đến phi cơ.
Đại tướng Trần Thiện Khiêm
và đoàn tuỳ tùng cũng theo chân ông Thiệu. Đại sứ Graham
Martin và đoàn vệ sĩ của ông đang đứng dưới một chiếc
phi cơ vận tải C118 bốn động cơ của không lực Hoa Kỳ,
ông đại sứ cùng Polgar tiễn đưa ông Thiệu và phái đoàn
lên phi cơ rồi sau đó phi cơ cất cánh rời phi trường Tân
Sơn Nhất bay đi Đài Bắc.
(...)
Bên lề
trận chiến
Một thời
gian sau đó, bà Anna Chennault tuân hành lệnh của Tổng thống
Hoa Kỳ Gerald Ford từ Hoa Thịnh Đốn qua Đài Bắc để gặp
tổng thống Thiệu và đại tướng Khiêm.
Bà Anna Chennault
là vợ của vị tướng anh hùng thời Đệ nhị thế chiến,
Trung tướng Claire Lee Chennault, tư lệnh Không đoàn 14 của
không lực Hoa Kỳ hoạt đông ở Trung Hoa lục địa.
Bà Anna Chennault
sau nầy là một nhân vật quan trọng trong bộ tham mưu tranh
cử của ông Richard Nixon, bà là người trung gian trong sự liên
hệ mật thiết giữa tổng thống Nixon và tổng thống Thiệu
trong thời gian đó.
Nhiệm vụ
trong chuyến đi này của bà Anna Chennault là chuyển lời tổng
thống Hoa Kỳ yêu cầu cựu tổng thốngThiệu và cựu thủ
tướng Khiêm đừng vào nước Mỹ.
(Những ngày
cuối của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ở Sài Gòn - Nguyễn
Tấn Phận)
- :Về
sau, ông Nguyễn Văn Thiệu từ Anh sang Mỹ, ông sống lưu vong
lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001,
và mất tại Boston.
1 Góp nhặt...ghi
chép...
Sau khi Việt
Nam Cộng Hòa thất thủ, vai trò của Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu được đem ra phê phán. Vài ý kiến cho rằng vì ông
quá tin vào người Mỹ nên miền Nam rơi vào tay cộng sản.
Về vai trò lãnh đạo, một số ý kiến nói tại ông nắm
giữ hết quyền hành, chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Ðộc
Lập, nên gây ra nhiều sự bất mãn cho các cấp tướng lãnh.
Tổng thống
Thiệu có quá tin người Mỹ không?
Căn cứ
vào những hồ sơ được giãi mật, ông chẳng những không
tin người Mỹ, trái lại lúc nào ông cũng nghi ngờ và lo sợ
về đường lối của Hoa Kỳ đối với Việt Nam. Ông đã
có thái độ e dè, nếu không nói là bất thiện cảm với
người Mỹ. Trong một báo cáo về cá nhân tổng thống Thiệu
do Nha tình báo quốc phòng (Defense Intelligence Agency/ DIA) viết
vào tháng 7-1968, họ nhận xét ông là người chống cộng (anti-communist)
nhưng đồng thời cũng "chống Mỹ."
So với những
những tài liệu phân tích về tâm tính tổng thống Thiệu
mà người viết đã đọc qua, có thể nói Hoa Kỳ không hiểu
nhiều về ông Thiệu: Phần lớn họ chỉ đoán hay dựa vào
những bạn đồng ngũ trong quá khứ. Báo cáo đến từ CIA,
DIA, và tòa đại sứ Hoa Kỳ ở Sài Gòn, xử dụng nhiều tỉnh
từ như khôn vặt, cáo già, mưu mô, cunning, intelligent, shrew,
efficient...để tả cá tính ông. Nhưng sau cùng, họ kết luận
họ không đoán được suy nghĩ và hành động của ông.
Trong một
vài lần mặt đối mặt với nhiều thẩm quyền Hoa Kỳ, ông
bỏ đi cá tính thông thường của ông là sự dè dặt khi được
hỏi ý kiến, và nghe nhiều hơn nói. Qua những lần như vậy,
giới hữu trách Mỹ thấy ông Thiệu biết nhiều chuyện họ
làm nhưng ông làm như không biết. Dựa vào những tài liệu
đã trích, chúng ta thấy ông không hoàn toàn tin vào người
Mỹ và ông chỉ dựa vào người Mỹ để đạt được những
mục đích ông muốn.
(Về Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: - Jay
Veith một chuyên viên về sử liệu chiến tranh Việt Nam đã
cung cấp tài liệu giải mật mới nhất về Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu mà "cáo già," "khôn vặt" là từ nguyên thủy dùng
trong báo cáo tháng 8-1971.
Góp nhặt...ghi
chép...
(..trích lục
lại)
Ngày 29 là
ngày có nhiều góp nhặt...để ghi chép...như ngày 29-9-2001,
ông Thiệu nằm xuống. Ngày 29-3-1975, ngoài Chuẩn tướng Nguyễn
Văn Điềm tử trận, còn chuyện Đà Nẵng di tản với
tướng Trưởng, tướng Khánh, tướng Thoại, tướng Lân, và
tướng Hình...
2 Góp nhặt...ghi
chép...
Sau khi ông
Thiệu trở thành tổng thống, người Mỹ dồn mọi liên lạc
để tìm hiểu thêm về ông. Nhưng tài liệu của CIA tự thú
là họ thất bại. CIA không còn cách nào khác hơn là phải
xử dụng phương tiện nghe lén. Trong tài liệu giãi mật mới
nhất, CIA thú nhận đã dùng phương tiện nghe lén để tiên
đoán về ý định của ông. Không gây ảnh hưởng được
thẳng với ông, họ gây ảnh hưởng với hai cộng sự viên
tin cẩn nhất của ông: Trung tướng Ðặng Văn Quang và Thủ
tướng Trần Thiện Khiêm. CIA cho biết, đôi khi thẩm quyền
Mỹ không thuyết phục được ông, nhưng khi họ dùng ông Khiêm
và tướng Quang "chuyển lời" thuyết phục, thì ông lại nghe
theo.
Ông biết
CIA thâu âm, nghe lén bên trong dinh Ðộc Lập và một số nhân
viên chung quanh ông làm việc cho CIA. Nhưng ông làm như không
biết và lợi dụng những phương tiện đó để "chuyển lời"
lại với Mỹ ý nghĩ thật của ông và đôi khi ý nghĩ giả
dối để đánh lừa người Mỹ. CIA đi đến kết luận vì
qua nhiều trường hợp, ông đã nói thẳng với thẩm quyền
Mỹ những gì ông biết về hoạt động sau lưng của họ.
Trong hai tháng cuối cùng năm 1972, ông nói thẳng vào mặt Cố
vấn An ninh Quốc gia Henry Kissinger, là: "Tại sao tôi phải tin
ông?" Và: "Một tên Việt Cộng giao liên địa phương còn biết
nhiều về những chi tiết thương lượng ở Ba Lê hơn tôi".
(Về Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: -
Trưởng sở CIA Thomas Pogar nói lên sự vô lý về hành vi của
Hoa Kỳ (ít ra là qua hành vi của Kissinger) trong cuộc thương
nghị: Trong khi Hà Nội thông báo cho nhân sự ở hạ tầng
cơ sở thấp nhất biết mọi chi tiết và diễn biến của
cuộc thương lượng. Trong khi phía Hoa Kỳ thì chỉ có một
số tối thiểu thẩm quyền tối cao mới biết được diễn
tiến của cuộc thương lượng.
Góp nhặt
sỏi đá
Tướng Kỳ cho đáp trực thăng
xuống Bộ tổng tham mưu, không thấy tướng lãnh nào ngoài
tướng Trưởng đang...trầm ngâm nhìn bản đồ và...hút thuốc
lá. Tướng Trưởng nhờ tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung
quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau
buổi trưa ngày 29-4.
Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu
nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
- Nhờ tướng Kỳ nhà tôi mới
đi được.
(Nguyễn Tường Tâm)
3 Góp nhặt...ghi
chép...
Liên hệ
với các tướng lĩnh VNCH
Một số
tác giả Mỹ và Việt dùng tỉnh từ "khôn vặt" cho tổng thống
Thiệu. Khảo sát cuộc đời ông, người viết không nghĩ ông
chỉ khôn vặt. Sự khôn ngoan của ông cao hơn khôn vặt nhiều.
Tổng thống Thiệu phải là một người khôn hơn "khôn vặt"
khi ông loại trừ những đối thủ chính trị và quân sự,
để nắm quyền lãnh đạo. Nhìn qua sự nghiệp chính trị
của ông, chúng ta thấy ông có những đức tín cần thiết
để "biết" mà sống.
Không nhiều
thì ít, chắc chắn tướng Thiệu phải có ý kiến về số
tướng lãnh bị ông cho lưu đày hay bị giải ngũ và tất
cả các vị tướng đó đều thâm niên hơn ông về cấp bậc
(lên cấp tướng trước, sau). Nguyễn Hữu Có, thâm niên cấp
bậc cùng ngày với ông Thiệu, trong một chuyến công du ở
Ðài Loan năm 1967, bị bỏ lại và sau đó cấm trở về nước.
Ðể củng cố thế lực, năm 1968, ông triệu hồi tướng Trần
Thiện Khiêm về nước, bổ nhiệm làm tổng trưởng nội vụ,
rồi thủ tướng. Cùng năm, ông đưa tướng Ðỗ Cao Trí về
làm tư lệnh Vùng III. Tháng 7-1970 ông ban hành một sắc lệnh,
thay đổi cơ cấu quân sự trong tương quan giữa bộ Tổng
tham mưu và Quân đoàn/Quân khu. Nói một cách khác, đến cuối
năm 1970, các tướng lãnh đã "vào hàng" theo lệnh tổng thống
Thiệu.
Để đề
phòng những biến động có thể xảy ra, ông tập trung quyền
lực trong tay. Sự lo sợ đảo chính khiến ông giữ lại một
số tướng lãnh lẽ ra ông phải cho họ giải ngũ từ lâu.
Cũng vì sợ đảo chính, ông có những liên hệ với một số
tướng lãnh không có khả năng chung quanh ông. Ông bất cấn
hệ thống quân giai và chỉ huy quân đội thẳng từ dinh Ðộc
Lập. Thay vì chỉ cần "đề nghị" với tổng tham mưu trưởng,
hay tư lệnh vùng theo đúng tinh thần của hệ thống quân giai,
ông Thiệu đích thân ra quân lệnh từ phủ tổng thống.
(Về Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu – Nguyễn Kỳ Phong)
: - Các
buổi họp bất thường hay hàng tháng với các tư lệnh Quân
đoàn, Quân khu, cùng với các tư lệnh binh chủng như không
quân và hải quân được diễn ra trong dinh Độc Lập, thay
vì ở bộ Tổng tham mưu như thường lệ. Từ đó tổng thống
Thiệu hoàn toàn lấy mọi quyết định, và ra lệnh thẳng
cho các nơi.
(Giao Chỉ)
: - Vai
trò của bộ Tổng tham mưu trong những năm cuối cùng của
cuộc chiến chỉ là một hộp thư liên lạc giữa tổng thống
Thiệu và các tư lệnh quân đoàn.
(Những ngày cuối của VNCH,
nguyên tác "The Final Collapse"
của cựu Đại tướng Cao Văn
Viên – Dịch giả: Nguyễn Kỳ Phong)
Tháng Ba buồn ... hiu!
(...tiếp ở
bãi biển dưới chân núi Sơn Trà)
Mặt trời khuất bóng về hướng
tây, cái váng vàng úa của buổi chiều tàn phản chiếu lại
lên bầu trời một mầu ảm đạm thê lương! Hay tại tôi
"lòng buồn cảnh có vui đâu bao giờ"!
