Ngày
thứ 13 : 22-3-1975
Trận địa
từ Huế tới Đà Nẵng
Kịch chiến
trên Quốc lộ 1 đoạn từ Huế đi Đà Nẵng từ 20 đến 23-3-1975.
Ngày 22-3, để
ngăn chận cuộc di tản chiến thuật của Sư đoàn 1 BB và
các lực lượng phòng thủ Huế có thể xảy ra và với ý
đồ cô lập Huế, Sư đoàn 324 và 325 chận đánh Sư đoàn
1 BB phía nam Huế.
Ngày 23-3-1975,
Viên đến gặp Thiệu vào buổi sáng ở dinh tổng thống, báo
cho Thiệu biết những tin cuối cùng về Huế. Sư đoàn 1 đã
hoàn toàn tan rã. Một giờ sau, Trưởng công nhận sự thật
ấy bằng radio. Ông nói thêm Huế không thể chống đỡ được
quá một ngày. Để giảm bớt sự đổ máu, ông ta xin phép
bỏ ngay thành phố. Khi Thiệu nghe tin ấy, ông ta nổi giận
lôi đình hơn bao giờ hết. Đi lại trong phòng làm việc, giữa
các cố vấn, ông lên án tư lệnh Quân khu 1 phải chịu trách
nhiệm về sự tan rã của Sư đoàn 1, sẽ bị nghiêm phạt.
Nhưng tất
cả chuyện đó chỉ là đóng kịch. Thiệu biết rõ rằng
mặc dù ông ta hy vọng không xảy ra, phải bỏ Huế ngay
tức khắc.
(Decent Interval
- Frank Snepp)
Trận địa từ Huế tới Đà
Nẵng
Ngày 23-3-1975, Trung đoàn 51 BB
còn đóng ở cây số 17 và các trung đoàn khác vẫn còn tại
các căn cứ đóng quân của mình, nhưng qua ngày 24-3 thì...mạnh
ai nấy chạy! Dân chúng và quân lính chen nhau tìm đường thoát
nạn không còn hàng ngũ, không còn trật tự. Thậm chí còn
bắn nhau để dành đường.
Ngày 24-3, Bắc quân đánh Truồi,
Đá Bạc, khiến cho quân và dân chạy đến đây thêm rối
loạn. Cũng ngày 24-3, Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, tư lệnh
phó QĐ 1 dùng trực thăng bay ra Huế để quan sát tình hình.
Khi đến Thừa Lưu, thấy binh lính bên dưới chạy hỗn loạn
liền cho trực thăng đáp xuống và hỏi thuộc cấp là lệnh
của ai cho rời đơn vị thì không ai trả lời được.
(Lê Hùng)
Bên lề
trận chiến
Đại tướng
Viên cho biết: Sau khi nhận chỉ thị của tổng thống, trung
tướng Trưởng trở về Đà Nẵng trong ngày 19-3. Suốt trong
6 ngày tiếp theo, dù tình hình Quân khu I trở nên rất đáng
ngại, nhưng trung tướng Trưởng vẫn muốn giữ Huế và một
số vị trí trọng yếu tại Quân khu I. Sau khi suy nghĩ và phân
tích tình hình, tướng Trưởng đã gọi điện thoại theo đường
dây đặc biệt trình bày ý kiến với đại tướng Viên nhờ
xin với tổng thống cho ông được tận dụng mọi cách để
giữ Huế và Vùng 1. Cuối cùng tổng thống chấp thuận.
Được sự
đồng ý của tổng thống, trung tướng Trưởng bay ra Huế
họp với Trung tướng Lâm Quang Thi, tư lệnh tiền phương quân
đoàn, về kế hoạch phòng thủ Huế. Tướng Trưởng ra lệnh
phải giữ Huế thật vững.
Thế nhưng
ngay chiều hôm đó, khi trở lại Đà Nẵng, tướng Trưởng
nhận được mật lệnh do đại tướng Viên ký thừa lệnh
tổng thống là...phải bỏ Huế.
Ngày
thứ 14 : 23-3-1975
Trận chiến
Huế
Sáng ngày 23-3,
Trung đoàn 1 BB và Liên đoàn 15 BĐQ kịch chiến với Bắc quân
trên Quốc lộ 1, thì tại Huế, Bắc quân bắt đầu tấn công
một số vị trí trong thành phố Huế và vòng đai phụ cận.
Chiều 23-3,
Trung tướng Ngô Quang Trưởng gọi Chuẩn tướng Nguyễn Văn
Điềm, tư lệnh Sư đoàn 1 BB vào Đà Nẳng để duyệt xét
lại tình hình phòng thủ Huế. Cuối cùng, trung tướng Trưởng
buồn bã nói với tướng Điềm: Thôi đành phải cho rút khỏi
Huế vậy.
Tướng Điềm
trở lại Huế ngay chiều 23-3. Khi vừa ra khỏi văn phòng trung
tướng Trưởng để ra trực thăng, ông gặp Thiếu tướng
Bùi Thế Lân, tư lệnh thủy quân lục chiến. Tướng Lân cũng
được tướng Trưởng mời đến để thông báo về việc
rút quân khỏi Huế. Theo lời tướng Lân kể lại khi vào gặp
tướng Trưởng, vị tư lệnh Quân đoàn I đã nói ngay cho tướng
Lân biết là ông đã cho lệnh bỏ Huế theo chỉ thị của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Tướng Lân bàng hoàng khi nghe
tin này và hỏi lại tướng Trưởng: Khi nào chúng ta sẽ rút
khỏi Huế?.
Tướng Trưởng
nghẹn ngào nói: Đêm nay. Rồi thôi, hai vị tướng nhìn
nhau...
Huế lọt vào
tay địch ngay đêm 23-3-2975.
- :
Phát ngôn viên chính phủ (Nguyễn Văn Hiền?) tuyên bố Huế
thất thủ ngày...25-3-1975.
Bên lề
trận chiến
Nói những
ngày cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam, mỗi khi tôi ôn lại
trong những năm tháng tù đầy, hoặc viết lại trong hồi ký,
luôn luôn lại làm tôi xúc động một cách mạnh mẽ và có
phần khó hiểu. Trở lại những tháng đầu năm 1975, tôi nhớ
lại cái không khí lo âu, mơ hồ cứ lẩn quẩn thấm vào tâm
trí mọi người, những lo âu sợ hải hình như không có nguyên
cớ rõ rệt.
Sau cái lần
Trung tướng Ngô Quang Trưởng đi phó hội với CINPAC về, trong
bữa uống rượu ở vườn buổi chiều trước tư dinh của
ông, khi được tôi hỏi ông đã thở dài nói chậm rải: Anh
biết đấy, kỳ nầy mà địch tổng tấn công vào Vùng 1,
Hoa Kỳ sẽ chẳng còn có thể yểm trợ mình về hải pháo
hay phi cơ của hạm đội. Khi đó đương nhiên mình phải tự
lực cánh sinh chiến đấu với những gì mình có và với tình
trạng tiếp vận giảm sút đến gần 80% so với thời kỳ
chưa ký hiệp định Paris. Sau đó chúng tôi đã ngồi lẳng
lặng uống rượu tiếp và cũng chẳng trao đổi với nhau lời
nào cả nửa tiếng đồng hồ.
Khi Đại tướng
Trần Thiện Khiêm kiêm thủ tướng tới họp tại tiểu khu
Quảng Trị, ông đã quay sang nói một câu ngắn ngủi với
đại tá Kỳ, tỉnh trưởng Quảng Trị (1):
Anh Kỳ hãy lo đưa tòa hành chánh và dân Quãng Trị di tản
vào Huế. Một quyết định đã có sẵn và được ban bố
không một lời giải thích về nguyên nhân chiến lược xâu
kín và áp lực của địch, đã nổ ra như một tiếng sấm
động trong một ngày trời đang quang đãng. Cả một hội trường,
từ cấp cao đến cấp thấp đều ngồi lặng đi, trước viễn
tượng của một thảm họa, vì trong thâm tâm, ai cũng có một
ý nghĩ thế là đúng rồi: Trung ương đã quyết định rút
quân ra khỏi Vùng 1 và như vậy là bỏ Vùng 1.
(Những ngày
cuối cùng của Vùng 1 và miền Nam - Duy Lam)
(1) Tỉnh
trưởng Quảng Trị trước đó là Đại tá Hà Mai Việt. Ông
là đồng tác giả với Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc, tư lệnh
phó Quân đoàn I qua tác phẩm Nam Việt Nam 1954-1975.
Cuối tháng 3-1975, thiếu tướng
tư lệnh phó Quân đoàn I đi công tác vài ngày ở Saigonrồi...
Xem Can trường trong chiến
bại của Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại ở phần dưới.
Góp nhặt...ghi
chép...
Ngày 19-3, tướng
Trưởng về Sài Gòn họp lần thứ hai, trình bầy hai kế hoạch
lui binh:
Kế hoạch
Một:
- Các đơn
vị sẽ theo Quốc lộ 1 từ Huế, Chu Lai về Đà Nẵng, trong
trường hợp Quốc lộ 1 bị cắt thì sẽ theo Kế hoạch Hai.
Kế hoạch
Hai:
- Các lực
lượng quân đoàn sẽ tập trung tại ba cứ điểm Huế, Đà
Nẵng và Chu Lai, tầu hải quân sẽ chuyên chở lính từ Huế,
Chu Lai về Đà Nẵng. Trong cả hai kế hoạch Đà Nẵng vẫn
là điểm tựa cuối cùng, tướng Trưởng đề nghị giữ cả
ba cứ điểm để phân tán lực lượng địch.
Tướng Viên
cho rằng kế hoạch của tướng Trưởng là hợp lý: Kế hoạch
lui quân của Quân đoàn I soạn thảo rất hợp lý và đầy
đủ, gồm kế hoạch dự phòng để đối phó với những bất
ngờ do địch gây ra. Kế hoạch Hai dự trù các đơn vị của
Quân đoàn I rút hết về Đà Nẵng, chúng ta chỉ còn hai hành
động phải làm: Cố thủ tại chỗ hoặc rút bằng đường
biển nếu tình thế bắt buộc.
(Trọng Đạt)
Quảng Trị - Huế - Đà Nẵng
Lữ Đoàn 258 TQLC di chuyển từ
Quảng Trị tới đèo Phước Tượng, nằm giữa Huế-Đà Nẵng
với nhiệm vụ rõ ràng: Bảo vệ lưu thông trên QL1. Chờ đợi
và bảo vệ đạo quân tiền phương QĐ1 rút từ Huế-Quảng
Trị về Đà Nẵng.
Từ ngày 18-3 đến ngày 23-3-1975
dân tị nạn Huế, Quảng Trị đi đầy đường chạy về Đà
Nẵng, quân Bắc Việt muốn tái diễn một "Đại lộ kinh hoàng"
năm 1972, nhưng thất bại vì phía tây QL1 có quân ta bố trí,
chúng không thể tới gần QL1, mà chúng chỉ dùng đại bác
đặt trong núi Trường Sơn bắn vào dân tị nạn, nhưng đa
số đạn đại bác đã nổ trên vách núi hai bên QL1.
Sáng ngày 25-3, LĐ258 TQLC được
lệnh của Trung tướng Ngô Quang Trưởng bỏ đèo Phước Tượng
rút về Đà Nẵng, LĐ15 BĐQ đóng bên cạnh LĐ258 TQLC chia làm
hai, một phần đi hướng bắc về Huế an toàn, còn một phần
đi theo TQLC về phía nam, đi qua Phú Lộc. Sau khi qua Phú Lộc,
được xe quân vận chở về Đà Nẵng an toàn cùng ngày...
(Phạm Vũ Bằng)
Góp nhặt...ghi
chép...
Sau khi Quảng
Trị và Huế bị bỏ ngõ, Quảng Tín và Quảng Ngãi thất thủ,
Đà Nẵng đang bị những gọng kềm sau đây siết chặt: Sư
đoàn 324, Sư đoàn 325 cùng với vài thành phần của Sư đoàn
304 từ Quảng Trị kéo quân về nam.
Đồng thời
Sư đoàn 2, Lữ đoàn 52 (thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên hay Quân
khu 5) từ Quảng Tín và Quảng Ngãi xua quân lên hướng bắc.
(Wikipedia)
Huế - Chu Lai - Đà Nẵng
Ngày hôm sau, 20-3, tổng thống
Thiệu lên đài phát thanh đọc lời hiệu triệu giữ Huế
bằng mọi giá. Nhưng tối đêm đó, ông Thiêu đôi ý: Ông
ra lệnh cho Bộ tổng tham mưu đánh cho tướng Trưởng một
quân lệnh, cho biết Sài Gòn chỉ còn đủ phương tiện để
yểm trợ cho 1 trong 3 cứ điểm kháng cự. Trong 3 cứ điểm
Huế, Chu Lai, Đà Nẵng, tướng Trường phải chọn một. Dĩ
nhiên, Đà Nẵng phải là cứ điểm ưu tiên. Tướng Trưởng
ra lệnh di tản về Đà Nẵng.
Đại tướng Frederick Weyand, đang
là tư lệnh lục quân Hoa Kỳ, trong tờ tường trình cho tổng
thống Ford sau chuyến viếng thăm ở Việt Nam cuối tháng 3-75,
cũng cho biết trong tuần lễ đó, tướng Trưởng đã nhận
3
quân lệnh trái ngược nhau từ tổng thống Thiệu.
(Nguyễn Kỳ Phong)
Đà Nẵng di tản
Ngày 25-3, trong hoàn cảnh hỗn
loạn của Đà Nẵng, tướng Trưởng nhận thêm một tin không
vui từ Sài Gòn: Đích thân Trung tướng Lê Nguyên Khang đang
là tổng tham mưu phó bay ra Đà Năng đưa cho tướng Trưởng
một
quân lệnh yêu câu ông trả lại sư đoàn TQLC ngay lập tức.
Ngày 27-3, khoảng 9 giờ đêm,
ông gọi tướng Viên báo cáo tình hình và yêu cầu cho phép
ông di tản sư đoàn TQLC và những trung đoàn còn lại của
Sư đoàn 1 và 3. Tướng Viên nói đó là quyết định của
tổng thống Thiệu. Tướng Trưởng gọi dinh Độc Lập, nhưng
tổng thống Thiệu không có mặt. 10 giờ đêm tổng thống
Thiệu gọi lại ...sau khi nghe tướng Trưởng báo cáo tình
hình, ông Thiệu hỏi tướng Trưởng sẽ giải quyết rạ sao.
Tướng Trưởng trả lời ông sẽ giải quyết theo sự biến
chuyên của tình hình. Tổng thống Thiệu cúp điện thoại.
Ngày 27-3, vài phút sau đó, tướng
Trưởng ra lệnh di tản khỏi Đà Nẵng.
Nhưng không, đến đó không còn
di tản nữa. Vì chữ di tản có chứa đựng một khái niệm
về sự thứ tự và trật tự trong lúc lui quân. Địch đã
cắt nát Quốc lộ 1 ra từng đoạn và đang dùng pháo binh để
hăm dọa các cửa khẩu từ biển đi vào bờ.
Đến giờ
phút dó, chữ bỏ ngõ
có
nghĩa và đúng nghĩa hơn chữ di tản.
Ngày 29-3, Đà Nẵng và Vùng 1
mất hai ngày sau đó...
(Nguyễn Kỳ Phong)
Ngày
thứ 15 : 24-3-1975
Tam Kỳ
Ngày 24-3, đặc
công đột nhập vào Tam Kỳ (thuộc Quảng Nam).
Tiếp đến
Hội An, Chu Lai (thuộc Quảng Nam).
Địa giới
tận cùng của Vùng 1 chiến thuật là Quảng Ngải sau đó cũng
rơi vào tay Bắc quân.
Quảng Ngải
mất ngày 29-3-1975.
(Wikipedia)
Tam Kỳ trong mắt bão
Tam Kỳ trở thành chiến trường
đẫm máu. Địch tung lực lượng hùng hậu nhất của Quân
khu 5 là Sư đoàn 2 Bắc quân với nòng cốt là Trung đoàn 31
và 38, cộng với Lữ đoàn 52 cùng một tiểu đoàn đặc công
tăng cường.
Hai ngày 21 và 22-3-1975, cường
độ giao tranh tại Quảng Tín đã lên đến cực điểm. Trong
khi đó yểm trợ không quân bị hạn chế. Chỉ riêng pháo
đội (4 khẩu 105 ly) của Liên đoàn 12 BĐQ vừa nhận tiếp
tế ngày 22-3 thì buổi tối hôm đó đã gọi về bộ chỉ
huy liên đoàn xin thêm đạn. Bộ tư lệnh tiền phương của
Sư đoàn 2 BB (1) cũng rối rắm không
kém khi ban 4 của LĐ12 BĐQ vào tận bản doanh để xin thêm
đạn dược các loại. Mang tiếng là tăng phái cho Sư đoàn
2 BB nhưng phòng 4 của sư đoàn cũng rất công bằng trong việc
phân phối tiếp liệu phẩm các loại, nhất là đạn dược
cho BĐQ. Nhưng phải nói là cả hai đơn vị đang "đồng cam
cộng khổ" vì tiếp liệu thì như mưa rào tưới ruộng khô,
mà nhu cầu chiến trường thì đang bước vào giai đoạn xả
láng của một canh bạc. Thật là buồn lòng khi mọi thứ đều
phải tiết kiệm. Từng đơn vị của Sư đoàn 2 BB và BĐQ
lần lượt bể tuyến.
Chủ nhật, 23-3, địch bày thế
trận, chọn sân chơi. Ta lâm vào thế bị động ngay từ phút
đầu lâm chiến. Địch chiếm đâu, giữ đó. Ta cạn láng
lần hồi. Đất thuộc về người dân cùng đường lánh nạn
nên một số phải ở lại nơi chôn nhau cắt rốn vì không
thể theo chân của lính.

Trên đường lui quân vội vã,
đã có nhiều tử sĩ phải nằm lại trên tuyến đầu. Trong
giờ phút quyết liệt nhất của chiến trận, sự di tản của
toàn thể thương binh đã là một cố gắng tột cùng của
các đơn vị. Việc bỏ lại đồng đội các cấp tại mặt
trận là việc chẳng đặng đừng, đó là chưa nói đến việc
kêu gọi bỏ bom pháo binh ngay trên hố chiến đấu trong khi
đã "cài răng lược" với quân địch. Sự quyết chiến và
quyết tử này của Tiểu đoàn 2/5/SĐ2 BB đã chận đứng sự
di chuyển của Bắc quân trong đêm 22-3. Nhờ đó mới có cơ
hội chỉnh đốn lại đơn vị và dàn trận tuyến mới, chỉ
cách Tam Kỳ chừng hơn một tầm đạn hiệu quả của súng
cối 61 ly.
(Hùynh Văn Của)
(1) Chuẩn
tướng Nguyễn Văn Hiếu, tư lệnh SĐ 2 đối đầu với sư
đoàn của địch cùng tên là Sư đoàn 2 thuộc Quân đoàn 3
Tây Nguyên.
Một cơn gió bụi
Trung tá Nguyển Văn An, liên
đoàn trưởng Liên đoàn 12 BĐQ tử trận ngày
29-3-1975.
Tam Kỳ trong mắt bão
Ngày 23-3-1975, bỗng dưng tiếng
súng vang trời từ hai tuần qua thưa dần rồi im hẳn vào buổi
xế trưa. Các đơn vị tham chiến hối hả chấn chỉnh nhân
lực. Việc tái phối trí cũng như di chuyển thương binh được
thực hiện trong tình trạng khẩn cấp. Chỉ đáng buồn hơn
hết là đạn dược đã cạn. Sau mấy ngày căng thẳng vừa
qua, ai cũng đau lòng vì chuyện đánh đấm mà phải dè xẻn,
tính toán!. Người lính VNCH chưa bao giờ lâm vào tình trạng
bi đát như lúc này: Phi pháo đều hạn chế vì không phải
chỉ có Quảng Tín mà toàn cõi quân khu từ Quảng Trị vào
tới Quảng Ngãi đều có nhu cầu ngang nhau. Thì cũng đành
tới đâu hay tới đó. Lính mà em!