Màn đêm bắt đầu bao phủ cũng
là lúc tư lệnh TQLC đến rồi lần lượt các vị tư lệnh
quân binh chủng khác đáp trực thăng về đây mở cuộc họp
ngay tại TOC/HQ (Trung tâm hành quân hải quân). Ngồi ở cửa
hầm TOC với Tr/úy Tạ Hạnh, chúng tôi nhận diện được
quý tướng lãnh vào họp trong TOC là Trung tướng tư lệnh
QĐ1 Ngô Quang Trưởng, Trung tướng tư lệnh tiền phương QĐ1
Lâm Quang Thi, Thiếu tướng tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân, Thiếu
tướng Nguyễn Duy Hinh tư lệnh SĐ3 BB, tướng tư lệnh.HQ Hồ
Văn Kỳ Thoại, tôi không biết rõ cấp bậc hải quân nên
cứ gọi là...ông tướng cho chắc ăn
Cũng cần nói thêm là trong các
vị tướng tư lệnh đến họp, tôi không thấy 2 vị tư lệnh
"không quân", (nói lại cho rõ là tôi không thấy chứ chưa
hẳn là nhị vị này vắng mặt), Đó là tướng "không quân"
tư lệnh SĐ1 BB (1), đại đơn vị
của ông đã bị cái "cầu phao" lừa, còn tướng Khánh, tư
lệnh không quân Vùng 1 chả nhẽ cũng..."không quân" nên không
cần đến dự? Có cũng như không chăng? Vì mấy ngày này chẳng
thấy phản lực bỏ bom đâu cả mà bỏ đi đâu! Chằng thấy
chuồn chuồn chuyển quân, tiếp tế, tải thương đâu cả!
Chẳng lẽ "mắng mí phí táy, thiểm zường tú lọoc tài zi?",
có nghĩa là chuồn chuồn bay mất thì mưa ngập bờ ao!
Trong khi các vị tướng lãnh
đang họp trong TOC thì bộ đội nón cối bắt đầu pháo kích
vào BTL/HQ, cường độ tăng dần, lúc đầu có những trái
rớt ngoài vòng đai nhưng rồi tiền sát viên của chúng nằm
gần đâu đây để điều chỉnh dần vào mục tiêu, nhiều
trái nổ gần chỗ chúng tôi. Tài xế Ngọc báo cho biết xe
jeep của tư lệnh bị pháo không còn sử dụng được nữa.
Cuộc họp chấm dứt, Trung tướng
Ngô Quang Trưởng đi ra trực thăng trước, thiếu tướng tư
lệnh TQLC ngoắc tôi và bảo mang máy theo trung tướng TL/QĐ1.
A-lê-hấp, tôi quảy máy PRC25 lên lưng và tức tốc chạy theo,
ra đến nơi trực thăng đậu, còn đang chờ một vị thiếu
tá lên trước rồi tôi mới lên. Ngồi trên trực thăng ngó
xuống, thấy tôi trung tướng hỏi:
– Chú đi đâu đây?
– Thưa trung tướng, thiếu
tướng tư lệnh tôi bảo tôi mang máy theo trung tướng.
Suy nghĩ trong giây lát rồi ông
tướng khoác tay bảo:
– Thôi, không cần, chú trở
lại với tư lệnh đi, cho tôi gửi lời cám ơn ông.
Rồi tất cả mọi người trong
phòng họp lần lượt bước ra và rời BTL/HQ, lúc đó vào
khoảng gần 10 giờ đêm, bộ đội nón cối vẫn còn pháo
lai rai vào sân cờ.
Thiếu tướng tư lệnh bước
tới chỗ tôi và Tr/úy Hạnh, gương mặt tư lệnh đăm chiêu,
suy nghĩ, Tr/úy Hạnh vội trình với tư lệnh:
– Thưa thiếu tướng, mình
phải bám theo tư lệnh HQ thôi, vì tất cả phương tiện không
còn nữa, xe trúng pháo hư rồi, trực thăng cũng hư...
Tư lệnh suy nghĩ đôi phút rồi
gật đầu, Tr/úy Hạnh quay sang tôi:
– Tiểu Cần, chạy sang gọi
tất cả anh em lên đường.
Đi vòng dưới chân núi Sơn Trà
chừng 2 tiếng thì chúng tôi ngồi nghỉ, tư lệnh HQ làm tín
hiệu bằng đèn pin cho tàu vào rước, có lẽ đến hơn 30
phút sau mà cá lớn cá nhỏ vẫn lặn mất tiêu, không có tàu
nào vào đón cả nên tư lệnh HQ Hồ Văn Kỳ Thoại nhờ tôi
liên lạc bằng hệ thống TT. Trời đất! Một giới chức
đứng đầu Vùng 1 duyên hải mà không có một ATV hay hệ thống
LL/TT đi theo? Cũng may là trưa nay, trong lúc rỗi rảnh chờ
lệnh mới, và qua nhiều năm tháng trong nghề đã dạy cho tôi
những kinh nghiệm và lanh lợi nên tôi đã xin được tần
số nội bộ của HQ nên bây giờ tôi vô tình lại kiêm nhiệm
thêm vai trò một ATV của tư lệnh HQ nữa, một ATV, hai tư
lệnh! Chuyện hi hữu như các tướng lãnh họp hành quân mà
không có (2) tướng KQ, như tư lệnh
HQ mà phải hành quân bộ trong đêm bên bờ biển!
Sau khi liên lạc được với
HQ, họ gửi vào 2 tàu chiến, không phải để chở quân, hình
như là giang tốc đỉnh. Vì có nhiều đá ngầm và sóng biển
nên tàu chỉ đậu cách xa bờ chừng 10 m nên chúng tôi phải
bơi ra. Muốn giữ cho máy PRC25 khỏi ướt, tôi phải đội
máy lên đầu, vì vậy chuyện bơi ra tàu khá vất vả và mệt
nhọc, và tư lệnh cũng gặp nhiều khó khăn, nhưng cuối cùng
thì chúng tôi cũng an vị trên boong tàu. Thiếu tướng tư lệnh,
Tr/úy Hạnh và tôi ngồi trên boong, cuối đuôi tàu, bộ quân
phục ướt sũng, gió thổi mạnh, hơi nước biển, sương đêm
phủ trùm càng làm tăng thêm cái lạnh suốt một đêm dài,
ba thầy trò bó gối nhìn nhau. Người ta thường nói "bụng
đói cật rét" nhưng chúng tôi bụng đói thì có, nhưng không
phải cật rét, rét bên ngoài mà là rét từ trong, tự đáy
lòng. Hai hàm răng lập cập vào nhau, cố mím môi cắn lợi
để kềm lại mà không được, vậy mà tư lệnh luôn nhắc
tôi phải cố giữ liên lạc với hải quân, với HQ 802, tư
lệnh nói:
– Chú cố gắng giữ liên lạc
với HQ 802, không có tôi họ không vào bốc anh em mình đâu.
Nhắc lại điều này chắc hẳn
một số bạn lính biển không vui, nhưng sự thật nó là vậy
mà. Điển hình là khi phó đề đốc TL/HQ phải nói rõ tên
thì "tàu trưởng" mới tin và cho tàu vào đón. Điển hình
là sau khi họp xong, tại sao phó đề đốc không đi ra hướng
cầu tầu ngay trong BTL/HQ mà lại phải đi bộ, mò mẫm trong
đêm dưới chân núi Sơn Trà? Vì cầu thì có mà tàu thì không!
Theo lời yêu cầu của TL/TQLC,
chiếc tàu chở tư lệnh và anh em chúng tôi cứ ngược xuôi
ngoài khơi trước cửa bãi biển Non Nước. Mãi tới 8 giờ
sáng ngày 29-3-75, sau khi được biết đã có 2 tàu vào đón
TQLC tại bãi biển Non Nước thì giang tốc đỉnh mới chuyển
chúng tôi sang tàu lớn HQ 802, đậu ở ngoài khơi để đón
các TQLC chuyển đến. Tới xế chiều không còn thấy tàu thuyền
nào từ trong bờ chuyển quân ra nữa thì HQ 802 nhổ neo, trực
chỉ hướng nam, nối đuôi nhau vượt trùng dương! Vĩnh biệt
vùng đất địa đầu giới tuyến! Vĩnh biệt anh em LĐ147/TQLC
nằm lại hay bị bắt trên bãi cát Thuận An!
Để chấm dứt ở đây những
gì tôi chứng kiến, tôi xin được mượn lời của Đại tướng
Cao Văn Viên khi được báo chí phỏng vấn:
– Mỗi người giải thích sự
thật theo lối riêng, 100 chứng nhân có 100 sự thật (hoặc
sai sự thật). Định kiến làm cho lịch sử sai lệch.
Vì thế tôi đã hết sức cố
gắng loại bớt những chi tiết không cần thiết để tránh
suy diễn bàn cãi mất thì giờ, nhưng cũng sẽ không thể tránh
được một số sự kiện khác với cái nhìn của người khác.
Nhưng cái chính xác không thể phản bác được mà ai cũng
phải công nhận là SĐ1/BB đã bị tan hàng bất dắc dĩ một
cách đau khổ. LĐ147 TQLC với hơn 3.000 quân đã bị lùa vào
bước đường cùng, đã bị bỏ rơi một cách tàn nhẫn. Và
cuộc lui binh này nếu dựa theo trục chính là QL1 thì hẳn
sẽ tránh được những thảm họa và không có thảm họa tiếp
theo ở Đà Nẵng.
Tiểu Cần tôi ước mong được
đọc những sự thật về "Hell on Thuận An Beach" của Lâm tướng
quân (3) trước khi (tôi) nhắm mắt...!
(MX Tiểu Cần)
MX Tiểu Cần tên thật: Nguyễn
Thế Thủy. Tác giả là hạ sĩ quan truyền tin cho Thiếu tướng
tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân. (...trích lục
lại)
(1) Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Điềm bay đi Quảng Ngãi, một ngày sau đó
tử nạn máy bay.
(2)Chuẩn
tướng tư lệnh Sư đoàn 1 KQ Nguyễn Đức Khánh, vì trực
thăng hết xăng phải đáp xuống bãi cát ở Sơn Trà rồi lội
ra tàu HQ 404 cùng trung tướng Trưởng về Sài Gòn.
(3) Trung
tướng tư lệnh tiền phương QĐ1 Lâm Quang Thi.
Góp nhặt
sỏi đá
Tướng Kỳ cho đáp trực thăng
xuống Bộ tổng tham mưu, không thấy tướng lãnh nào ngoài
tướng Trưởng đang...trầm ngâm nhìn bản đồ và...hút thuốc
lá. Tướng Trưởng nhờ tướng Kỳ chở xuống Vùng 4 gặp
Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam. Tướng Kỳ bay một vòng chung
quanh thành phố Sài Gòn rồi bay thẳng ra mẫu hạm Midway sau
buổi trưa ngày 29-4.
Theo bà Nguyễn Tường Nhung, phu
nhân cố Trung tướng Ngô Quang Trưởng:
- Nhờ tướng Kỳ nhà tôi mới
đi được.
(Nguyễn Tường Tâm)
Quân sử ngoại truyện
26-4-1975, Quân đoàn 2 có mặt
trước cửa ngõ Sài Gòn ở một địa danh có tên là Rừng
Lá.
5 giờ chiều 26-4, quân đoàn
xin được nổ súng (sớm 1 ngày so với toàn mặt trận) trên
hướng đông-nam của Sài Gòn. Từ các hướng F304 đánh Nước
Trong, Long Bình, Thủ Đức... F325 tiến công Long Thành, Nhân
Trạch... F3 nổ súng ở Bà Rịa, Vũng Tàu.