Chiến trường lắng dịu không
có nghĩa là tình hình đã yên ổn. Trong hoàn cảnh của Tam
Kỳ chiều nay thì câu hỏi lảng vảng trong đầu mọi người
là đối phương đang toan tính những gì. Địch cũng đang gom
quân chuẩn bị cho cú tắp dứt điểm, hay đang say men chiến
thắng và chỉ lo vơ vét chiến lợi phẩm, hoặc bận khoác
lác với người dân hôm qua còn thuộc quốc gia, bây giờ đã
nằm trong sự cai trị của nón cối và dép râu. Tam Kỳ đang
sinh hoạt trong tình trạng người dân đã bỏ đi quá nửa.
Trên gương mặt của từng người còn ở lại là nỗi bất
an mặc dù quán xá vẫn bán buôn như thường lệ. Lính vẫn
còn đây, dân chưa tuyệt vọng.
Chiều nay yên lắng nhưng ngày
mai sẽ ra sao?! Tam Kỳ đang hồi hộp từng giờ và không khí
ngộp thở không khác gì đang ở ngay trong mắt bão. Sự
yên lặng rợn người trước khi cuồng nộ bủa vây càng chùng
xuống khi hoàng hôn gác núi. Bóng tối dày đặc hơn thường
lệ vì đã có nhiều nhà trống, sân không, và phố xá thưa
thớt xe cộ. Đêm lại về trong đặc quánh thinh không. Đêm
dài nhất của Tam Kỳ (1) đang bắt
đầu với câu hỏi: Rồi mai sẽ ra sao?!
Câu trả lời chỉ biết dành
cho định mệnh!
(Hùynh Văn Của)
(1) Tam
Kỳ mất ngày 29-3.
Góp nhặt...ghi
chép...
Ngày 26-3, Polgar
báo cáo tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH "như chúng
ta từng biết" không còn nữa sau vụ rút khỏi cao nguyên và
Hà Nội có thể kết thúc sự tồn tại của VNCH một cách
nhanh chóng nếu họ muốn, ngoại trừ vận động Nga khuyên
Hà Nội đừng hấp tấp.
Ngoại trừ
có áp lực quân sự như Mỹ lợi dụng miền Bắc
đang bỏ trống. (1)
(1) Theo
những nguồn ở trên, Bắc Việt chỉ còn 2 sư đoàn
trong số 7 sư đoàn tổng trừ bị trên toàn cõi miền Bắc
đóng quân ở Thanh Hoá. Nhưng theo tướng Võ Nguyên Giáp
chỉ có (1) một sư đoàn duy nhất là Sư đoàn 308 ở Hà Tây
để bảo vệ Hà Nội .
Góp nhặt
sỏi đá
Sau khi Bộ chính trị và Quân
ủy nhất trí "giải phóng miền Nam năm 75", tướng Giáp đi
Ninh Bình, ông quyết định đưa vào Nam Quân đoàn 1, quân
đoàn cuối cùng của miền Bắc.
Khi ấy Quần đoàn 1 đang giúp
dân đắp đê ở Ninh Bình theo kế hoạch nghi binh, nhận lệnh
báo động, nhanh chóng theo trục Quốc lộ 1 hành quân vào Nam.
Chỉ
để lại Sư đoàn 308 ở khu vực Hà Tây làm nhiệm vụ dự
bị và bảo vệ Hà Nội.
(Huy Đức - Quyền bính)
Quân sử ngoại truyện
Ngày 24-3, Bộ chính trị và Quân
uỷ thông qua kế hoạch lập "Mặt trận Quảng Đà" lấy mật
danh là "Mặt trận 475" do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm tư
lệnh.
Sáng 25-4, ông cùng bộ phận
chiến dịch đi máy bay vào Quảng Bình, sau đó chuyển tiếp
bằng trực thăng vào Quảng Trị. Bộ tư lệnh 475 theo đường
72 ra Động Truồi định để chỉ huy đánh Huế và Đà Nẵng.
Nhưng giữa đường được tin quân ta đã giải phóng Huế
vào ngày 25-3.
Không còn phải đánh nhau ở
Huế, Quân đoàn 1 được lệnh quay ngược về lại Quảng
Trị. Chuyển trục hành quân từ Quốc lộ 1 sang đường Trường
Sơn. Ba vạn người cùng với 1053 xe pháo các loại rầm rộ
tham gia cuộc hành quân thần tốc, ngày 16-4 thì vào đến Đồng
Xoài.
(Huy Đức - Quyền bính)
Chu Lai – Quảng Ngải
Ngày 29-3 ở Chu Lai và Quảng
Ngãi, Sư đoàn 3 (1) không còn có thề
coi là một đơn vị chiến đấu. Binh lính và dân chúng vật
lộn với những tàu đánh cá để ra khơi. Quá trưa, thị xã
Quảng Ngãi và căn cứ không quân Chu Lai không còn gì để
bảo vệ nên tự thất thủ.
Khi tướng Dũng được tin ấy,
ông không nén được xúc động, ông viết trong hồi ký: Tôi
châm lửa vào điếu thuốc. Tôi đã "cai" thuốc từ lâu, nhưng
mỗi lần giải quyết được một vấn đề gì gai góc, giành
được một thắng lợi gì lớn, được tin một chiến thắng
thì hút một điếu cho vui.
Sự vui mừng của ông không ngăn
cản ông chuẩn bị cho cuộc tấn công mới: Đà Nẵng.
Ông ở quá xa mặt trận Quân
khu 2 (tức Quân khu 1 VNCH) để có thể trực tiếp chỉ huy,
nhưng ông có những ý kiến rõ ràng về cách điều khiển
chiến dịch. Ông đề nghị với Hà Nội (2)
để tướng Lê Trọng Tấn, tổng tham mưu phó quân đội Bắc
Việt làm tư lệnh mặt trận Đà Nẵng.
Bộ chính trị chấp nhận. Tướng
Tấn rời Hà Nội bằng máy bay trực thăng, đặt sở chỉ
huy ở phía tây Đà Nẵng. Những sư đoàn quân Bắc Việt của
tướng Lê Trọng Tấn lúc này ở cách Đà Nẵng 3 cây số.
Thành phố đã bị bắn phá dữ dội.
Mấy giờ trước họ đã chiếm
Hội An. Đó là thị xã thứ 13 Bắc quân chiếm được từ
ngày họ mở chiến dịch Đông-Xuân. (Decent Interval - Frank Snepp)
(1) Tư
lệnh Sư đoàn 3 là Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh.
(2) Từ
Tổng hành dinh do tướng Giáp chỉ huy ở Hà Nội, tháng 3-1975,
tướng Lê Trọng Tấn đã được tướng Giáp cử chỉ huy
mặt trận Quảng Đà (Quảng Trị-Đà Nẵng).
Sử lịch
với ngày tháng
Ông Dương
Văn Minh giúp cho Mỹ rút ra khỏi Việt Nam ngày 29-4-1975 khi
ông thay ông Hương. (trước đó một tháng, ngày 29-3-175 Đà
Nẵng thất thủ)
Đúng 10 năm
về trước, ông cũng đã gíúp cho Mỹ vào Việt Nam qua cửa
ngõ Đà Nẵng (1)
năm 1965 khi ông Minh lật đổ ông Diệm.
(1)10
năm về trước, trong buổi họp giữa tướng Dương Văn Minh
và tướng Lâm Văn Phát với tướng Westmoreland và tướng Throckmorton
mùa hè năm 1964 tại phi trường Đà Nẵng.
Sau đó 2 tiểu đoàn TQLC Mỹ
đầu tiên (1.500 TQLC) đổ bộ lên Đà Nẵng: Ngày 8-3-1965.
- :Khi
TQLC Mỹ đã đổ bộ lên Đà Nẵng ngày 8-3-1965, qua hôm sau
chính phủ VN thời Thủ tướng Phan Huy Quát, và Quốc trưởng
Phan Khắc Sử mới biết để vội vàng thảo thông cáo chính
thức mời quân đội Mỹ vào VN tham chiến.
Quân sử ngoại truyện
Tướng Lê Trọng Tấn là tư
lệnh mặt trận Quảng Đà. Ngay khi chiến sự ở Quảng Trị
còn đang tiếp diễn, ông đã gửi điện cho Quân đoàn 2 yêu
cầu chuẩn bị hỏa lực đánh Đà Nẵng. Theo cuốn hồi ký
Tổng
hành dinh trong mùa xuân toàn thắng của tướng Võ Nguyên
Giáp, ngày 26-3-1975, tướng Tấn, tướng Cao Văn Khánh và một
số sĩ quan cao cấp khác được triệu tập để bàn kế hoạch
giải phóng Đà Nẵng. Dựa trên lực lượng địch dồn về
Đà Nẵng, theo Lê Trọng Tấn: Thời gian chuẩn bị phải mất....5
ngày.
Tuy nhiên lúc đó Võ Nguyên Giáp
cho rằng khả năng địch tử thủ thật sự khó xảy ra nên
ông lệnh cho cục quân báo nghiên cứu nếu địch rút Đà
Nẵng thì rút nhanh nhất trong mấy ngày.Ngày 27-3 cục quân
báo báo cáo khả năng địch rút khỏi Đà Nẵng nhanh nhất
là trong 3 ngày. Võ Nguyên Giáp quyết định phải chuẩn bị
phương án đánh trong 3 ngày phòng trường hợp địch rút vào
phía trong. Cũng theo hồi ký của tướng Giáp, tướng Tấn
viết:
Đánh Đà Nẵng nên để cho tướng
Nguyễn Hữu An đánh theo đường số 1 về Mỹ Khê (phía đông
Đà Nẵng) bịt đường rút lui bằng đường thủy của địch.
(Tổng hành dinh trong mùa xuân
toàn thắng - Võ Nguyên Giáp)
- :
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhân đà
thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng
Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính
ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí
Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm tư lệnh, Lê Trọng Tấn,
Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm phó tư lệnh, chỉ huy 5 cánh
quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào
giải phóng Sài Gòn. (Hồi ký chiến trường - Nguyễn Hữu
An)
- : Đại
tướng Võ Nguyên Giáp đã
tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn
địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược,
Ông xin ý kiến Bộ chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến
Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống
phòng ngự của Việt Nam Cộng Hòa tại Buôn Ma Thuột. (Hồi
ký chiến trường - Nguyễn Hữu An)
Ngày
thứ 16 : 25-3-1975
Đà Nẵng
di tản
Ngày 21-3 đến
23-3, Bắc quân mở các cuộc tấn công vào một số vị trí
phòng ngự của các đơn vị VNCH tại Huế,
Ngày 25-3, các
đơn vj VNCH tại Huế triệt thoái, rút về Đà Nãng.
Ngày 28-3, tại
Đà Nẵng, Trung tướng Ngô Quang Trưởng họp khẩn tại bộ
tư lệnh quân đoàn. Nhiều biện pháp được gấp rút tái
tổ chức các đơn vị các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng
Tín, Quảng Nam rút về. Màn
đêm vừa buông xuống, Bắc quân kéo pháo 130 ly từ đèo Mũi
Trâu để bắn vào phi trường, căn cứ hải quân. Một thành
phần pháo binh khác từ hướng thung lũng Phước Tường cũng
bắt đầu pháo kích vào bộ tư lệnh Quân đoàn I và nhiều
căn cứ quân sự khác. Bắc quân cũng đã pháo kích dồn dập
vào khu vực dân cư Đà Nẵng.
(Trần Khiêm)
Trần Khiêm, vào thời điểm
này là phóng viên làm việc cho hãng truyền hình ABC, là phóng
viên duy nhất còn sót lại tại Đà Nẵng vào những ngày cuối
cùng của tháng 3 năm 1975.
Một buổi sáng mùa Thu có
nắng vàng rực rỡ
Một buổi sáng mùa Thu có nắng
vàng rực rỡ, ba anh TQLC già ngồi nhâm nhi nước trà tại
Factory Cafe là tôi, Trần Như Hùng và Cao Xuân Huy, trên bàn
thấy một tờ báo cũ đăng bài "Tại Sao Tôi Bỏ QKI" mà
tác giả là Trung Tướng Ngô Quang Trưởng, chúng tôi chia
nhau đọc, Tướng Trưởng phủ nhận tất cả tội lỗi của
các tướng lãnh QĐ1 bị kỷ luật và đổ tội làm mất QKI
cho Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Đọc xong tôi thắc mắc
hỏi hai đồng đội:
- Quân Đoàn I có quân số
tương đương với địch, không đánh một trận nào cấp
trung đoàn mà lại tan hàng chỉ trong có năm ngày, vậy mà
không ai có lỗi?
Cao Xuân Huy cười rồi nói:
- Chỉ có mấy thằng lính là
có tội thôi!
Đây cũng là câu cuối cùng
Cao Xuân Huy nói với tôi vì chỉ mấy tuần sau anh đã lên
tàu suốt để trở về bãi biển Thuận An tìm lại khẩu súng
đã bị gẫy tháng Ba năm 1975.
(Viết cho mùa đại tang của
binh chủng TQLC - Phạm Vũ Bằng)
Chữ nghĩa
của một thời chinh chiến
trong quán
nhậu
Trước 75,
miền Nam có những câu "thành ngữ"
về thuốc
lá xuất xứ từ quán nhậu, như:
Bastos :
Biết
anh sầu, tôi ôm sát.
Góp nhặt...ghi
chép...
Tại Vùng 1
ngoài Quân đoàn 2 với 3 sư đoàn 304, 324, 325 Bắc quân còn
có...
- Vì không
còn phải đánh nhau ở Huế, Quân đoàn 1 (từ Ninh Bình kéo
vào) được lệnh quay ngược về lại Quảng Trị theo đường
Trường Sơn vào nam đánh Sài Gòn.
- Sư đoàn
2 Bắc quân với nòng cốt là Trung đoàn 31 và 38, cộng với
Lữ đoàn 52 cùng một tiểu đoàn đặc công tăng cường. Cánh
quân này thuộc Quân đoàn 3 Tây Nguyên (hay Quân khu 5) từ Quảng
Tín và Quảng Ngãi xua quân lên hướng bắc đánh Đà Nẵng.
- Khoảng tháng
3-1975, Trung đoàn đặc công 116, Lữ đoàn tăng 203 tăng cường
54 xe tăng đã vượt vĩ tuyến 17 qua sông
Thạch Hãn, tiến vào Quảng Trị.
Lạc đạn
Năm 75, đại bác 130 ly của Liên
Xô là súng hạng nhất trên thế giới, nhưng ưu thế pháo
binh của Bắc quân thực tế không hẳn là đại bác 130 ly,
mà là hỏa tiễn chiến thuật 122 ly và 107 ly (Katyusa). Trái
hỏa tiễn 107 ly có thể bắn xa 6 cây số, 122 ly 9 cây số.
Hỏa tiễn Katyusa rất tiện lợi đối với trận địa, trái
đạn được đặt tại một vị trí mật, kích hoả tự động,
khi trái đạn được bắn đi thì người bắn đã rời xa điểm
đặt giàn phóng. Sau đó thì không còn gì nữa cả.
Từ năm 1972, ta phát hiện
Bắc quân trang bị hỏa tiễn tầm nhiệt SA7. Loại hỏa
tiễn này rất gọn nhẹ, ống phóng có cỡ nòng 57 ly được
người xạ thủ vác trên vai, khi xạ thủ bấm cò thì trái
hỏa tiễn rời ống phóng đi với tốc độ 1,25 lần âm thanh.
Do đó máy bay với tốc độ dưới tốc độ âm thanh sẽ bị
hỏa tiễn dò theo luồng hơi nóng rượt theo và phát nổ trong
ống xả khói máy bay.
Vì sao tôi bỏ Quân đoàn I
(...) Ngày 13-3-1975, được lệnh
vào Sài Gòn họp, tôi (Ngô Quang Trưởng) vào đến Sài Gòn
nhưng với sự ngạc nhiên là chỉ có mình tôi vào gặp tổng
thống và thủ tướng mà thôi. Ngoài tôi ra, không có ai khác.
Thường lệ, khi được lệnh về Sài Gòn họp thì đều có
đầy đủ mặt các vị tư lệnh quân đoàn và tư lệnh các
quân binh chủng khác. Tôi thắc mắc lo lắng. Nhưng khi tổng
thống Thiệu cho biết ý định của ông là phải rút bỏ Quân
đoàn I ngay hôm nay thì tôi mới vỡ lẽ, vì lệnh ra quá đột
ngột ngoài sức tưởng tượng của tôi. Thật ra, lúc đó
tình hình tại Huế và Đà Nẵng tuy có hơi nặng nề vì địch
tấn công liên tiếp, tuy nhiên tôi đủ sức chống giữ và
sẽ tăng cường sư đoàn dù cùng với thủy quân lục chiến
ra những vùng đó để lấy lại ưu thế. Tôi trình bày cặn
kẽ những ý kiến cũng như dự định của tôi lên tổng thống
và thủ tướng nhưng không được chấp thuận. Lệnh bất
di bất dịch là: Phải rút Quân đoàn I càng sớm càng hay.
(...)
(Lê Bá Chư)
Can trường trong chiến bại
Qua tác phẩm Can trường trong
chiến bại, dường như tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại là
người đầu tiên đề cập rất chi tiết đến biến cố cách
đây 32 năm tại miền Nam Việt Nam trong tác phẩm của mình,
một biến cố làm tê liệt một cách vô lý những bộ phận
chỉ huy của những binh chủng trong một thời gian đủ nguy
hiểm cho việc phòng vệ Vùng 1 chiến thuật. Cái khéo của
cựu Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại là ông tường thuật
ngắn gọn và mạch lạc và loại bỏ được cảm tính của
chính ông đối với các sự kiện, theo lối ghi nhận của
ông.
Ông đã để cho người đọc
tự tìm lấy kết luận của họ.
Cách đây 32 năm, tôi cho rằng
vào thời điểm chênh vênh đó một phần lớn là do tình hình
quân sự biến đổi khá nhanh. Sự thất thủ Phước Long, rồi
một chuỗi những sai lầm của vị tổng tư lệnh quân đội
đương thời là Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu khi ông ra lệnh
cho Quân đoàn II và Quân đoàn I rút lui khỏi Pleiku, Kontum và
Quảng Trị, Huế, Đà Nẵng đã khiến các con cờ domino lần
lượt ngã theo.
Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại
đã để từ trang 197 đến những trang cuối của cuốn sách
để mô tả tình hình rối loạn trong vùng trách nhiệm của
ông: Vùng 1 duyên hải. Biến cố ở Quân đoàn I trước khi
miền Nam Việt Nam rơi vào tay Hà Nội đã được nói tới
nhiều, nhưng phần đông tác giả viết hồi ký chỉ lục tìm
đống dữ kiện liên quan để mong đưa ra những huyền thoại.
Ngoại trừ Hồ Văn Kỳ Thoại, chưa có tác giả nào chịu
khó lục săn đuổi, hệ thống hóa và để mắt sâu vào chi
tiết hiện thực của tình hình lúc đó ở Vùng 1 chiến thuật.
Tuy nhiên, cũng chính vì lối làm việc kỷ luật, tỷ mỉ và
kiên nhẫn dựa trên nhật ký hải hành, những điều ông viết
ra có thể làm cho một số nhân vật được nêu tên không
hài lòng, nhưng tác giả cho rằng ông cần phải trả sự
thật về cho lịch sử. Lịch sử
có tiếng nói riêng của nó. Chính trong dữ kiện mà tác giả
đề cập trong tác phẩm, người đọc có thể tìm thấy nhiều
con người còn trái tim nồng ấm với đất nước và ngay cạnh
đó không thiếu những người vì quyền lực, công danh dễ
biến thành tượng đá.
(Vũ Ánh)
Bên lề
trận chiến
Tướng Trưởng
rất ít nói, chính bà Trưởng cũng cho tôi biết ông chưa bao
giờ viết bài báo nào. Mới đây, sau tang lễ tướng Trưởng,
tôi hỏi bà về bài báo "Tại sao tôi bỏ Quân đoàn I" có
phải ông viết không? Bà Trưởng cho biết bài đó không phải
của tướng Trưởng!
Bà cho biết
bài đó do nhà báo Lê Bá Chư ở Washington D.C. viết rồi đề
tên tướng Trưởng vào. Bà tiếp: "Sau khi bài đó được đăng
(1),
ông Lê Bá Chư đã viết thư xin lỗi tướng Trưởng.
Bà cho hay tiếp:
"Lá thư chị còn giữ ở nhà đây này".