Vị tướng già tóc bạc hơi
nghiêm nét mặt nói:
"Hiện nay có ý kiến sai trái
cho rằng lúc này địch đã như trái sung chín rụng, không
cần đánh cũng phải đầu hàng. Hoàn toàn sai. Sáng 30-4, chúng
còn cố thủ quyết liệt tại cầu Sài Gònvà bắn cháy của
chúng tôi 2 chiếc xe tăng... Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt
đến phút chót".
(Hồi ký "Đời chiến đấu"
– Nguyễn Công Trang)
- :
Ký hiệu phân cấp của quân đội Bắc Việt:
A: tiểu đội. B: trung đội.
C: đại đội.
D: tiểu đoàn. E: trung đoàn.
F:
sư đoàn.
Góp nhặt...ghi
chép...
Sư đoàn 3
Sao Vàng thuộc Quân đoàn 3 từ Pleiku bôn tập xuống phối
hợp với 2 trung đoàn của Sư đoàn 325 thuộc Quân đoàn 2
từ Đà Nẵng kéo xuống dọc ven biển và hợp lực đánh Phan
Rang. Xong, hợp quân này theo Quốc lộ 1 xuyên qua Phan Thiết
qua ngả Bình Tuy ngang Xuyên Mộc để đánh Biên Hòa và Sài
Gòn. Vì họ không thể đi ngõ Xuân Lộc nên họ phải đi đường
vòng về hướng đông của Sài Gòn bọc qua Vũng Tàu và Bà
Rịa.
Ngày
thứ 48 : 26-4-1975
Bà Rịa
Ngày 26-4, khoảng
6 giờ Bắc quân pháo kích kéo dài 3 tiếng vào thị xã Bà
Rịa, bộ chỉ huy tiểu khu Phước Tuy, tư dinh tỉnh trưởng,
Trung tâm huấn luyện Vạn Kiếp.
Khoảng 10 giờ
đêm, Bắc quân (1)
tấn công theo 3 mũi vào tỉnh lỵ, 2 mũi do bộ binh và thiết
giáp phối hợp đánh vào trung tâm tiếp vận tiểu khu và tư
dinh tỉnh trưởng, 1 mũi vào khu vực dọc
theo xa lộ
mới ở phía nam thị xã Bà Rịa.
Thiếu tướng
Nguyễn Duy Hinh, điều động 1 tiểu đoàn dù và đặt đơn
vị này thuộc quyền chỉ huy của tiểu khu trưởng Phước
Tuy để tổ chức các cuộc phản công đánh đuổi Băc quân
ra khỏi
trung tâm thị
xã. Tiểu đoàn dù đã bắn cháy 5 chiến xa Bắc quân ngay trong
đêm 26-4.
- :Tại
Bà Rịa, Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3/BB từ
Quảng Ngải vào đụng trận với Sư đoàn 3 Sao Vàng (1)thuộc
Quân đoàn 2 của Thượng tướng Hoàng Minh Thảo. Trung đoàn
141 của sư đoàn này và Đại đội xe tăng 4 có pháo binh yểm
hộ đã đánh chiếm thị xã Bà Rịa chiều ngày 27-4-1975.
10 ngày cuối
cùng của VNCH
Thứ Bảy 26-04-1975
Ngày 22-4-1975, Bộ chính trị
của đảng cộng sản đã quyết định chấp thuận kế hoạch
cuối cùng của cuộc tổng tấn công, và ngày 14-4-1975, "Chiến
dịch 275" được chính thức cải danh là "Chiến dịch Hồ
Chí Minh", tức là chiến dịch đánh chiếm thủ đô Sài
Gòn.
Bộ chỉ huy Chiến dịch Hồ
Chí Minh đặt ở
Lộc Ninh soạn thảo kế hoạch
đánh chiếm
Sài Gòn: Khởi sự tấn công
vào ngày 27-4.
Văn Tiến Dũng và bộ tham mưu
sau đó đã soạn thảo kế hoạch (1)
hành quân chớp nhoáng sử dụng các đơn vị chiến xa và cơ
giới tiến chiếm 5 mục tiêu trong thành phố Sài Gòn:
Dinh Độc Lập, Bộ tổng tham
mưu, Bộ tư lệnh biệt khu thủ đô, Bộ tư lệnh cảnh sát
quốc gia và phi trường Tân Sơn Nhất.
Tướng Văn Tiến Dũng trình kế
hoạch hành quân này cho 2 uỷ viên Bộ chính trị là Lê Đức
Thọ và Phạm Hùng, nhân vật số 2 và số 4 trong bộ chính
trị của đảng cộng sản. Cả hai nhân vật này chấp thuận
kế hoạch và ra lệnh các cuộc tấn công vào vùng ven biên
sẽ khởi sự vào ngày 27-4 và giai đoạn cuối cùng tấn công
vào Sài Gòn sẽ khởi sự vào ngày 29-4-1975. Trong các kế hoạch
của Bắc Việt cũng như chỉ thị của Bộ chính trị, không
hề có một điều nào, một câu nào nói đến việc"có
thể thương thuyết với chính quyền mới của Dương Văn Minh
(2)".
(Trần Đông Phong)
(1) Kế
hoạch hành quân trên đã có từ trước ở Hà Nội do tướng
Võ Nguyên Giáp soạn thảo.
Xem Thâm u bí sử ở tiết mục
Ngày
thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.
(2) Cựu
Đại tướng Cao Văn Viên sau này cho biết:
Tồng Thống Dương
Văn Minh thú nhận ông bị Cộng sản lừa. Ông khuyên những
cố vấn thân cận và con rể là Đại tá Nguyễn Hồng Đài
nên rời Việt Nam. (*** Cao Văn Viên, trang
225).
- :Sau
này ông Dương Văn Minh cũng qua Mỹ, ông sống chung với vợ
chồng con rể Nguyễn Hồng Đài ở miên nam California và mất
tại Rose Hill.
Góp nhặt...ghi
chép...
Ngày 26-4, Bắc
quân bao vây Sài Gòn bằng 5 cánh quân do 4 quân đoàn và Đoàn
232.
Đoàn 232 quân
số tương đương với một quân đoàn gồm: 3 sư đoàn bộ
binh 3, 5, 9 và Sư đoàn đặc công 27.
Tổng cộng 16 sư đoàn. Ngoài ra Bắc quân còn có vào khoảng
15 trung đoàn độc lập tương đương với 4, hoặc 5 sư đoàn,
toàn bộ chủ lực quân chính qui của Bắc quân vào khoảng
20 hoặc 21 sư đoàn bộ binh với trên 100 nghìn người chưa
kể 20 trung đoàn pháo binh, thiết giáp và phòng không, v...v...
10 ngày cuối
cùng của VNCH
Thứ Bảy 26-04-1975
Sáng ngày 26-4-1975, Văn Tiến
Dũng cùng đoàn tùy tùng của ông rời Lộc Ninh di chuyển bằng
quân xa về Bến Cát khoảng gần 50 cây số ở phía tây-bắc
Sài Gòn, tại đó ông ta thảo luận với tướng MTGPMN Trần
Văn Trà về những chuẩn bị cuối cùng cho chiến dịch Hồ
Chí Minh. Cấp chỉ huy trực tiếp của Văn Tiến Dũng là Lê
Đức Thọ và Phạm Hùng, hai ủy viên Bộ chính trị không
đi theo bộ tư lệnh tiền phương của Văn Tiến Dũng mà ở
lại Lộc Ninh để phối hợp mọi hoạt động cả chính trị
lẫn quân sự trong giai đoạn cuối của chiến dịch.
Tại trại Davis trong phi trường
Tân Sơn Nhất, tối 25-4, phái đoàn MTGPMN trong Ủy ban liên
hợp bốn bên đã nhận được mật điện của Văn Tiến Dũng
cho biết quân đội Bắc Việt sẽ khởi sự tấn công Sài
Gòn, do đó Đại tá MTGPMN Võ Đông Giang đã ra lệnh cho tất
cả các nhân viên trong phái đoàn Việt cộng phải đào hầm
để tránh pháo kích. Bức mật điện của Văn Tiến Dũng kết
thúc bằng câu "chúc các đồng
chí may mắn. Hẹn gặp các đồng chí tại Sài Gòn".
Đúng 5 giờ chiều ngày 26-4,
được lệnh của Lê Đức Thọ (1)
qua Văn Tiến Dũng (1), tướng Bắc
Việt Lê Trọng Tấn ra lệnh cho 6 sư đoàn dưới quyền chỉ
huy của ông ta tấn công vào quận Nhơn Trạch thuộc tỉnh
Biên Hoà cùng các vùng nằm về phía đông Sài Gòn.
(...)
Xuân Lộc tháng Tư
(...tiếp tục
với TĐ82 BĐQ
từ Long Khánh
về Bà Rịa)
Nhiệm vụ được phân chia rõ
ràng: Tướng tư lệnh chỉ huy toàn thể trận điạ. Đại
tá Hiếu chỉ huy, cánh quân của TĐ82 BĐQ chịu trách nhiệm
bảo vệ chuẩn tướng tư lệnh trên đường di chuyển.
Tôi cho đơn vị đi sâu vào hướng
làng xã rồi dừng quân dưới một bụi tre làng. Tôi cho các
đại đội bố quân, cắt người canh gác. Đầu dựa ba lô,
mắt tôi nhíp lại rất nhanh. Mặt trời lên cao khỏi ngọn
cây, tôi thức dậy bởi tiếng động cơ của trực thăng chỉ
huy đáp bên căn cứ hỏa lực của dù. Ba người cao lớn nhảy
xuống, chiếc tàu bay bay đi. Không rõ những người vừa xuống
máy bay là ai, chỉ thấy sau khi trao đổi vài lời gì đó với
những pháo thủ dù, họ quay sang tiến về phía TĐ82 BĐQ. Khi
họ đến gần thì tôi nhận ra Trung tướng Nguyễn Văn Toàn,
tư lệnh Quân đoàn III. Tôi ra lệnh cho tiểu đoàn tập họp
năm đại đội dàn chào. Sau khi bắt tay tôi, tướng Toàn đi
một vòng, bắt tay từng người lính trong hàng. Rồi ông quay
qua tôi nhỏ giọng,
- Thôi cho anh em giải tán đi
Long, ở đây sát căn cứ Mây Tào, tụi nó pháo bất cứ lúc
nào.
Trưa hôm đó tôi vào gặp chuẩn
tướng Đảo trong hội đồng xã Bình Ba, ông cho biết Lữ
đoàn 1 Dù đã thành công diệt xong những con chốt chặn và
đang trên đường tập trung vùng bắc xã Bình Ba. Tôi mượn
xe và tài xế của chuẩn tướng Đảo để ra Bà Rịa, vào
trung tâm tiếp cư, dò tên gia đình vợ con tôi trên danh sách
nạn nhân chiến cuộc, nhưng không thấy tin tức gì cả.
Khi tôi về lại hội đồng xã
Bình Ba thì đại tá Hiếu cho tôi biết địch đã bôn tập
truy kích đúng như dự đoán của tôi. Chúng chặn đánh quân
bạn ngay tại ngã ba Xà Bang, Đại tá BĐQ Phạm Văn Phúc (K10
VB) tỉnh trưởng Long Khánh bị địch bắt ở địa điểm
này.
Ngày hôm đó Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu từ chức trao quyền lại cho cụ Trần Văn Hương.
Tiểu đoàn tôi rút vào nhà dân ngủ qua đêm. Đó là ngày
21-4-1975.