(Nguyễn Tường
Tâm)
Nguyễn Tường Tâm là con Nguyễn
Tường Cẩm, bà Trưởng con Thạch Lam.
(1) ÔngLê
Bá Chư đăng trong Tạp chí Sóng Thần
1999,
kỷ niệm 45 năm thành lập Thuỷ
quân lục chiến VNCH.
Can trường trong chiến bại
Can trường trong chiến bại
ở trang 248 và 249, tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại viết về giây
phút trước khi tư lệnh Quân đoàn I, tướng Ngô Quang Trưởng
rời bỏ chiến trường.
"Tướng Thi (Lâm Quang Thi) đề
nghị với tướng Trưởng cho ông ra một chiến hạm lớn
để thành lập bộ chỉ huy hành quân lưu động cho Quân đoàn
I. Tướng Trưởng chấp thuận. 10 giờ 45 phút (1)
ngày
28-3, tướng Thi và đại tá Sơn rời căn cứ bằng trực thăng
bay ra đáp trên dương vận hạm ngoài vịnh. Ðó là lần chót
mà tướng Trưởng thấy mặt và nói chuyện với tướng Thi
cho
đến khi hai người gặp lại
nhau tại Tổng y viện cộng hòa ở Sài Gòn"
Người đọc có cảm nhận gì
khi đọc lại ghi nhận này? Tác giả bỏ ngỏ kết luận về
những hồi tưởng của ông và để cho người đọc tác
phẩm đưa ra những nhận định riêng của mình. Tướng
Thoại tránh sự lên án và trách cứ. Ông lại càng không muốn
hướng dẫn những suy nghĩ của độc giả vào những ý định,
điều thường thấy trong rất nhiều cuốn hồi ký ra đời
tại hải ngoại. Ðây chính là điểm lôi cuốn người đọc
đi sâu vao những chi tiết nhiều khi rất nhỏ nhưng phản ảnh
được tình hình thực sự ở Quân đoàn I lúc đó.
Ðây, chúng ta hãy đọc một
đoạn khác của hồi ký Can trường trong chiến bại:
Trong lúc tướng Trưởng còn
đang ngồi trong văn phòng tôi thì đại úy Bá, chánh văn phòng
của tôi đi vào phòng và nói nhỏ vào tai tôi rằng có Thiếu
tướng Bùi Thế Lân và đoàn tùy tùng hiện đang ở dưới
ban quân xa của căn cứ hải quân Vùng 1. Tôi chỉ thị đại
úy Bá mời tướng Lân vào văn phòng tôi. Vài phút sau đó,
đại úy Bá trở vào văn phòng tôi nói Thiếu tướng Lân từ
chối lời mời của tôi. Tướng Lân đã cho tham mưu trưởng
của ông là Ðại tá Quế, người đã có mặt tại trung tâm
hành quân của bộ tư lệnh Vùng 1 duyên hải từ cả tuần
lễ trước để bảo đảm rằng hải quân không bỏ quên thủy
quân lục chiến.
Vài phút sau, tôi nhận được
điện thoại của Chuẩn tướng Nguyễn Văn Ðiềm. Vì quyết
định bỏ Huế xảy ra quá đột ngột, tướng Ðiềm đã cho
lệnh toàn bộ Sư đoàn 1 tan hàng. Tướng Ðiềm nói với tôi
một cách tuyệt vọng: Anh Thoại, tôi đã mất hết sư đoàn,
bây giờ chỉ còn gia đình tôi, vợ và mấy đứa con, tôi
xin anh cho tôi gửi gia đình tôi nhờ anh lo hộ. Tôi nói với
ông, cứ đưa gia đình qua căn cứ hải quân để gặp tôi.
Ðộ một tiếng đồng hồ sau thì đại úy Bá vào văn phòng
báo cáo là gia đình tướng Ðiềm đã vào căn cứ và hiện
đang ở ban quân xa...
(...)
(1) Buổi
họp của Quân đoàn I ở căn cứ hải quân Tiên Sa chấm dứt:
10
giờ 30 tối ngày 28-3.
Vì sao tôi bỏ Quân đoàn I
(...) Hôm sau trong buổi họp tại
Bộ tổng tham mưu, tôi có nói rằng: Việc phạt tướng
Thi cùng hai tướng Thoại và Khánh và không đúng, họ chỉ
là thuộc cấp của tôi, họ chỉ làm theo chỉ thị của tôi
mà thôi. Họ không có tội gì cả, nếu có phạt thì xin phạt
tôi đây này. (...)
(Lê Bá Chư)
Can trường trong chiến bại
Ở trang 247, tác giả Hồ Văn
Kỳ Thoại mô tả về buổi họp cuối cùng quyết định rút
lui toàn diện quân lực VNCH ra khỏi Quân khu I. Quyết định
này diễn ra trong hầm chỉ huy của bộ tư lệnh Vùng 1 duyên
hải:
Vì hầm chỉ huy chỉ chứa khoảng
10 người có thể làm việc được, nên tôi ra lệnh ngoài
các tướng lãnh và Ðại tá Nguyễn Thế Lương (TQLC, bị thương),
tất cả những sĩ quan khác phải sang hầm bên cạnh. Có mặt
các Trung tướng Ngô Quang Trưởng, Lâm Quang Thi, Bùi Thế Lân,
Nguyễn Duy Hinh và tôi. Vắng mặt trong buổi họp gồm tướng
Ðiềm tư lệnh Sư đoàn 1 được tướng Trưởng chỉ định
làm tổng trấn Ðà Nẵng đang ở tại đặc khu, Tướng Khánh,
tư lệnh Sư đoàn 1 Không quân không rõ ở đâu vì phi trường
Ðà Nẵng đang bị pháo kích, Thiếu tướng Hoàng Văn Lạc
tư lệnh phó Quân khu I đi công tác vài ngày trước ở Saigon
rồi
ở lại đó luôn.
Khi các tướng lãnh vào hầm
xong, trung tướng Trưởng tóm lược tình hình và chỉ thị
như sau:
- Thiếu tướng Bùi Thế Lân
cho xuống tầu Lữ đoàn 468 TQLC đang đóng ở đèo Hải Vân
vì vậy phải chuyển xuống Nam Ô đúng 6 giờ sáng hôm sau.
Lữ đoàn 369 ở Ðại Lộc rút về để lên chiến hạm cùng
Lữ đoàn 258 tại Non Nước.
- Thiếu tướng Nguyễn Duy Hinh
trở về Sư đoàn 3 BB sắp xếp việc rút sư đoàn về bố
trí tại vùng Horseshoe gần Thu Bồn.
Tướng Hinh rất ngạc nhiên,
vì ông không nghĩ rằng ông được gọi đến để nhận lệnh
rút quân vì thâm tâm ông nghĩ rằng sang họp là để bàn về
việc phòng thủ Ðà Nẵng. Cho nên ông suy nghĩ một hồi lâu
rồi nói: Xin trung tướng cho tôi 72 tiếng đồng hồ mới chuẩn
bị kịp. Trung tướng Trưởng làm thinh. Các tướng lãnh khác
chau mày để báo cho tướng Hinh biết là điều đó không thể
được. Tướng Hinh mặc cả xuống còn 48 tiếng. Tướng Trưởng
làm thinh. Sau cùng tướng Hinh xin 24 tiếng. Không ai nói gì
hết.
Tôi thấy bối rối quá, nên
chỉ vắn tắt với thiếu tướng Hinh để ông hiểu rõ càng
sớm càng tốt: Thiếu tướng hãy sắp xếp công việc sư đoàn
rồi thiếu tướng cùng bộ tham mưu bay ra bãi Bắc lúc 4 giờ
sáng mai, tôi sẽ cho tầu vô đón thiếu tướng. Vị tư lệnh
Sư đoàn 3 BB nhìn tôi sững sờ biết là tình hình tuyệt vọng.
Ông chào tướng Trưởng và ra trực thăng về bộ tư lệnh
Sư đoàn
3 ở Hòa Khánh.
Phó đề đốc Thoại ra lệnh
cho các chiến hạm trực thuộc thi hành việc rút sư đoàn
TQLC và phối trí yểm trợ bằng hỏa lực cần thiết cho việc
rút quân này. Cuộc họp trong hầm chỉ huy tại căn cứ hải
quân Tiên Sa chấm dứt vào lúc 10 giờ 30 ngày 28-3-1975...
(...)
Bên lề
trận chiến
Trong một cuộc
phỏng vấn bà Nguyễn Tường Nhung, phu nhân cố Trung tướng
Ngô Quang Trưởng cho hay: Về đến Bộ tổng tham mưu, Trung
tướng Trần văn Đôn, tổng trưởng quốc phòng cho bắt nhốt
tướng Phú, tướng Thi, tướng Thoại và tướng Khánh.
Riêng tướng
Trưởng không bị nhốt như ông tự nguyện vào ở chung với
các tướng trên.
(Nguyễn Tường
Tâm)
Can trường trong chiến bại
Sau cuộc họp tướng Trưởng
và đại tá Phước, không đoàn trưởng không đoàn trực thăng
bay lên đài kiểm báo Sơn Chà. Tại đây ông gặp một số
sĩ quan trong đó có tướng Khánh, tư lệnh Sư đoàn 1 Không
quân. Tướng Trưởng tóm tắt quyết định của ông cho các
vị này nghe. Tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại viết ở trang 254
và 255 nói về điều gọi là "cuộc tự thoát" của tướng
Ngô Quang Trưởng như sau: Ðến Non Nước, sau khi rời trực
thăng, tướng Trưởng và tướng Khánh vào văn phòng khoảng
1 tiếng đồng hồ, rồi tướng Khánh trở ra sân trực thăng
nói lại với các vị đại tá là tướng Trưởng nói: Các
anh không còn nhiệm vụ gì nữa, các anh tùy nghi tìm phương
tiện ra tàu. Tướng Khánh và các vị này sử dụng chiếc
trực thăng duy nhất còn lại.
Tướng Trưởng quyết định
ở lại một mình trong trại TQLC ở Non Nước. Ông đưa phương
tiện di chuyển (trực thăng) duy nhất còn lại của ông cho
tướng Khánh. Sau đó tướng Trưởng lấy xe jeep có tài xế
và quân cảnh hộ tống đi ra khỏi doanh trại đến tòa Tổng
giám mục địa phận Ðà Nẵng để thăm Ðức Cha Phạm Ngọc
Chi và trở về khoảng 1 tiếng đồng hồ sau đó...
Sáng lại, 3 hải vận hạm HQ
401, 402 và 404 đến bãi biển Non Nước, vì không liên lạc
được bằng truyền tin nên dùng đèn ra dấu lên bờ để
đón Lữ đoàn 369 TQLC từ Ðại Lộc rút về. Ðại tá Trí
tư lệnh phó dùng 2 xe jeep và dùng đèn xe để xác định vị
trí cho chiến hạm ủi vào. Sau đó, vào khoảng 10 giờ 30
sáng ngày 29-3-1975, đại tá Trí mời tướng Trưởng ra
bờ biển và đề nghị ông nếu quyết định đi thì nên bơi
ra gấp chiến hạm ngay vì dân đã ào tới từ phía xa,
sợ không còn phương tiện nào khác. Tướng Trưởng, sức
khỏe lúc bấy giờ có vẻ yếu nhiều có lẽ vì bao nhiêu
đêm mất ngủ, nên đại tá Trí tròng một áo phao vào người
ông. Tướng Trưởng thốt ra một câu, không biết ông muốn
nói với ai: Coi đây như là một cuộc tự thoát.
Rồi cả hai cùng bơi ra biển.
Tướng Trưởng và đại tá Trí lên hải vận hạm HQ 401, rồi
sau đó chuyển qua HQ 404. Tư lệnh quân đoàn và vị tư lệnh
phó TQLC rời chiến trường cùng với 2 lữ đoàn TQLC từ bãi
biển Non Nước...
(...)
Giã từ vũ khí
Năm 2009, anh mất, ý nguyện đó
đã được gia đình thực hiện. Theo lời Nhung (con Thạch Lam,
vợ tướng Trưởng) kể thì anh Trưởng có một người tài
xế sống ở Việt Nam mà Nhung vẫn thường xuyên liên lạc
và giúp đỡ từ nhiều năm nay. Chính chú tài xế ấy đã
đón Nhung và các con Nhung tại phi trường Tân Sơn Nhất khi
Nhung mang bình tro anh Trưởng về Việt Nam.
Thật là một điều lạ lùng
là nhà chú tài xế đó lại ở trên đường Thạch Lam, một
con đường mới mở sau này khá lớn và dài ở trong Chợ Lớn.
Tôi có hỏi Nhung là chú ấy có biết Nhung là con của Thạch
Lam hay không Nhung trả lời là chú ấy không biết và Nhung
cũng không nói.
Rồi sau đó tất cả bay ra Huế
thuê xe lên đèo Hải Vân. Đến gần đỉnh đèo nơi một khúc
ngoặt nguy hiểm có một cái miếu nhỏ thờ những người
bị tai nạn chết ở đó. Nhung quyết định chọn chỗ này
để rải tro. Suốt ngày hôm đó trời âm u giông gió. Mấy
mẹ con và chú tài xế khấn nguyện trước miếu. Một lát
lâu sau khấn xong ngửng lên thì trời đất bỗng dưng quang
đãng hẳn lên mây tan và trời trong xanh. Vợ con anh Trưởng
từng người một kể cả người tài xế trung thành lần lượt
rải tro theo gió, tro của vị tướng lừng danh của quân sử
VNCH bay trên ngọn đèo hùng vĩ Hải Vân, nơi mà chú tài xế
kia đã nhiều lần chở vị tướng ba sao qua lại trên trục
lộ Huế-Đà Nẵng, ngọn đèo đã đưa vị tướng chấn lĩnh
vùng địa đầu lên đỉnh vinh quang và
cũng là ngọn đèo đã kéo vị
tướng ấy xuống chốn cùng thảm bại.
Rải tro theo gió... trên đỉnh
đèo Hải Vân... ý nguyện của người đã khuất gợi lên
trong tôi hình ảnh vừa bi hùng lại vừa lãng mạn, như là
sự kết hợp tuyệt vời giữa mối tình của viên dũng tướng
với cô con gái đầu lòng của nhà văn Tự lực văn đoàn.
(Rải theo gió - Nguyễn Tường
Thiết)
- :
Tướng Ngô Quang Trưởng mất ngày 22 tháng 1 năm 2009.
Can trường trong chiến bại
Ở trang 256, 257 và 258, tác giả
tiếp tục tường thuật những diễn biến sau khi tướng Trưởng
và
những tướng lãnh khác đã an
toàn trên hải vận hạm HQ 404:
"...Bộ tư lệnh hải quân và
tất cả các đơn vị đều nghĩ tư lệnh hải quân Vùng 1
duyên hải đang có mặt trên tuần dương hạm Trần Bình Trọng
(HQ 5) như sự thực thì tôi và tư lệnh TQLC Bùi Thế Lân đang
còn tìm đường lên Sơn Trà để tìm cách ra bãi biển phía
đông tìm phương tiện ra chiến hạm. Ngay khi đó, tại trung
ương, phủ tổng thống đánh một công điện tối mật gởi
cho tư lệnh Quân đoàn I qua hệ thống truyền tin của tuần
dương hạm Trần Bình Trọng... Hạm trưởng (HQ5) cho hạm phó
và sĩ quan truyền tin mang tay (bản dịch mã) sang hải vận
hạm Hương Giang HQ 404 để trao tận tay cho tướng Trưởng
bản công điện này. Khi lên HQ 404, Trung úy Hồ Hải, sĩ quan
truyền tin của HQ 5 được sĩ quan trực của HQ 404 hướng
dẫn xuống phòng ngủ đoàn viên và gặp tướng Trưởng ở
đó. phòng ngủ dành cho từ cấp thủy thủ tới hạ sĩ nhất.
Tướng Trưởng từ chối nghỉ tại phòng của hạm trưởng
theo đề nghị của chính hạm trưởng. Ông
nằm giường treo, mặc đồ thủy
thủ xanh, áo bỏ ngoài, không mang cấp hiệu.
Nội dung bản công điện từ
phủ tổng thống như sau...
Lệnh của tổng thống: Lệnh
tử thủ vẫn còn hiệu lực. Mọi sự bỏ tuyến đều qui
trách cho tư lệnh và đơn vị trưởng. Trung tướng Trưởng
vừa đọc vừa khỏ nhẹ cây viết trên bàn. Ðọc xong công
điện, ông bỏ vào túi áo và bảo sĩ quan trực gọi điện
thoại cho ông nói chuyện với hạm trưởng. Khi bắt máy nói
chuyện với hạm trưởng, ông nói: Hạm trưởng, cho chiến
hạm khởi hành đưa tôi về Sài Gòn ngay lập tức. Sau khi
hạm trưởng báo cáo chỉ thị của tướng Trưởng thì HQ
404 nhận được một công điện từ bộ tư lệnh hải quân
đặt HQ 404 dưới quyền điều động của Trung tướng Ngô
Quang Trưởng...".
Có lẽ những đoạn trên là
những chi tiết đáng nhớ nhất của bi kịch tháng Tư cách
đây 32 năm tại một trong những vùng chiến thuật quan trọng
nhất của VNCH. Bi kịch đó vừa ngậm ngùi, vừa hùng tráng,
bởi vì lẫn trong cơn gió lốc đó có những con người, can
đảm thì nhiều nhưng hèn nhát, thiếu sáng suốt và mất bình
tĩnh cũng không thiếu. Chỉ có những người lính trận, từ
tướng cho đến quân, từng sống thực với khói lửa súng
đạn, từng phải cắn răng chịu đựng những thương tổn
đến từ bên ngoài hay từ đầu não của một guồng máy mới
hiểu, mới thông cảm nổi những hoàn cảnh và điều kiện
mà những đồng đội mình phải đối phó.
(...)
Bại binh chi tướng bất khả
ngôn dũng
Vong quốc chi đại phu bất
khả ngôn trí
Với bản tính thích tìm căn
nguyên của lịch sử, người viết mạo muội hỏi tướng
Trưởng về nội dung những đối thọai giữa ông và tổng
thống Thiệu vào tháng 3-1975. Nhưng tướng Trưởng tránh không
trả lời thẳng những câu hỏi đó. Ông chỉ nói: Cũng không
có gì để nói, tất cả đã được nói hết rồi, những
gì anh em chúng ta làm trong quá khứ đều có ý nghĩa. Vài phút
sau người viết lại cố gắng "lái" về hai câu hỏi nguyên
thủy. Lần này ông cũng tránh trả lời.
Nhưng lần này ông nói cho người
viết nghe về triết lý của một người quan võ Á Đông. Đại
khái tướng Trưởng muốn nói đến câu: "Bại binh chi tướng
bất khả ngôn dũng. Vong quốc chi đại phu bất khả ngôn trí"(Tướng
bại trận thì không thể nói mình anh dũng. Bậc trí sĩ đại
phu khi đã mất nước thì không thể nói mình có mưu lược).
Với tất cả sự kính trọng
của một hậu sinh đối với Trung tướng Ngô Quang Trởng,
người viết xin kính dâng lên vị tướng quá cố đôi dòng
tưởng niệm này.
(Vị tướng của mùa hè đỏ
lửa năm 1972 - Nguyễn Kỳ Phong)
Can trường trong chiến bại
Ðến đây, tôi muốn trích một
đoạn này ở trang 262 của Can trường trong chiến bại
nói đến hoàn cảnh của tướng Bùi Thế Lân và Phó đề
đốc Hồ Văn Kỳ Thoại vào lúc cả hai ông và đoàn tùy tùng
đang loay hoay tìm đường ra bãi Bắc Tiên Sa để kiếm phương
tiện lên chiến hạm:
Chúng tôi đi khoảng một tiếng
đồng hồ thì không còn thấy lối đi nữa và mọi người
có vẻ thấm mệt. Sự thật thì chúng tôi không còn biết
chúng tôi đang ở đâu. Tôi xoay qua hỏi tướng Lân có địa
bàn không để tôi định hướng mà đi ra bãi Bắc. Ông trả
lời không ai có cả. Tôi bèn trêu ông một câu: Lạ nhỉ,
TQLC đi đánh giặc mà không có địa bàn?. Tướng Lân thật
nhanh trí đáp lại ngay: Ông là chỉ huy trưởng đặc khu Tiên
Sa mà đi lạc trong đặc khu của ông mới là lạ...