(Vương Mộng Long)
Góp nhặt
sỏi đá
Chuẩn tướng Lê Minh Đảo được
giao nhiệm vụ trấn giữ Xuân Lộc, với hy vọng có thể chặn
được đà tiến quân như vũ bão của quân đội Bắc Việt.
Ở Xuân Lộc, tướng Đảo có 12.000 quân chọi lại 40.000 quân
của tướng Hoàng Cầm. Cũng may cho tướng Đảo, tướng Hoàng
Cầm của Hà Nội là một vị tướng xoàng, nên ông
Đảo có thể đối phó không khó lắm.
Dựa theo nhận xét của Hà Nội
về tướng Hoàng Cầm:
(...) Nếu Hà Nội cứ tiếp tục
để ông tướng xoàng Hoàng Cầm chỉ huy trận Xuân Lộc, thì
có lẽ toàn bộ Quân đoàn 4 của ta bị cầm chân ở Xuân
Lộc, thì có lẽ cục diện chiến tranh cũng sẽ có sự thay
đổi lớn. (...) - (...trích lục lại: Chiến
tranh Việt Nam toàn tập).
Lạc đạn
Nhưng "bếp Hoàng Cầm" thì
không...xòang! Năm 1951-1952 khi trận Điện Biên Phủ đang tiếp
diễn, có anh "bộ đội" ở Sư đoàn 308 sáng tạo ra bếp không
có khói. Chuyện là bộ đội phải đào hầm trú ẩn, công
sự chiến đấu, trong hầm phải nấu nướng nếu có khói
thì lộ mục tiêu. Vì vậy trên bếp, anh bộ đội phủ cành
cây trải một lớp đất mỏng rồi tưới nước để giảm
độ khói của bếp nấu nướng. Khói len lỏi qua các rãnh
cây ẩm ướt chỉ là một dải nước tan nhanh khi rời mặt
đất. Vì bộ đội là "anh nuôi" tên Hoàng Cầm nên được
gọi là...bếp Hoàng Cầm.
Còn "anh nuôi Hoàng Cầm" 1951-1952
có phải là tướng Hòang Cầm 1975 chăng thì không thấy....quân
sử ngoại truyện nói tới?! Nhưng chỉ biết rằng với chuyện
bếp núc, "bộ đội" học theo Hồng quân Trung Hoa thì tiểu
táo: 1 hay 2 người ăn và đại táo: ăn tập thể.
Xuân Lộc tháng Tư
Tháng 3-1979 tôi được đưa từ
trại cải tạo Phú Sơn 4, Thái Nguyên về trại Nam Hà A, Phủ
Lý. Tôi là thành phần của toán bốn mươi người có tiền
tích trốn trại, nên bị giải về đây với cái còng trên
tay. Khi chúng tôi nhập trại, anh em tù cải tạo chào đón
những kẻ mang còng, bằng những đợt vỗ tay hoan hô tưng
bừng.
Hôm sau có người nhắn với
tôi rằng chủ nhật tới Thiếu tướng Lê Minh Đảo chờ mời
tôi ăn cơm ở buồng số 1. Trưa chủ nhật đó tôi tới buồng
1 gặp người chỉ huy cũ, ông ở đội lao động cùng tướng
Sang, tư lệnh Sư đoàn 6 KQ, và đại tá Phúc, tỉnh trưởng
Long Khánh.
Thời gian qua đã mấy năm không
gặp, tôi rất vui khi bắt tay tư lệnh.
(...)
Tàn cuộc binh đao
Đa số các tướng lãnh VNCH bị
giam giữ ở trại Hà Tây (Hà Nội-Sơn Tây), cách Hà Nội 25
km về phía tây, Sau các tướng Nguyễn Hữu Có, Lê Minh Đảo,
Lý Tòng Bá và Phạm Ngọc Sang được chuyển về trại Nam
Hà (Nam Định-Hà Nam) nằm về phía tây Phủ Lý 30 km.
&&&
30 tháng 4 ! Ký ức của
một người chưa cầm súng
Từ ngày mấy
ngày nay, lính nhảy dù đã có mặt nhiều trên các tuyến đường
vùng Hố Nai, Biên Hòa. Vùng đất mấy tháng trước chỉ có
mặt các đơn vị biệt động quân và Sư đoàn 18. Hai ngôi
làng quê tôi vốn là hai giáo xứ Công giáo. Giáo xứ Lộ Ðức,
qui tụ đa số là dân công giáo di cư gốc gác từ tỉnh Hòa
Bình, Bắc Phần. Giáo xứ Ðông Hải, tên làng từ thủa xa
xưa còn giữ lại vốn là một ngôi làng từ tình Bắc Ninh,
Kiến An, Hải Phòng và Kẻ Sặt, Hải Dương.
Chiến cuộc
đã ập đến sát với chúng tôi. Ngoài Quốc lộ 1, đoạn
cây số 9 tính từ thị xã Biên Hòa ra hướng bắc, từ chiến
khu D đã có đạn pháo cối ùng ục dội vào phi trường Biên
Hòa, đường đạn bay qua làng tôi những buổi mờ sáng khét
lẹt. Loại đạn cối này cho chúng tôi hiểu là thế thượng
phong của lính chính qui miền Bắc đã hiện lên rõ rệt. Vì
thông thường từ mấy năm nay, pháo kích từ chiến khu D rót
vào phi trường Biên Hòa bằng hỏa tiễn, loại pháo giàn,
phóng hàng loạt vài chục quả hỏa tiễn trong chỉ phút đồng
hồ. Sau đó là trực thăng từ phi trường Biên Hòa lên quần
thảo nhưng đương nhiên là không còn dấu tích gì nơi vách
rừng chiến khu D, cách làng tôi chừng 4, 5 km. Nghe tiếng pháo
cối dội vào làng, nhìn hàng đoàn lính rằn ri màu xanh đóng
các chốt quanh làng, Thầy tôi nói với cả nhà:
– Thu gom gọn
nhẹ những thứ cần thiết để chạy loạn.
U tôi hỏi
lại.
– Giờ chạy
đi đâu bây giờ? Ðây chỉ cách Sài Gòn có hai giờ xe máy.
Sau Sài Gòn là bể rồi, đi làm sao được?
– Cứ thu
xếp để đi. Ðến đâu biết đến đấy. Ra bể cũng đi ...
Thầy tôi vừa
nói vừa lẩm nhẩm đọc kinh. Tôi dáo dác nhìn mẹ. U tôi
lật đật thu gom mớ quần áo. Bà lọng cọng nhấc cái này
bỏ cái kia, cuối cùng cũng xong ba cái bao vải lính của quân
đội Pháp mà thầy tôi còn giữ lại từ 1954.
Có tin lính
chính quy Bắc Việt làm chủ tính từ bên này sông Sài Gòn,
tức cầu Sài Gòn sẽ là điểm phân ranh. Thầy tôi bảo chị
tôi thuê một xe tải để chở hết thóc gạo chạy loạn.
Thuê xe tải lúc này là điều vạn nan nhưng chị tôi có quen
biết một gia đình có xe tải và cũng cần chạy loạn vào
Sài Gòn nên ý định của thầy tôi đã được thực hiện
ngay. Chiều 27, các dàn pháo hỏa tiễn và pháo cối của lính
chính qui Bắc Việt nã đạn vào phi trường Biên Hòa cực
kỳ ác liệt. Làng tôi mịt mù khói pháo của hai phía bắn
qua bắn lại. Trực thăng đã có vẻ rất e dè, bay thường
là hai ba chiếc cặp kè nhưng không còn chúi sát xuống rừng
nữa. Mẹ tôi cùng xe thóc lúa đã ra ngoài quốc lộ, đậu
gần nhà thờ Kẻ Sặt đoạn cây số 7 Quốc lộ 1. Hàng xóm
đã di tản hết. Thầy tôi quyết định ở lại cố thủ sau
khi linh mục Nhật đi một vòng làng tới nhà tôi.
– Ði đâu
bây giờ! Phải giữ làng chứ. Còn đi đâu được nữa mà
đi.
– Thế thì
con cũng ở lại.
– Ừ, cha
cũng ở lại đây. Ðào xong "tăng-xê" rồi.
Thế là thầy
tôi quyết định không đi. Tôi vơ nhanh cái xẻng chạy ra hiên
nhà đào cái hố cá nhân hình chữ L, ba con chó lăng xăng cào
cào bơí bới khi thấy tôi đào cật lực. Thầy tôi đào một
hầm phía sau nhà, có chận nắp bằng những bao cát và gỗ
vuông chắc chắn. Hố đào sắp xong thì một ông lính đến
bên cạnh sân nhà tôi, hỏi vọng vào.
– Bộ muốn
tử thủ hả?
Tôi đáp "Dạ",
vừa đáp vừa lúi húi đào. Người hạ sĩ quan này thường
ngồi trước sân nhà tôi mỗi tối vừa đàn vừa hát. Ông
hỏi thêm khi thấy thái độ của tôi là thái độ muốn "chơi
tớí cùng".
– Súng ống
gì không thằng em?
– Dạ, "Cặc–bin".
Ông ta phá
ra cười ngặt nghẽo rồi hỏi.
– Biết chơi
M16 không?
– Dạ biết.
– Vậy để
lát tụi anh đưa cho, còn ba cây,...cặc bin chơi sao nổi.
Ðúng lúc ấy,
trên đường có bốn năm người lính nhảy dù thúc súng đẩy
một bóng người đàn ông bước sâm sấp trên đường cái
dẫn về phía cuối làng. Tôi chợt dưng sởn tóc gáy. Năm
Trình! Ông Năm Trình tay bị trói giật khuỷu, chiếc áo đen
đẫm máu. Chắc chắn kiểu này là ông Năm sẽ bị bắn! Tôi
bỏ xẻng bỏ cuốc, lặng lẽ bước theo sau bốn năm người
lính và ông Năm Trình. Ông bước thấp bước cao đi theo hướng
mũi súng của mấy người quân nhân mặc đồ rằn ri. Khoảng
chừng 500 mét tính từ cổng cuối làng, những người lính
nhảy dù nơí dây trói rồi bảo ông Năm Trình tự bắn mình
sau khi đưa cho ông khẩu súng M16 chỉ có một viên đạn. Ông
lắc đầu, quỳ hai gối xuống bờ ruộng. Hoàn toàn không
thấy ông nói một lời nào, mắt nhìn về hướng ngọn núi
Chùa phía gần bờ sông Trị An. Mấy ngưới lính lùi lại
cách ông chừng 5 mét. Hai ngươì cầm súng cúi gập mình như
chào ông Năm Trình. Khi hai cái đầu hất thẳng lên là đồng
thời với một tiếng nổ chát chúa. Thân thể ông Năm giật
lên rồi té sấp. Hai người lính cúi mình một lần nữa rồi
quay lui, không xem xét xem ông Năm đã chết hẳn hay chưa.
Thấy tôi còn
đứng lần khân gần đó, một ngườì bảo.
– Về thôi
thằng em. Nó pháo bá thở bây giờ!
Tôi tần ngần,
rất muốn đến xem ông Năm đã chết thật chưa. Cái dáng
té sấp mặt của ông xuống mặt ruộng làm tôi xao xuyến
lạ lùng. Bỗng tiếng quát sau như dựng cả hồn vía tôi dậy.
– Nằm xuống!
Thằng nhóc!
Tôi còn đang
quờ quạng thì một bóng người nhào đến tôi, một tay ôm
ngang lưng vật tôi xuống bờ ruộng, đúng lúc hàng ngàn tiếng
rít đinh tai nhức óc xẹt ngang qua đầu. Chưa bao giờ tôi
ngửi thấy mùi thuốc đạn gần và nhiều đến như vậy!