Xin đọc một đoạn khác trên
trang 264 nói về lúc tác giả và tướng Bùi Thế Lân được
một hải thuyền đến cứu khi đã tuyệt vọng:
Một lúc sau có tiếng ghe máy
chạy rất gần bờ dường như đang giảm tốc độ. Trời
vẫn còn tối, Trung tá Huỳnh Duy Thiệp la lớn: Có phải hải
quân không?. Ở ngoài phía hải thuyền có người trả lời:
Phải. Trung tá Thiệp gọi ghe vào và nói có đô đốc Thoại
trong bờ. Thiếu tá Hy (trên hải thuyền) nghĩ là lỡ tôi bị
bắt và bị địch uy hiếp thì sao nên hét to: Yêu cầu tư
lệnh lên tiếng để chúng tôi nhận diện. Lúc ấy, thật
ra tôi bị khan tiếng từ ba bốn ngày rồi vì nói chuyện suốt
ngày đêm trên máy truyền tin nên không nói lớn tiếng được.
Trung tá Thiệp bèn nói ngay: Ông Hy ơi, ổng rồi đó, cứ vào
đi, tôi là trung tá Thiệp đây. Thiếu tá Hy cho hải thuyền
vào nhưng không vào sát được, trên ghe thẩy xuống một số
áo phao và trung tá Thiệp đề nghị tôi và tướng Lân hãy
lội ra hải thuyền trước để lo việc rút TQLC và bảo tất
cả quân nhân còn lại nên chờ tại bãi để tầu khác vào
bốc. Và để trấn an toán quân dân còn lại (trên bãi), ông
Thiệp tình nguyện ở lại để đi với các anh em binh sĩ.
Thiếu tá Hy phải dùng thêm ghe dân để ra vào tới 4 chuyến
mới bốc hết thương binh và toán quân dân cùng đi theo tôi
và tướng Lân...
(...)
Lạc đạn
Nhà báo Alan Dawson, trong tập
sách 55 ngày sụp đổ của miền Nam (The Fall of South Viet
Nam, trang 175) viết: Khoảng 5 giờ chiều, tướng Trưởng mời
các tướng Lân, phó đề đốc Thoại đến họp tại bộ tư
lệnh TQLC ở Non Nước. Tại đây có cả ông Albert Francis,
tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng, bàn về việc rút các lữ
đoàn TQLC còn lại (LĐ458 và 369) cùng bộ chỉ huy ra khỏi
Đà Nẵng. Sau cuộc họp, tướng Trưởng tiếp tục dùng
trực thăng bay đi thị sát, phó đề đốc Thoại bay về căn
cứ hải quân có ông Francis cùng đi theo. Tại căn cứ hải
quân, ông Francis cùng 2 nhà báo Úc đã dùng chiến đỉnh riêng
của phó đề đốc Thoại để ra tàu HQ 5 ngoài khơi.
Can trường trong chiến bại
Khi đọc tác phẩm viết cho buổi
giới thiệu sách Can trường trong chiến bạicủa tác
giả Hồ Văn Kỳ Thoại. Tôi không bao giờ bỏ sót bất
cứ một trang nào, ngay cả đến chú thích và mục lục tham
khảo. Vì thói quen này tôi phát giác ra điểm khá lý thú.
Có những lúc vì cố tránh để những cảm nghĩ vào tường
thuật, tác giả Hồ Văn Kỳ Thoại đã đem lời của "người
xưa" để giải tỏa cho những khắc khoải của mình, chẳng
hạn nhưng trang 248, ông đem lời của Tôn Tử ra để nói về
quyết định của vị tư lệnh Quân khu I mà ông quí mến:
Một Tướng, mà khi tiến quân không có mục đích lấy tiếng
cho cá nhân mình và khi rút lui không lo đến hình phạt sẽ
dành cho mình, mà mục đích duy nhất chỉ để bảo vệ dân
và Vua, vị Tướng đó là viên ngọc quí của quốc gia.
Hoặc ở trang 258:
Ðôi khi lệnh của Vua không
cần phải được thi hành (Tôn Tử). Và trang 292, tác gỉa
mượn một ngụ ngôn của người Ý. Ông đã dùng nguyên cả
một trang chỉ để biến ý nghĩa của ngụ ngôn thành một
thư pháp:
Sau một ván
cờ
Tất cả các
con cờ
Vua, tướng,
sĩ, tốt
Đều trở
vào năm trong hộp
Vì thế, tuy là một hồi ký
viết lại những sự kiện trong muôn vàn sự kiện dẫn đến
tấn bi kịch 30-4-1975, nhưng đọc hết những trang cuối cùng,
khi gấp cuốn sách lại, thấy lòng mình thanh thản. Thanh thản
vì cho tới nay, qua một hồi ký nữa, chúng ta đã có thêm
những bằng chứng là trong nguy khốn và sau thất bại, trong
quân lực VNCH vẫn không thiếu những gương quả cảm, những
cấp chỉ huy bản lãnh, gan dạ, bình tĩnh và dám hy sinh trong
cơn phong ba bão táp.
Tôi cũng không muốn nói ra những
cảm nghĩ riêng của mình đối với các nhân vật đã được
nêu trong Can trường trong chiến bại. Một số những
nhân vật này, tôi đã từng biết trong 7 năm trời lặn lội
để tường thuật các mặt trận ở Quân khu I. Cho nên, với
cá nhân tôi, các tướng Trưởng, Khánh, Lân, Ðiềm, Hinh, Thoại...
vẫn là những người lính mà tôi ngưỡng mộ. Cả một đời
quân ngũ lừng lẫy như họ mà chỉ vì những quyết định
chính trị sai lầm từ trên thượng tầng quốc gia mà một
sớm một chiều họ vị đẩy vào cái thế của những bại
tướng.
Những dữ kiện quan trọng trong
Can
trường trong chiến bại của cựu Phó đề đốc Hồ Văn
Kỳ Thoại, tôi mới trích ra có một phần rất nhỏ. Cho nên
nó chỉ phản ảnh được cái nền của một câu chuyện. Và
nhất là ở chương "Sau cuộc chiến", rất ngắn. Tôi chú ý
đến chương này, vì coi nó là cảm nghĩ mà ông muốn gửi
tới người đọc: Dù thắng hay bại, trong cuộc một cuộc
chiến, tất cả các chiến sĩ hai bên đều làm nhiệm vụ
của mình theo lý tưởng khác nhau. Sau cuộc chiến, những chiến
sĩ dù hy sinh cho một lý tưởng nào đó, khi chết trong bộ
quân phục đều là những anh hùng thì khi đã nằm xuống phải
được sự kính nể của những thế hệ sau. Hai trăm năm nữa,
con cháu chúng ta khi học lịch sử Việt Nam sẽ không khen người
thắng, không chê kẻ bại, nhưng sẽ ghi nhận sự can trường
hay hèn nhát của những người tham chiến.
Vì thế, những thế hệ mai sau
sẽ không quên những anh hùng đã dũng cảm trên chiến trường
Thiếu tá Hải Quân Lê Anh Tuấn (1)
vào ngày cuối cùng của trận chiến: Ngày 30-4.
(Vũ Ánh)
- :
Phó đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại, cháu gọi nhà văn Hồ Biểu
Chánh là ông nội,
(1) Xem
"Hai ngày cuối với Hải quân" của tác giả Phan Lạc Tiếp.
ở tiết mục Ngày
thứ 52 – Sài Gòn ngày dài nhất: 30-4-1975.
Đà Nẵng, di tản buồn
Sau khi phi trường Đà Nẵng bị
pháo kích và trở thành bất khiển dụng, các trực thăng còn
lại đều về đáp tại phi trường Non Nước và không còn
nhận được lệnh từ các cấp chỉ huy! Các phi công tùy nghi
hành động và tự quyết định. Phi công Song Chùy ghi lại:
Cuối cùng mệt mỏi vì cả ngày
chưa ăn uống gì, tôi đáp xuống phi trường Non Nước tắt
máy, tìm giấc ngủ dưới bụng phi cơ trên bãi cỏ bên cạnh
phi đạo. Sáng 29-3, sau giấc ngủ ngon lành, tôi thức dậy
khi trời mờ sáng thì bạn bè đã bỏ đi hết. Trên phi đạo
Non Nước còn mấy chục trực thăng xếp hàng dài như sắp
cất cánh hành quân mà không có pilot.
Phi công Song Chùy sau đó tìm
mọi cách đổ thêm xăng, kể cả dùng ruột xe làm ống dẫn
và cuối cùng cất cánh rời kho dầu Chợ Mới lúc 5 gìờ
chiều. Có thể nói đây là chiếc trực thăng cuối cùng của
SĐ1/KQ, mang số 107, rời không phận Đà Nẵng.
Ngày 28-3, vì địch gia tăng pháo
kích, Ch/tướng Khánh, sư đoàn trưởng SĐ1/KQ đã ra lệnh
cho tât cả mọi phi cơ còn có thể bay được, rời Đà Nẵng
càng sớm càng tốt. Trong ngày 28 và sáng 29, các phi công đã
đưa được 130 phi cơ về TSN, tuy nhiên SĐ1/KQ đã mất đến
180 phi cơ (bị để lại hoặc bị rớt trong khi di tản) trong
đó có trọn hai phi đoàn C7 Caribou đang đình động và một
số A37. Theo phi công Phạm Văn Cầu, PĐ427, thì một số Caribou
khả dụng đã về được Sài Gòn, trong đó có chiếc Caribou
do chính ông điều khiển. Chiếc C7 này bay được về TSN hoàn
toàn không có vô tuyến liên lạc vì phi hành đoàn không ai
mang theo headset, phòng lái không có điện, đồng hồ xăng bất
khiển dụng. Một chiếc C7 khác cũng không có vô tuyến nên
đã phải lắc cánh khi bay xả
qua trước trạm không lưu.
(trích Quân sử Không quân VNCH)
Lạc đạn
Frank Snepp trong Decent Interval
đã viết theo óc "tưởng tượng": Lúc trận pháo kích bắt
đầu, Albert Francis, tổng lãnh sự Mỹ tại Đà Nẵng đang
đi dọc bến cảng...Cùng với hai bạn người Anh, Francis vắt
chân lên cổ chạy xuống bãi biển và bơi khỏi tầm súng.