Một dàn pháo hỏa tiễn vừa bắn đi sát ngay phía đồi chuối
bên bìa làng, tầm đạn bay qua đầu chúng tôi nhắm lên đồi
Pháo Binh. Ðường đạn đi vun vút muốn rách màng tang. Người
lính vật tôi xuống chính là người hạ sĩ quan ban nãy bảo
đưa cho tôi cây M16. Dưới làn khói pháo mù đặc, ông túm
áo tôi kéo chạy về đầu làng, vừa chạy vừa gào bên tai
tôi.
– Coi chi ba
chuyện giết người vậy thằng em!
– Em biết
ông ấy!
– Quên đi!
Chiến tranh là vậy! Sống nay chết mai. Ta không giết người
thì người giết ta!
– Mà sao bắn
ông ấy. Sao không nhốt lại?
– Giờ này,
đến tụi mình còn không biết sống hay chết đêm nay, nói
chi đến ổng. Số chả phải chết trước thôi ...
Tôi và người
lính dù về đến nhà, ông bỏ đi về phía nhà thờ, nơi đặt
bộ chỉ huy tiền phương của lính dù. Trên gờ hố cá nhân
một cây M16 bốn băng đạn, ba trái lựu đạn mini móc ở
một dây ba chạc. Tôi ráp đạn kéo chốt cho bật ra ba bốn
viên rồi lại tháo băng xếp lại đạn, cài chốt an toàn,
ngồi vật ra, đầu đầy ắp hình ảnh ông Năm Trình với
khuôn mặt úp sấp lên mặt ruộng. Mặt ruộng tháng tư khô
nứt nẻ!
Ông bị bắt
đâu hồi 11 giờ trưa. Hai cái làng này, ai cũng biết là ông
hoạt động cho Mặt trận giải phóng miền Nam, nôm na gọi
là Việt Cộng nằm vùng. Ông không tỏ ra ác ôn bao giờ. Ông
dữ hay ông hiền, chẳng ai biết được vì ông không sống
trong làng. Ông cất một cái chòi sát chân núi, nơi được
coi là cửa ngõ để giao liên với trong bưng, lâu lâu đi vào
làng mua dăm thứ lặt vặt hoặc đi qua làng ra vùng Hố Nai.
Trưa nay, từ vọng canh rất cao, những người lính địa phương
quân đã nghi ngờ khi ông từ lối núi Chùa đi thẳng vào đường
làng. Những bước đi mang nhiều sự tần ngần. Từ rừng
đi vào làng rồi đi qua khu trung tâm bộ chỉ huy tiểu đoàn
tiền phương của sư đoàn dù, hướng ra Quốc lộ 1. Có lẽ
người ta sẽ để cho ông đi ra phía quốc lộ nếu như ông
giữ con đường bình thường ấy. Ðàng này ông lại quay trở
lại bằng một ngõ xóm khác, sau khi đi qua bộ chỉ huy tiểu
đoàn chừng 300 mét. Ông bị bắt. Bộ chỉ huy tiểu đoàn
dù gọi trưởng ấp tên là Thái. Ngoài việc hỏi ông Thái,
bên bộ chỉ huy tiểu đoàn còn hỏi bốn năm người khác.
Ai cũng nói là ông Năm Trình từng được biết là một cán
binh Vệt Cộng nằm vùng. Với kinh nghiệm trận mạc, bên bộ
chỉ huy kết luận dứt khoát ông Năm Trình là một "đề–lô"
chấm tọa độ cho đơn vị pháo! Thời cuộc đang nóng lên
từng phút! Mặt trận Xuân Lộc thất thủ, Biên Hòa Sài Gòn
nghìn cân treo sợi tóc! Số ông Năm Trình rơi vào tuyệt lộ
ngay khi ngày chiến thắng của những người bên phía ông chỉ
còn hơn 48 giờ đồng hồ!!!
***
Tiếng xe Honda
cua rất gấp từ mặt đường quặt vào trong sân xi măng. Mùi
khét của cao su từ lốp xe bốc lên hòa với khói pháo thật
khó chịu. Ðó là xe của anh tôi. Tôi chưa thấy ông chạy
như thế này bao giờ. Vừa chống càng xe anh tôi quát ngay.
– Thầy đâu?
– Thầy ở
sau nhà – Tôi luống cuống.
– Sau nhà
làm gì?
– Ðào hầm!
– Ðào cái
con khỉ gì mà đào!
Quay nhìn tôi,
nhìn mớ súng đạn lỉnh kỉnh. Ông gắt.
– Ðồ dở
hơi! Mặc ngay quần áo vào. Ði!
Bố tôi rất
nể anh tôi, nên đang lấm lem, anh tôi nói tắm rửa để chạy
là bố tôi kéo nước giếng tắm ngay. Chừng chưa đến 5 phút,
ba cha con tôi đã trên chiếc xe Honda 67. Anh tôi mặc đồ bay,
mũ ca-nô nghiêm chỉnh, cũng là lần đầu tiên ông đeo súng
tòn ten bên hông.
Chiếc Honda
nhấc đầu phóng đi với ba con chó chạy theo sau.
Bàu trời kĩu
kịt khói pháo. Ðàng sau là những những người lính dù đang
tất bật với những hố công sự chiến đấu. Ðâu đó, những
bàn tay giơ lên đầu, có lẽ để chào anh tôi, người phi
công lạc lõng nơi chiến địa trong những giờ phút dầu sôi
lửa bỏng gần như cuối cùng của một trận chiến đang ở
những phút khởi đầu tràn ngập sát khí.
***
Quốc lộ 1
cơ man nào là người! Ðủ mọi thứ xe. Từ máy cày máy kéo
bám đầy bụi đất đỏ của vùng Gia Kiệm, Long Khánh đến
xe lam xa ba gác! Từ người đi bộ đến người thồ xe đạp.
Từ những khuôn mặt cháy nắng đến những đôi môi nứt
nẻ. Tất cả đều xốc xếch! Tất cả đều thảm thương!
Tất cả như một đoàn người ma đi tìm thiên đường nơi
xa lắc! Tuyệt không một tiếng cười trong đoàn người mênh
mông ấy.
Anh tôi lạng
lách, lúc đâm ngang, lúc xiên dọc, lúc leo bờ lúc thúc xe.
Tôi nhìn đoàn người chung quanh, chỉ sợ những con chó của
tôi bị thất lạc. Nhưng không. Có lẽ chúng cũng đã bị
cộng hưởng với hoàn cảnh hoang mang cực độ của hàng trăm
con người đang trong giờ cùng quẫn bi thảm. Chúng bám sát
bên hông xe, miệng thè lưỡi nhọc mệt vừa chạy vừa nhìn
bố con tôi. Ánh mắt chúng như nói lên sự van xin đừng bỏ
chúng, lại như khuyến khích bố con tôi đừng sợ hãi. Thấy
tôi có vẻ nhì nhằng với mấy con chó, anh tôi bắt đầu
bực.
– Mày làm
ơn ngồi cho ngay ngắn. Chó nó tự biết theo.
Tôi ngồi trên
bình xăng vì Thầy tôi ôm nguyên một cái túi lính Tây chứa
toàn những ảnh tượng chúa. Tôi biết anh tôi rất khó lái
vì tôi 15 tuổi nhưng là dạng cao lớn hơn bình thường, ngồi
lại quay trước quay sau vơi mấy con chó nên ông quạu cũng
là phải. Dù bị ông quát nhưng lòng tôi rất biết ơn ông,
vì ông biết tôi rất thương chó nên lúc bắt đầu rời nhà,
tôi gọi chó theo mà ông không nói gì. Ông biết tôi rất khó
thể xa chúng ...
Chỉ có 2 km
quốc lộ từ nhà thờ giáo xứ Hòa Bình đến nhà thờ giáo
xứ Hà Nội mà bố con tôi vật lộn hơn tiếng đồng hồ
với rất nhiều lần phải đâm vào những đường ngang ngõ
tắt. Ðến nhà thờ Ðại Lộ là leo lên xe tải đã thuê khởi
hành nhằm vượt cầu Sài Gòn ngay.
Trên xe, ba
con chó và tôi nằm gọn ngay góc cửa đóng phía cuối xe.
Anh tôi rồ
máy chiếc Honda 67 phóng ngược về phía phi trường Biên Hòa.
Dáng áo bay nổi bật lên trong dòng người hỗn độn. Nhìn
theo anh, tôi không cầm được nước mắt. Ra là anh đã rời
phi trường cấp tốc, áo bay, súng ống còn vắt cả trên người
khi nghe bảo rằng bố con tôi tử thủ nơi căn nhà đầy kỷ
niệm. Anh tôi vượt ngược dòng người đang như thác lũ,
phóng xe vào vùng đất đã báo động chiến sự sắp xảy
ra trong gang tấc giữa bầu trời mịt mù khói pháo ven rừng
chiến khu D. Giờ này anh lại phóng đi với những chuyến bay
bất định, chơi vơi lời ca của đời phi công ra đi không
tìm xác rơi.
Cực kỳ vất
vả chiếc xe tải mới bò đến được cầu Sài Gòn. Xe nhích
từng bước một. Lính trên cầu đủ mọi thứ binh chủng.
Không khí sắt máu sát rạt. Anh rể tôi mặc quân phục với
giấy chứng thực đặc biệt của Căn cứ Long Bình, xin đường
để qua cầu. Một người lính mặc đồ đen đeo khẩu súng
rất lạ yêu cầu mở cửa xe tải. Cửa mở, tôi và ba con
chó ôm nhau sát ngay cửa, bên cạnh là u tôi và chị tôi. Người
lính nhìn vào khoang xe rồi nhìn tôi, cuối cùng là nhìn ba
con chó. Ông lấy tay cầm lấy tai của con chó bé nhất. Con
chó không hề sợ cũng không hề làm dữ, ngẩng mặt lên liếm
láp bàn tay xương xẩu đen đủi đầy mồ hôi của người
lính đặc biệt này. Tôi im lặng không nói gì, phó mặc số
phận đưa đẩy theo gia đình. Bỗng một loạt đạn bắn chiu
chíu từ phía mặt sông thốc lên vọt qua sát mí nóc xe. Người
lính lạ nhảy xuống hô kéo bửng cửa rồi chạy trước xe
nhà tôi, tay vẫy vẫy cho xe vượt lên trước hàng trăm xe
khác.
Xe nhà tôi
qua cầu Sài Gòn. Cầu Sài Gòn như một nút thắt cổ chai kinh
khủng, chỉ cần qua hết cầu là có thể dễ dàng đi lại.
Xe chúng tôi nhắm về phía Hóc Môn, Trung Lương.
Sáng 28-4 (1975)
gia đình tôi vào tới sát căn cứ Trung tâm huấn luyện Quang
Trung, tá túc tại một xứ đạo qui tụ rất nhiều người
cộng giáo gốc Kiến An, Hải Phòng. Xứ đạo có tên Chợ
Cầu. Tôi sống quen với không gian rộng từ ngày bé tí nên
không thể nào chợp mắt được trong hoàn cảnh này. Ba con
chó từng bước không rời cậu chủ nhỏ. Ðời sống tỵ
nạn chiến tranh đây là lần đầu tôi phải chịu đựng.
Tuổi 15 nội tâm sớm, vơí tôi, đây là cú sốc rất nặng.
Ngay đêm đầu tiên, tôi khóc thầm và trách sao mình đã bỏ
nhà, bỏ làng mà đi.
Ðêm 29. Các
đơn vị tăng của lính chính qui Bắc Việt tiến vào Sài Gòn
ngang qua căn cứ huấn luyện. Cơ man nào là các lằn đạn
bắn ra từ trung tâm huấn luyện, đặc biệt là M72, một lọai
hỏa tiễn cầm tay chống tăng. Rất nhiều phát đạn bắn
hụt xe tăng và bay sát các nóc nhà ở xứ đạo này. Tôi vốn
đã quen với pháo kích từ ngày nhỏ nên không cảm thấy nao
núng, nhưng những người chung quanh thì mặt cắt không còn
giọt máu.
30. 4. Ông Dương
Văn Minh tuyên bố đầu hàng. Người hàng xóm mở radio khá
lớn và ra bờ giếng sau nhà ngồi một mình. Tôi từ trong
khoảng tối của căn buồng hẹp chăm chú quan sát ông. Mấy
hôm nay tôi không thấy ông này, tuổi khoảng 60 mặt rắn rỏi
tóc húi cua. Ông ngồi bên gờ bờ giếng, mặt cúi xuống,
hai vai gồ cao. Tôi thấy vai ông rung lên. Tôi thật sự cô
độc.
Chiều 30-4.
Tôi đi một mình ra doanh trại Trung tâm huấn luyện Quang Trung.
Trên đường vài ba chiếc tăng T54 cháy rụi nằm bổ ngửa.
La liệt quần áo lính vứt ngổn ngang. Tôi đến sát cổng
quân trường, mấy người bộ đội áo quần xanh lụng thụng
dép râu, mình còn cài lá ngụy trang, răng mặt vàng lườm...
bắt tôi đứng lại, không được đến sát cổng vì đoàn
phim đang quay. Tôi nhìn theo hướng tay chỉ và thấy một đoàn
khóa sinh tân binh từ trong trung tâm đi ra. Tất cả đều phải
đứng lại trước các máy quay phim, khi được lệnh từ phía
sau máy thì từng người cúi xuống lột hết giày và quần
áo lính, chỉ mặc độc mỗi quần lót. Những đoàn lính bộ
đội đứng cười cợt khoái chí, một số ít thay vì cười
cợt sảng khoái thì quay sang nói chuyện với những người
dân hai bên đường. Có những câu hỏi và trả lời khắc
mãi trong lòng tôi mà sau này nhiều người lấy đó làm giai
thoại.
Với tôi, ngay
lúc bấy giờ, tôi không thể cười được. Có cô hỏi:
– Sao anh trẻ
thế?
– Trẻ gì
nữa. Mười sáu mà còn trẻ.
Cô đang cầm
que kem, hỏi anh bộ đội:
– Anh thích
ăn cà-rem không?
– Không?
– Thế Hà
Nội có cà-rem không?
– Có. Khối
gì. Còn phơi để dành nữa.
– Hà Nội
có Ti-vi không?
– Khối gì.
Tivi chạy đầy đường.
(Phạm Văn
Thành)
- : Tác
giả Phạm Văn Thành không ở Hố Nai nữa mà đang ở...Paris.
Một cơn gió bụi
Thiếu tướng Đoàn Văn Quảng,
chỉ huy trưởng trung tâm huấn luyện Quang Trung chết trong
tù ở trại khổ sai Nam Hà ngày 6-3-1984.
Ngày
thứ 49 : 27-4-1975
Tân Cảng
– Sài Gòn
Ngày 27-4, Sài
Gòn sôi động khi Bắc quân bắt đầu pháo kích vào vòng đai
phi trường Tân Sơn Nhất, tiếp đó một đơn vị đặc công
tấn công cầu xa lộ Tân Cảng và cầu xa lộ Biên Hòa. Lực
lượng Biệt khu thủ đô đã được điều động khẩn cấp
để giải tỏa áp lực địch.
Đến chiều
ngày 27-4, Bắc quân phải rút lui sau khi bị tổn thất nặng.
(SQTB K10B/72)
- :Ngày
27-4 là ngày Bắc quân dự định 5 quân đoàn tấn công
cùng một lúc và dự trù đánh chiếm Sài Gòn ngày 29-4-1975.
10 ngày cuối
cùng của VNCH
Chủ Nhật 27-04-1975
Rạng sáng ngày chủ nhật 27-4,
vào lúc 3 giờ rưỡi, Bắc Việt pháo kích 5 trái hỏa tiễn
vào Sài Gòn gây cho 6 người chết và 22 người bị thương,
tuy nhiên tình hình vẫn yên tĩnh, không có vẻ gì là rối
loạn. Theo ông Trần Văn Đôn thì vào lúc 3 giờ chiều, đại
sứ Mérillon đã gọi điện thoại cho ông và báo tin cho biết
rằng nếu đến 6 giờ chiều hôm đó mà chưa có gì thay đổi
thì quân cộng sản sẽ pháo kích vào Sài Gòn bằng đại bác
130 ly.
Theo Jean Lartéguy trong cuốn L’Adieu
à Saigon thì sau ngày 30-4, một sĩ quan Bắc Việt đã tiết
lộ với ông Vũ Văn Mẫu rằng các đơn vị họ được lệnh
bắt đầu pháo kích vào Sài Gòn bắt đầu vào lúc 11 giờ
tối 30-4 nếu Sài Gòn tiếp tục chống cự và họ dự tính
rằng họ sẽ chiếm Sài Gòn vào ngày 7-5 tức là ngày kỷ
niệm chiến thắng Điện Biên Phủ của họ 21 năm về trước.
Theo Frank Snepp vào ngày hôm đó,
có nhiều phe nhóm đã chống lại việc Tổng thống Trần Văn
Hương không chịu giao quyền cho Dương Văn Minh. Người đầu
tiên là Thương tọa Thích Trí Quang, kế tiếp là cựu Phó
tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, Linh mục Trần Hữu Thanh. Cựu
phó tổng thống Kỳ lên án những kẻ hèn nhát đã bỏ nước
di tản theo người Mỹ và hô hào tử thủ bảo vệ Sài Gòn.
Ông nói rằng ông cũng sẽ ở lại để chiến đấu
chứ không đi đâu cả, không di tản ra ngoại quốc vì ở
bên đó làm gì có rau muống, mắm tôm mà ăn?
8 giờ 45 tối ngày 27-4, dân biểu
và nghị sĩ bỏ phiếu thuận Tổng thống Trần Văn Hương
trao quyền cho ông Minh để ông ta có thể tìm kiếm một con
đuờng vãn hồi hòa bình cho Việt Nam?
(Trần Đông Phong)
- : Theo
Frank Snepp, đại sứ Martin chỉ thị cho Polgar, trùm CIA Sài
Gòn, đi đón những nhân vật thân cận và trung thành với
ông Thiệu đưa lên phi trường Tân Sơn Nhất rồi họ được
một chuyến bay đặc biệt đưa sang căn cứ không quân Clark
tại Phi Luật Tân. Trong số những hành khách trên chuyến bay
này có cựu Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn, cựu Tổng trưởng
Hoàng Đức Nhã và cựu Thiếu tướng tư lệnh cảnh sát Nguyễn
Khắc Bình. (*** Frank Snepp, Sđd, trang 448)
Những ngày cuối cùng
của Sài Gòn
Ngày 21-4, Xuân
Lộc thất thủ, pháo đài cuối cùng chận đường tiến quân
vào thủ đô của các sư đoàn Bắc Việt từ phía đông. Tiếng
"womp-womp-womp" của pháo binh, như Michael Herr sau này sẽ chuyển
tải lại tiếng động đặc biệt đó một cách thơ mộng-to
tiếng trong Dispatches, đã có thể nghe được suốt ngày
đêm. Nhưng tiếng "dit-dit-dit" của súng cá nhân, ngoại trừ
vài ngày trong lần tấn công vào dịp Tết (Mậu Thân) 1968,
đã dung tha cho người dân của Sài Gòn. Cho tới bây giờ,
người Sài Gòn đã sống qua được chiến tranh, cái mà bây
giờ có nguy cơ bị cuộc chiến phá hủy. Về quân sự thì
cuộc chiến đã ngã ngũ. Sau khi chiến dịch tấn công mùa
xuân bắt đầu trên vùng núi, sau khi mất Ban Mê Thuột và
Kontum, tổng thống Thiệu và bộ tham mưu của ông đã hạ
lệnh rút lui, điều đã dẫn tới bỏ chạy và hỗn loạn.
Chỉ còn những
phần nhỏ của một quân đội được trang bị hiện đại
gồm hơn nửa triệu người là còn muốn đứng ra chiến đấu.
Lần di tản hỗn loạn ra khỏi vùng đồi núi chỉ thể hiện
rõ cuộc khủng hoảng trong nội bộ của quân đội Sài Gòn.
Tinh thần chiến đấu của quân lính đã gãy gục trong những
tháng trước đó. Người Mỹ vẫn còn chưa tỏ dấu hiệu,
rằng họ đã sẵn sàng cho một cuộc di tản đông người.
Phần lớn người dân trong phần còn lại của miền Nam Việt
Nam, cái bây giờ chỉ còn bao gồm những vùng đất hẹp quanh
Sài Gòn và các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long,
hy vọng vào một điều kỳ diệu: Hy vọng vào một tín hiệu
đầy bí mật, cái có thể sẽ làm câm lặng pháo binh Bắc
Viêt đã vào vị trí có thể bắn tới Sài Gòn từ lâu, và
dừng xe tăng lại, để trao tiếng nói cuối cùng cho các chính
trị gia và nhà ngoại giao. Rằng Phnom Penh đã bị Khmer đỏ
chiếm trước đây vài ngày, rằng chiến tranh đã tới gần
cho tới mức có thể cảm nhận được, những việc đó đã
không thể bóp nghẹt niềm hy vọng đang nhú mầm. Nỗi lo sợ
trước trận đánh cuối cùng đã để cho ảo tưởng nở hoa.
Kết cuộc
của Sài Gòn là một chiến thắng của ảo tưởng.
Đội ngũ các
nhà báo, những người bây giờ có thể thực hiện các chuyến
đi ra chiến trường thật thuận tiện vào ban ngày, vì chiến
tranh đã tiến gần tới mức có thể nghe được, được người
Mỹ mời tới dự một cuộc họp trên quán rượu ở sân thượng
của khách sạn cao tầng Caravelle. Thay cho các thông tin về
chính trị và diễn tiến cuộc chiến là những chỉ thị "mật"
cho trường hợp khẩn cấp, cho lần di tản bằng trực thăng.
Có một chỗ tập trung được quy định trước cho các nhà
báo, ở gần văn phòng UPI, gần cảng sông, có thể nhanh chóng
tới đó được từ các khách sạn lớn Caravelle, Continental
và Majestic. Tín hiệu, các nhà báo được thông báo, sẽ được
phát qua radio vào ngày X. Trong trường hợp khẩn cấp, đài
phát thanh của quân đội Mỹ, phát tin tức "every hour on the
hour", sẽ thêm vào câu: "The temperature is 105 degrees and rising",
tiếp theo sau đó là bài "I am dreaming of a white Christmas" của
Bing Crosby. Người ta sẽ chờ nhà báo tại địa điểm tập
trung với nhiều nhất là một món hành lý.
Chính sếp
CIA ở Sài Gòn đã tự mình bắt liên lạc với các sĩ quan
Hungary. Thomas Polgar xuất thân từ một gia đình Hungary đã
di cư sang Mỹ. Từ người đồng hương, người ta tin cậy
thông báo rằng Hà Nội quan tâm tới một "Giải pháp Lào",
để tránh một trận chiến trên đường phố ở Sài Gòn.
"Giải pháp Lào", đó là: Một chính phủ trung lập, bao gồm
các nhân vật của "lực lượng thứ ba", phe đối lập
yếu ớt và bị coi thường cả một thời gian dài ở Sài
Gòn, và tất nhiên là với sự hỗ trợ về ngoại giao của
Liên bang Xô viết, Pháp và Liên hiệp Anh.