Họ bơi đến tàu tuần tra và được chuyển sang tàu HQ 5.
Sáng 29 tháng 3, trời mưa và rất lạnh. Biển động hơn hôm
trước, không rõ giờ nào, Francis thấy tướng Ngô Quang Trưởng,
từng được coi là sĩ quan ưu tú nhất của quân đội Nam
Việt Nam đang bơi và trôi giữa những con sóng nguy hiềm ở
ngoài khơi Đà Nẵng. Ông không phải là người bơi giỏi,
người ta phải vớt ông ta lên đưa lên tàu HQ 5. Trưởng
ở trên tàu trong những ngày sau đó.
Đà Nẵng, di tản buồn
Tác giả Robert Mikesh trong Flying
Dragons, The South Vietnamese Air Force, trang 143-44 ghi rõ hơn
là SĐ1/KQ đã bỏ lại 33 chiếc A37, các phi cơ Caribou C7 (khoảng
40 chiếc) do thiếu cơ phận và bảo trì. Cũng trong tập sách
này, Tr/úy Phạm Quang Khiêm, hoa tiêu phụ cho Đ/úy Nguyễn Văn
Chuân, cùng bay 1 chiếc C130 từ Sài Gòn ra giúp di tản cho biết
chuyến phi cơ của ông đã chở đến 350 người (trong khi con
số dự trù tối đa là 200 người). Đ/úy Vĩnh Phổ, phi công
của một AC119, thuộc Biệt đội 831, đang biệt phái công
tác tại Đà Nẵng, ghi lại là phi cơ của ông khi rời bãi
đậu phải lăn bánh qua cả 100 xác người, chết vì pháo kích,
để ra phi đạo.
Trong lúc hỗn loạn, các phi công
không thể cất cánh an toàn, phi cơ bị rơi trong khi bay thoát
vì trục trặc kỹ thuật hoặc hết nhiên liệu. Trong khi di
tản bằng trực thăng, một số sĩ quan cao cấp của SĐ1/KQ
đã bị mất tích do phi cơ rơi hay do bị bắn hạ như Đ/tá
Nguyễn Bình Trứ KĐ trưởng KĐ10 bảo trì & tiếp liệu.
Trung tá Hùng, trung tâm hành quân SĐ1, tự bay 1 chiếc L19 cùng
2 con nhỏ về Nam.
Chiếc Chinook CH47 do Đ/úy Hoàng
Bôi (PĐ247) làm phi công chinh và Tr/úy Nguyễn Văn Tám phi công
phụ, chở theo 17 người không gặp may đã bị bắn hạ khi
bay qua không phận Sa Huỳnh, phi cơ phải đáp khẩn cấp xuống
xã Vĩnh Tuy, Phú Thạnh. Cả hai đã tự sát vì không muốn
bị bắt làm tù binh.
Cũng tương tự vậy vì không
muốn bị bắt làm tù binh:
Một chiếc Chinook khác do Đ/úy
Phạm Văn Kiến làm phi công chính, Tr/úy Nguyễn Đình Hương
phi công phụ, Đ/úy Nguyễn Anh Dũng, hoa tiêu chở theo gần
60 người, do trọng tải quá nặng, phải bay ở cao độ thấp,
cũng bị trúng đạn khi bay qua vùng Sa Huỳnh, quận Đức Phổ.
Tr/úy Nguyễn Đình Hương phi
công phụ bị thương nặng. Đ/úy Phạm Văn Kiến đã buộc
phải hạ cánh. Đại Úy Dũng đã bắn Tr/úy Hương theo yêu
cầu của Tr/úy Nguyễn Đình Hương và Đ/úy Nguyễn Anh Dũng
đã tự sát sau đó.
(...)
Một cơn gió bụi
Sau 75, khoảng năm 2010, phần
mộ thì hành phi đoàn chiếc Chinook được tìm thấy ở ven
biển Sa Huỳnh, xã Phổ Châu. Anh em KQ quốc ngoại đã lo phần
mai táng và lập bia mộ lại.
Đà Nẵng, di tản buồn
Theo Malcolm Brown của NewYork Times
thì trong buổi sáng sớm 29-3, 10 chiếc UH1 cuối cùng của KQVN
đã chở các nhân viên KQ còn kẹt lại bay khỏi Đà Nẵng,
mỗi phi cơ chở ít nhất là 20 người bay về phi trường Non
Nước để tìm xăng, nhưng đa số đã không gặp may: Một
phi cơ hết xăng phải đáp xuống Cù lao Ré, một chiếc khác
phải đáp xuống Chu Lai đã bị địch chiếm đóng từ 2 ngày
trước, 4 chiếc khác bị trúng đạn phòng không của địch
quân gần Chu Lai và chỉ 4 chiếc về được Sài Gòn.
(Trực thăng của tướng Điềm
cũng hết xăng và rơi trong vùng Sa Huỳnh, tất cả mọi người
trên phi cơ tử nạn ngoại trừ phi công Bình sống sót).
***
Trưa ngày 29, một phi cơ dân
sự Hoa Kỳ, chiếc Boeing 727 của công ty World Airway do quyết
định liều lĩnh của phi công và do may mắn đã bất ngờ
đáp xuống phi trường Đà Nẵng, bốc được khoảng 268 người
(trong đó có 150 binh sĩ thuộc ĐĐ Hắc báo SĐ1BB, đã dùng
vũ khí để dành được chỗ trên phi cơ). Khi phi cơ cất cánh,
súng bắn theo, cửa bánh đáp để mở vì có 4 người nằm
bên trong, 1 đã chết khi phi cơ đáp xuống phi trường Tân
Sơn Nhất. Chiếc 727 thứ nhì, bay vòng trên không phận Phan
Rang đã không dám đáp xuống và đành trở về Sài Gòn.
(trích Quân sử Không quân VNCH)
Đà Nẵng trong mắt tôi
Tại phi trường Đà Nẵng, máy
bay vừa đáp xuống, mặc dù chưa biết sẽ bay hay không, mọi
người đã xô, đạp lên nhau, bắn nhau để tràn lên tàu.
Máy bay bay không nổi, những người dân thường lại bị lôi
xuống. Trong khi đó máy bay chạy trên phi đạo giữa hàng ngàn
người khiến cho hàng chục người khác bị chết. 7 giờ 30
sáng ngày 28-3-1975, một Đ/úy chở gia đình trên một chiếc
jeep vào phi trường. quân cảnh tại cổng chận lại xét hỏi.
Vị Đ/úy bèn cự nự và hai bên cãi nhau. Cuối cùng vị Đ/úy
kia bèn bắn chết một sĩ quan QC/KQ. Thế là phi trường đóng
cửa từ đó và không một chiếc xe nào vào được sân bay.
Cũng chiều ngày 28-3 tình hình
tại BTL/SĐ3 BB (đóng tại Hoà Mỹ) vẫn "tỏ ra bình thường"
nhưng vào nửa đêm, lúc 12 giờ 30 một chiếc trực thăng đáp
xuống ngay tư dinh của Th/tướng Nguyễn Duy Hinh, tư lệnh SĐ3
BB, và một lát sau bay vút lên không. Vì tư dinh cửa Th/tướng
Hinh nằm trên đồi cao và tiếng trực thăng lại nghe rất
lớn trong đêm khuya nên mọi quân nhân có mặt trong đêm đó
đều đoán biết được chuyện gì đang xảy ra nên chỉ một
lát sau là hàng đoàn xe đủ loại bật đèn pha chạy ra khỏi
căn cứ. Lúc đó không ai bảo ai, không lệnh lạc gì, mạnh
ai nấy ra đi. Ai có phương tiện gì thi dùng phương tiện đó.
Không có thì quá giang. Chỉ trong một lát, cả căn cứ Hoà
Khánh bỗng vắng hoe! Cổng chính của sư đoàn hàng ngày quân
cảnh soát rất kỹ nhưng lúc đó mở toang và không một người
đứng gác.
(Lê Hùng)
Một cơn gió bụi
Sáng ngày 29-3 Đà Nẵng bị pháo
kích, Trung tá "Robert lửa" Nguyễn Xuân Phúc, và Trung tá Đỗ
Hữu Tùng (VB16), lữ đoàn phó 369 TQLC lên trực thăng điều
động cả lữ đoàn rút về căn cứ Non Nước. Trong cảnh
hỗn loạn của Đà Nẵng di tản, mưa pháo 130 của địch từ
đỉnh đèo Hải Vân bắn xuống. Trực thăng bị trúng đạn,
rơi xuống, cả hai đều bị tử thương.
Đà Nẵng trong mắt tôi
Sáng ngày 29-3-1975, hàng ngàn
người đủ mọi thành phần chen nhau qua cầu Trịnh Minh Thế
để qua Tiên Sa, Sơn Trà hay Non Nước. Tất cả đều đổ
xô ra biển nên mọi nẻo đường đều đông nghẹt, tắc nghẽn.
Trong khi đó những chiếc xe nhà binh chạy ngược chạy xuôi
như bầy kiến lạc đàn và tông cả vào những người đang
chạy bộ trên đường. Tại ngã năm An Hải, 2 chiếc xe jeep
tranh đường đã cán một người ngay giữa 2 xe. Trên đoạn
đường gần nhà thờ Mân Quang, một chiếc M113 chạy từ hướng
Tiên Sa xuống đã tông mạnh vào hông một cụ già đang đi
cùng chiều khiến ông lão ngã lăn trên đường và bất động.
Chiếc M113 vẫn chạy và mọi người vẫn đi qua ông lão như
không có chuyện gì xảy ra.
Cũng tại An Hải (Quận 3) dân
chúng đã ùa vào kho hàng quân tiếp vụ để dành nhau lấy
thuốc và thực phẩm. Cả trăm người dành nhau, chen nhau và
đè lên nhau. Một người lính đứng bên ngoài không làm sao
vào được bèn thụt một qủa M79 ngay vào đám đông khiến
đám đông văng ra tan tác. Số người chết và bị thương
khá nhiều. Máu, dầu, sữa hoà với nhau lai láng.
Thế mà một lát sau đám đông
khác lại ùa vào và tiếp tục tranh dành!
(Lê Hùng)
- :Tác
giả kẹt lại ở Đà Nẵng cho đến khi đi tù cải tạo. |