Nguồn thứ
hai, dường như xác nhận các thông tin của CIA, bắt nguồn
từ sứ quán Pháp mà trong đó Jean-Marie Merillon, trong tinh thần
của de Gaulle, đã tự mình tin rằng "Grande Nation" thêm lần
nữa sẽ nhận được một vai trò lịch sử trong khoảnh khắc
chiến bại của Mỹ. Merillon thông báo cho đại sứ quán Mỹ
và một nhóm nhỏ các nhà báo, mà tiêu chuẩn của họ là
có khả năng sử dụng tiếng Pháp một cách thanh lịch, rằng
Bắc
Việt thông qua tiếp xúc với người Pháp đã đưa ra "Giải
pháp Lào": tước quyền "bè lũ Thiệu", thành lập một
chính quyền trung lập, muốn hòa bình, dưới quyền "Big
Minh" và ngưng chiến trước cửa ngõ Sài Gòn, để tạo cơ
hội cho một hội nghị bốn bên bàn thảo một trật tự chính
trị mới ở Nam Việt Nam.
Vòng vây bao
quanh Sài Gòn càng siết chặt lại bao nhiêu thì các cố gắng
đàm phán ngừng bắn của các chính trị gia và nhà ngoại
giao càng tuyệt vọng bấy nhiêu. Vào ngày 26-4, buổi chiều
lúc ba giờ, Thiệu rời Sài Gòn tới Đài Loan. Đài phát thanh
của Mặt trận giải phóng từ chối lời đề nghị ngừng
bắn của Phó Tổng thống Trần Văn Hương. Hương đại diện
cho một "chế độ Thiệu không có Thiệu". Vào ngày 26-4, thứ
bảy, vào cái ngày mà Thiệu rời bỏ đất nước, quốc hội
đã họp biểu quyết yêu cầu Tổng thống Trần Văn Hương
nhượng quyền lại cho tướng Dương Văn Minh. Đại sứ Pháp
và Mỹ tin là đã giật dây để cho "Big Minh" bước ra hoạt
động.
Vào tối ngày
chủ nhật, Graham Martin thuyết phục thành công người tổng
thống được bổ nhiệm, không cương quyết yêu cầu giới
quân đội Mỹ rút quân ngay lập tức. Khoảng cùng thời
gian đó, Jean-Marie Merillon vào gặp đại diện Bắc Việt, sau
hiệp định ngừng bắn 1973 đang ở trong khu vực an ninh của
phi trường Tân Sơn Nhứt, để tự mình thăm dò cơ hội của
một "chính phủ hòa bình Big Minh" qua sếp của phái đoàn,
Đại tá Võ Đông Giang, một con người khó tính, giống như
một cái máy nói không có xúc cảm. Tuy vậy, viên đại tá
bất thân thiện đó không trả lời cho câu hỏi mang tính quyết
định: Liệu một chính phủ do Big Minh đứng đầu có được
chấp nhận như là đối tác để đàm phán một giải pháp
chính trị hay không.
Mặc dù không
có được sự chắc chắn cuối cùng này, Martin, Merillon và
những người đi theo "Big Minh" vẫn bắt đầu làm việc để
cứu thoát Sài Gòn ra khỏi một cuộc chiến và cứu thoát
phương Tây khỏi nỗi nhục nhã của một lần đầu hàng vô
điều kiện.
Xe tăng Bắc
Việt đã đứng trước cửa ngõ Sài Gòn, lúc này phần lớn
các quốc gia phương Tây đã di tản các sứ quán của họ
và quẳng các dự trữ rượu mạnh ra thị trường với giá
vứt đi. Người Mỹ, dẫn đầu bởi Graham Martin và Thomas Polgar,
vẫn còn tin có thể trì hoãn được chiến dịch di tản đường
hàng không quy mô lớn đã được lập kế hoạch, vì một
giải pháp chính trị bắt đầu hiện hình, cứu Sài Gòn thoát
khỏi sự hoảng loạn của một cuộc chạy trốn.
Sáng chủ nhật,
2 giờ trước khi mặt trời mọc, Bắc quân bắn vài hỏa tiển
vào thành phố, rơi xuống gần đại sứ quán Đức ở vùng
ranh giới giữa Sài Gòn và Chợ Lớn, khu phố người Hoa, và
gây ra một vụ cháy lớn kinh hoàng. Từ hơn ba năm nay, Sài
Gòn không còn bị bắn phá trực tiếp nữa. Các hỏa tiển
này, đi kèm theo đó là một tiếng nổ thật lớn, đã để
cho người dân nhận thức được rằng màn cuối cùng của
cuộc bao vây, đánh chiếm thủ đô, đã bắt đầu.
Chỉ các nhà
ngoại giao có nhiều quyền lực và ảnh hưởng trong đại
sứ quán Mỹ và Pháp là vẫn không muốn đọc những dấu
hiệu đó. Các tín hiệu của phía bên kia cũng có thể được
hiểu, rằng Hà Nội chỉ muốn thúc giục tăng tốc quá trình
chính trị. Bắc Việt, Graham và Merillon cam đoan lẫn nhau như
vậy, sẽ "mất thể diện", nếu như họ cố tiến quân đánh
chiếm thành phố Sài Gòn ba triệu dân trước con mắt của
thế giới. Qua nhượng bộ chính trị, cả hai người đều
có ý như vậy, có thể giành được một thỏa hiệp hợp
lý từ Bắc Việt.
Sài Gòn, 21-4-1975.
Lần bắn hỏa tiển đầu tiên là vào lúc 4 giờ 30 sáng, đánh
vào trung tâm Sài Gòn và đốt cháy 150 căn nhà bằng gỗ. 14
người chết và hơn 40 người bị thương.
Các chính trị
gia tiến hành sự việc với vận tốc của con ốc sên, trong
khi tướng lãnh Bắc Việt, ở Sài Gòn ai cũng nhận thấy,
rõ ràng là thúc giục một quyết định. Cả ngày lẫn đêm
đều nghe được tiếng "womp-womp-womp" của đạn pháo. Bây
giờ tiếng súng nổ lớn nhất là từ hướng phi trường,
nơi những chiếc máy bay di tản của cái cầu hàng không nhỏ
bé vẫn còn có thể hạ cánh mà không bị bắn phá. Người
dân Sài Gòn dao động giữa hy vọng và tuyệt vọng. Cuối
cùng thì người Mỹ có chở hết tất cả những người Việt
nào muốn đi hay không? Có lẽ cuộc chiến sẽ chấm dứt với
một thỏa hiệp chính trị.
Khi một phóng
viên nổi tiếng từ giã bạn bè vào buổi tối, vì "Giải
pháp Lào" cho phép ông bay về quê hương để hoàn thành một
phim tài liệu rồi sau đó quay trở lại Việt Nam, thì một
người bạn nói với ông ấy rằng hãy quên cái tên Sài Gòn
trong lúc đó đi, vì cho tới chừng đó thì người cộng sản
đã chiếm được thành phố, và đổi tên nó thành Thành phố
Hồ Chí Minh rồi (?).
Đó là "tuyên truyền của CIA", người này rít lên vì giận
dữ. Ý thức lịch sử của người Việt sẽ để cho một
lần đổi tên như vậy trở nên vô lý. Cuộc thảo luận dường
như tình cờ đã trở nên dữ dội cho tới mức buổi tiệc
từ giã kết thúc sớm hơn dự định.
Công việc
bàn giao chức vụ được tiến hành vào ngày thứ hai, 28-4,
buổi chiều 17 giờ, trong dinh tổng thống, nằm trong một tam
giác với sứ quán Mỹ và nhà thờ công giáo. Mây mưa nặng
nề kéo đến trên thành phố. Trời đã tối. Đèn trong dinh
được bật lên khi những người của "lực lượng thứ ba",
nhóm nhỏ những người trung lập, quốc gia chủ nghĩa và phật
tử chiến đấu, những người cho tới lúc đó không được
phép vào trong dinh tổng thống mới của năm 1964, bước qua
cánh cửa mở rộng vào trong gian sảnh tiếp đón và tạm thời
ngồi xuống ở hàng ghế thứ hai. Hàng ghế đầu dành cho
phó tổng thống Hương và các bộ trưởng cho tới thời điểm
đó. Có lẽ khoảng 100 người, cho tới 17 giờ hầu như chỉ
làm đầy được một nửa gian sảnh. Tiếp theo ở phía sau
đó là giới báo chí quốc tế. Trên các lối đi, cách bục
diễn thuyết không xa, là máy quay của các đài truyền hình.
Chống gậy
khập khiễng, phó tổng thống Hương bước vào gian sảnh,
có "Big Minh" đi kèm, người mà người ta có thể nhận ra một
vẻ hãnh diện nhất định cho vai trò mới này. Minh nhìn những
người bạn và những người theo ông ở hàng ghế thứ nhì,
những người dưới thời Thiệu đã bị gièm pha và bị các
cơ quan nhà nước hành hạ nhiều năm trời; cuối cùng thì
cũng đứng trước ngưỡng cửa của ảnh hưởng và sự công
nhận của giới công khai: Nguyễn Văn Huyền, một luật sư
mà sự hiểu biết về chuyên môn có nhiệm vụ bổ sung cho
Big Minh, thượng nghị sĩ Vũ Văn Mẫu, một con người
nhanh nhẹn, hiền lành, luôn mỉm cười lịch sự, một Phật
tử sùng đạo và là người cầm cờ của các nhà sư xã hội
chủ nghĩa ở chùa Ấn Quang.
Cuối cùng
rồi Trần Văn Hương bước lên bục diễn thuyết có treo huy
hiệu tổng thống ở mặt trước, một cơn mưa bắt đầu
trút xuống, lớn tới mức trong Sài Gòn nhiệt đới cũng được
xem là bất thường. Cơn mưa đầu tiên sau mùa khô kéo dài
nhiều tháng trời rơi xuống như một trận ngập lụt từ
trên trời. Mây đen phủ tối bầu trời; giống như màn đêm
đã buông xuống Sài Gòn. Bài diễn văn của Hương được
nhiều tia sét đi kèm, rồi tiếng sấm tiếp theo sau đó. Nhiều
câu trong bài diễn văn ngắn của Trần Văn Hương bị cơn
mưa đầy sấm sét này che phủ mất. Gió bão thổi màn che
của những chiếc cửa sổ cao bay tung lên, đánh lạc hướng
mối quan tâm của thính giả ra khỏi con người nói chuyện
mờ nhạt này. Hương khiến cho khán giả phải chán ngán với
tính bướng bỉnh của một người muốn giữ đúng một hình
thức đã mất ý nghĩa của nó từ lâu. Người thị trưởng
từng được mến chuộng của Sài Gòn trước đây đã đánh
mất phần còn lại của sự tin tưởng trong lần hợp tác
với Thiệu, người đã lợi dụng tiếng tốt của ông mà
không giao quyền lực thật sự cho ông. Còn lại là một sự
cứng đầu cứng cổ giả làm tính nguyên tắc. Người đàn
ông già ốm đau này, cần dùng một cây gậy để đi lại,
thật sự là một biểu tượng của trật tự đang sụp đổ.
Ông diễn thuyết
độ mười phút. Các nhà báo không quan tâm và cũng bị trận
mưa đánh lạc hướng cho tới mức hầu như không ai để cho
phiên dịch bài diễn văn. Tất cả mọi người đều chờ
"Big Minh", chờ một chính phủ mới, một kế hoạch lập hòa
bình mà người cộng sản muốn chấp nhận. Hương khập khiển
trở về chỗ của mình. Cả gian sảnh im lặng. Mọi ánh mắt
đều hướng tới "Big Minh". Nhưng ông vẫn ngồi trên ghế
của mình. Lần ngưng giữa chừng trong nghi thức mà không nhận
ra được ý nghĩa của nó làm tăng sự căng thẳng.
Rồi cuối
cùng người ta nhìn thấy một người lính, đeo thắt lưng
trắng và dây đeo, đứng ở phía trước bên trái, cạnh cửa
cánh, bước vào giữa gian sảnh tới bục diễn thuyết. Ông
dùng hai tay cầm huy hiệu của tổng thống, giật nó ra khỏi
móc treo, quay người với những cử động giật nhanh, tạo
một vẻ buồn cười cho những người lính đang đi duyệt
binh, bước ra hướng cửa và mang biểu tượng của tổng thống
VNCH ra khỏi gian phòng với những bước chân khoan thai.
Giới chính
khách và nhà báo giữ im lặng, một sự im lặng mà người
ta có thể xem như phút mặc niệm cho một trật tự được
mang một cách tượng trưng từ sân khấu chính trị sang đống
rác của lịch sử. Khán giả chăm chú theo dõi những cử động
long trọng của người lính vệ binh bây giờ đang tiến
gần tới lá cờ Nam Việt Nam ở bức tường phía trước,
nhấc nó lên khỏi giá cắm và mang nó một cách chậm chạp,
lúc nào cũng đi thẳng, ra khỏi gian phòng. Ông đã tạo
khoảng cách với một hệ thống đã được xóa bỏ một cách
tượng trưng qua lần mang lá cờ đi ra ngoài.
Đối với
tôi, lá cờ ít có ý nghĩa. Nhưng từ chuyến đi tường thuật
đầu tiên của tôi trong cuộc chiến này, tôi đã trải nghiệm
nó như là biểu tượng của một quốc gia mà nhiều trăm
ngàn người Việt đã hy sinh cho nó. Hơn 500.000 lính Mỹ
đã được gởi tới đây để củng cố cho Nam Việt Nam mà
50.000 người trong số đó đã tử trận. Lá cờ vàng đỏ
này đã trang trí cho các quan tài khi trên nghĩa trang quân đội
lớn ở ngoài Sài Gòn, trên đường đi Biên Hòa, khi mỗi năm
một lần người ta tiến hành tưởng niệm những người đã
hy sinh trong một buổi lễ quốc gia long trọng.
Hàng triệu
người đã chết một cái chết vô nghĩa. Đối với tôi, đó
dường như là một hành động cay độc, để cho lá cờ
biến mất và qua đó mà trốn tránh một trách nhiệm lịch
sử.
Người lính
quay lại gian sảnh, cầm một dấu hiệu tổng thống mới trên
hai tay. Với một cú đánh mạnh, ông gắn chặt biểu tượng
của tổng thống "Big Minh" vào bục diễn thuyết. Hoa sen xanh
nổi bật trên nền trắng. Chắc là một người nghiệp dư
đã phải hấp tấp tạo ra kiểu mẫu này. Hẳn là không còn
có thể tìm được một bản nào tốt hơn trong Sài Gòn. Chỉ
những kẻ mơ mộng mới tìm được hy vọng trong lần thay
đổi biểu tượng vào giờ chót này.
Chỉ sau khi
người lính trở về chỗ ban đầu của ông, giống như qua
đó mà quá khứ đã được xóa bỏ và con đường đi tới
một tương lai tốt hơn được mở ra, "Big Minh" đứng dậy
từ ghế ngồi của ông, khoan thai đi tới bục diễn thuyết
và bắt đầu đọc một tuyên bố của chính phủ mà trong
đó lời đề nghị ngưng bắn ngay tức khắc được đưa ra.
Như đã thỏa thuận với đại sứ Mỹ Graham Martin, Minh
không nhắc tới lời yêu cầu di tản ngay tức khắc tất cả
các quân nhân Mỹ. Nhưng ông cũng không còn nói về "những
người cộng sản" nữa, mà là về "những người bạn của
chúng ta ở phía bên kia...Chúng tôi thật sự mong muốn hòa
giải. Những ngày sắp tới sẽ hết sức khó khăn...Tôi
không hứa hẹn nhiều."
Lúc đó, tôi
không nghe bài diễn văn của "Big Minh" cho tới khi kết thúc.
Đối với tôi, nội dung lời tuyên bố của ông là hoàn toàn
không có ý nghĩa gì trong sự so sánh với những cảnh tượng
trưng cho một lần tự xóa bỏ nhà nước mà chúng tôi vừa
quay xong. Nhà nước Sài Gòn thật sự đã hy sinh cái lớn nhất,
để thúc đẩy Bắc Việt đi tới thỏa hiệp chính trị vào
phút cuối cùng: Nó đã tự tan rã, từ bỏ những biểu
tượng cho sự tồn tại của chính mình, tự sát vì sợ chết.
Để đưa cuốn
phim lên chiếc máy bay chuyến tối sang Bangkok càng nhanh càng
tốt, tôi đã cùng đội quay phim rời gian sảnh trước. Ở
trước cửa, tôi trình bày một "dự thảo văn bản" cho ban
biên tập. Vài phút sau đó, người quay phim và cộng tác viên
người Việt lâu năm của chúng tôi đi xe ra phi trường. Đó
là vào khoảng 6 giờ chiều, mưa đã giảm bớt đi rất nhiều.
Tới khách sạn Continental có nhiều nhà báo sống ở trong đó
chỉ tốn mười phút đi bộ. Hàng hiên, vào buổi chiều là
điểm gặp gỡ cho giới báo chí, quân nhân Mỹ, giới ngoại
giao và dân kinh doanh đủ các loại, bây giờ trông như bị
bỏ hoang. Các nhà báo vẫn còn quan sát lần thay đổi quyền
lực trong dinh tổng thống. Phần khách còn lại đã hiểu được
những dấu hiệu của cuộc chiến và chuẩn bị cho tình huống
khẩn cấp. Cũng có không ít người đang theo dõi trực tiếp
lần nhậm chức của "Big Minh" trước các màn hình. Những
chiếc taxi màu xanh-nâu sáng đỗ trước Continental như thường
lệ. Để giết thời gian, tôi thuê một chiếc cho một chuyến
đi vào Chợ Lớn.
Sau hai kilômét,
chúng tôi tới nhà ga. Bất chợt có những chiếc A37 bay ở
phía trên chúng tôi, bổ nhào xuống tấn công. Người ta nghe
được tiếng bom nổ ở hướng phi trường. Vài giây sau đó,
hỗn loạn xảy ra trong thành phố. Ai có súng đều bắt đầu
bắn lên trời. Người dân chạy, nằm xuống đất, tiếp tục
chạy đi. Tiếng ồn của vũ khí tăng lên thành một nền âm
thanh, càng làm cho người ta hoảng sợ, và hầu như không ai
nhận biết được nguyên do nổ súng. Sài Gòn bắn lên trời
vì sợ. Bốn chiếc máy bay chiến đấu hạng nhẹ kiểu A37
bị Bắc Việt tịch thu đã cất cánh từ Phan Rang Air Base,
khoảng 200 kilômét đông bắc Sài Gòn, và được gởi tới
phi trường Tân Sơn Nhứt dưới sự lãnh đạo của một phi
công Nam Việt đào ngũ.
Hiệu ứng
tâm lý của lần bỏ bom thủ đô Nam Việt vượt quá mọi
sự mong đợi. Sau khi những quả bom đó rơi xuống và Sài
Gòn đạt tới một trạng thái hoảng loạn, cái khiến cho
người ta nhớ tới những cảnh đông người trên các bậc
thang Odessa của (nhà đạo diễn) Sergei Eisenstein, thì ai cũng
biết rõ rằng giờ của trận đánh đã bắt đầu. Lần bắn
súng vô nghĩa mà dân cư vũ trang của Sài Gòn đã dùng nó
để kết thúc lần tự phá hủy trật tự cho tới nay kéo
dài cho tới khi trời tối, hơn một giờ đồng hồ. Giới
nghiêm bắt đầu sau đó. VNCH đã chấm dứt tồn tại trước
khi bị xâm chiếm. Tháo gỡ các biểu tượng nhà nước
và phản ứng hoảng loạn của người dân Sài Gòn trước
lần ném bom phi trường cho tới nay đã không được nhắc
tới hay chỉ được đề cập sơ qua trong các tường thuật
của nhân chứng và trong các diễn tả lịch sử.
Các cơ chế
phòng vệ tâm lý đã đẩy cuộc di tản bằng máy bay đầy
kịch tính, bắt đầu vào trưa ngày hôm sau đó, 29-4, vào trong
trung tâm điểm. Những dịch chuyển trọng tâm như vậy cũng
được quan sát thấy tại các chiến bại lịch sử khác của
"người da trắng" ở châu Á. Trong văn học và trong điện
ảnh, lần quân đội Mỹ đầu hàng ở Corregidor, tháng Tư
1942 trong vịnh Manila, đã bị che phủ bởi những sự tàn bạo
của người Nhật trong "chuyến bộ hành tử thần Bataan" để
đi tới các trại tù binh; và "Cầu sông Kwai" đã quan tâm tới
sự tưởng tượng của phương Tây nhiều hơn là kết cuộc
của doanh trại Anh tại Malaya và Singapore.
Thật sự là
hoạt động chính trị-ngoại giao cuối cùng mà "Big Minh" đã
đứng tại tâm điểm của nó, được khuyến khích và cố
vấn bởi Graham Martin và Jean-Marie Merillon đã trì hoãn cuộc
di tản Sài Gòn và qua đó đã gây hại nghiêm trọng về tâm
lý và chính trị. Ngay sau bài diễn văn của "Big Minh", đài
phát thanh Hà Nội đã phát đi một tuyên bố với lời lẽ
cứng rắn hết sức bất thường và với một yêu cầu dứt
khoát, vượt quá tất cả các phát ngôn trong những ngày vừa
qua. Đài phát thanh kêu gọi người dân Sài Gòn hãy "nổi dậy".
Qua đó, Bắc
Việt đã phá hủy ảo tưởng cuối cùng. "Giải pháp Lào"
giống như một canh bạc. Mỹ và các đại diện của Sài Gòn
đã đi nước cờ cuối cùng của họ. Họ đã đi tới kết
cuộc. Lần ném bom phi trường vào lúc 6 giờ chiều ngày thứ
hai thật sự đã là tín hiệu cho cuộc tấn công. Suốt cả
đêm đó, Sài Gòn bị bắn phá bởi đạn pháo và hỏa tiển.
Cuộc di tản bằng máy bay bắt đầu vào chiều ngày thứ ba:
lúc đầu là từ một điểm tập trung trong khu vực phi trường,
sau đó từ nóc nhà của tòa đại sứ quán Mỹ. Bốn giờ
sáng ngày thứ tư, 30 tháng Tư, đại sứ Mỹ Graham Martin rời
khỏi nước. Những người lính Mỹ cuối cùng, mười một
lính thủy quân lục chiến, bay vào lúc 7 giờ 53 phút từ Sài
Gòn ra hạm đội trước bờ biển. Vào lúc 11 giờ trưa, 30
tháng Tư, xe tăng Bắc Việt tới dinh tổng thống ở nội thành.
Một người lính với lá cờ của "chính phủ cách mạng lâm
thời" lao lên cầu thang, để gắn nó lên ban công như là dấu
hiệu của chiến thắng.
Lá cờ cũ
đã được lấy ra từ lâu rồi.
(Những
ngày cuối cùng của Sài Gòn - Winfried Scharlau)
- : Winfried
Scharlau là một nhà báo, sử gia người Đức. Ông là phóng
viên chiến trường đã từng bị thương ở gần vĩ tuyến
17 vì chiếc trực thăng chở ông đáp trúng mìn. |