Vồ
được tựa đề tôi trộm thấy...hay hay nên vay mượn
từ cô bạn nhà văn Lưu Na chiêu niệm về ông, cô không làm
văn lại...làm thơ. Trong khi ấy nhà thơ nắm chờ ở nhà quàn
(10
ngày), tôi cũng viết về ông vì lý
do nào đó (xem tr 2).
Ngày trời tháng Bụt, khi trưa phơi sách khi chiều tưới cây,
bài viết cũng xong, tôi để đấy...để chờ.
Nói dối phải
tội, bốn tháng sau, khi không thần linh hiện về trong giấc
ngủ dậy rằng : Một là đừng học...cái hay hay mà
nên học...cái lạ của thiên hạ sự. Hai là hãy...mở
hai, ba chi tiết, "mở" thế nào để nếu có ai đấy đọc,
họ đọc tiếp, đừng để họ...bỏ đi mất tiêu. Ba là mang
khúc giữa đưa xuống khúc cuối bài viết xem sao? Nhẽ
thứ nhất, tôi bòn do đãi sạn cả chục bài viết và năng
nhặt chặt bị không ít những biên tác của họ, không những
lạ, còn hay hớm hơn chữ nghĩa tậm tịt của tôi
nhiều. Nhẽ thứ hai, tôi lại hé mở bằng vào dẫn theo...con
trâu từ ngõ ra phố nên ai đó đọc bị lạc túi bụi. Nhẽ
thứ ba, mang khúc giữa đưa xuống khúc cuối, tôi thấy có
khác thật.
Thề trước
bóng đèn, giữa nửa đêm, tôi bật tỉnh dậy...bật cái máy
vi tính, chả...tính tóan gì cho nhọc sức. Tôi với một ngón
tay mổ chữ trên bàn gõ như cò mổ ruồi gõ lại tòan bộ
bài Phá Tam Giang bây giờ đã cạntôi đã hòan tất trước
đó.
Trong "ngõ ngách"
đi tìm...cái hay hớm, tôi góp nhóp được...
Giữa đám
cưới, tôi (Đinh
Yên Thẳo), hỏi ông bài thơ Chiều trên phá Tam Giang được
viết như thế nào. Ông kể đó một ngày Mùa hè đỏ lửa
72, ông bay theo tướng Bùi Thế Lân tư lệnh Thuỷ quân
lục chiến để thị sát chiến trường, trong vai trò ký giả
báo chí. Từ trực thăng nhìn xuống phá Tam Giang, hình ảnh
một vị sĩ quan đứng giữa gió lộng, mênh mông nước trời
phía dưới khiến ông cảm xúc về thân phận nhỏ bé của
con người trong chiến tranh, trong vòng vây tử thần. Thế rồi
bài thơ ra đời: Chiếc trực thăng
bay là mặt nước - Phá Tam Giang, phá Tam Giang. (6-1972)
Trong ngõ có
ngách, tôi rị mọ được...cái lạ: Tên Đỗ Phủ là thằng
nào?
Năm đó, Trung
Quốc bất thần mở mặt trận ồ ạt tấn công vào 8 tỉnh
miền Bắc. Nửa khuya, công an lùa tất cả những người tù
đày từ những vùng thượng du lên xe đò khẩn cấp trưng
dụng, chạy bán mạng về vùng Thanh Nghệ Tỉnh, tức Liên
Khu Tư cũ.
Tại Thanh Chương,
trại 6 ở Nghệ Tĩnh, ẩn khuất trong Trường Sơn, tôi gặp
lại người bạn vong niên là nhà thơ lão thành Hà Thượng
Nhân, giữa đông đảo những bằng hữu thất tán khác. Trong
một lần trò chuyện, nhà thơ ngỏ ý được đọc thơ Đường.
Nên một hôm, tôi nỗ lực vận dụng trí nhớ đã nhiều hao
kiệt của mình ghi lại toàn bộ một kiệt tác khá dài của
thi hào Đỗ Phủ. Đó là bài Đồng Cốc huyện chung cư
thất ca, gồm bảy khúc ca viết theo lối cổ phong, trong
đó thi hào mô tả thời thế loạn ly, người phải rời
bỏ quê nhà, thất lạc vô âm tín đám em trai, em gái, nay
lê tấm thân tàn bệnh tật, đói kém nơi chướng khí sơn
lam, chỉ còn trò chuyện cùng con rắn lớn nơi đầm hoang.
Bài thơ tôi
ghi lại bằng Hán tự. Cụ Hà đọc bài thơ đó cố gắng
chuyển
dịch thành thơ Việt để cho nhiều bạn khác không am tường
chữ Hán. Rủi ro cho cụ có một tên chỉ điểm đi thóc mách,
đồ đạc của cụ bị lục soát, bài thơ bị tịch thu, cụ
bị gọi lên làm việc. Theo quan điểm của họ, rõ ràng tên
Đỗ Phủ này hoàn toàn không chịu
phấn khởi cải tạo, oán thán chính sách chế độ, tên
Đỗ Phủ này quả là một tên
phản động bẩm sinh, đến thời điểm ồ ạt của ba dòng
thác cách mạng mà vẫn còn ngoan cố chưa chịu giác ngộ.
Cán bộ yêu cầu cụ Hà phải thành khẩn khai báo tên
Đổ Phủ là bí danh của ai, thuộc
đội nào, lán nào, liên hệ thế nào với cụ. Mãi sau này
nhớ lại câu chuyện đó, tôi vẫn còn thử nghĩ nếu ở vào
trường hợp của cụ Hà, tôi sẽ phải trả lời ra sao?!
Qua Phan Lạc
Phúc, tôi năng nhặt chặt bị thêm ông với hồn thơ Đông
phương...
Tô Thùy Yên
nhà thơ lớn trên thi đàn, dĩ nhiên đã có nhiều người đề
cập. Tuy không thích "tính lăng quăng" của ông (chữ
của Mai Thảo) nhưng một số thơ của
ông là chứng nhân cho giai đoạn lịch sử. Quan niệm "văn
dĩ tải đạo" của Tống Nho và Chu Đôn Di không phù hợp với
một số tác giả. Với thơ vần (7
chữ & 8 chữ) của Tô Thùy Yên
rất tuyệt vì mang âm hưởng của hồn thơ Đông phương. Vào
khoảng giữa thập niên 60 có một việc, nhỏ thôi nhưng đã
làm thay đổi Tô Thùy Yên. Anh bắt đầu đọc Đường Thi.
Yên là một người ưa thích sự toàn hảo (gout
du parfait). Anh không bằng lòng với
những bản dịch. Yên muốn đọc thơ Đường bằng nguyên
tác và Tô Thùy Yên học chữ Nho. "Học cho vui, chơi vậy mà".
Xuống Gò Vấp, thấy Tô Thùy Yên viết chữ Nho rất đẹp.
Và đột nhiên tôi được đọc một số bài thơ mang phong
cách nhất nguyên của Đông phương. Đọc thơ trước đây
của Yên người ta thấy phảng phất St J. Perse hoặc Valery,
bây giờ thấy Tô Thùy Yên "Quy khứ lai từ" như Đào Tiềm
quay về nơi bản trạch.
Tu chùa chẳng
bằng tu nhà ăn ở thật thà mới là chân tu như...tu bia,
qua "Ghi chú" trong tập Thắp tạ, tôi ăn mày chữ nghĩa
của ông, thảng như bài Thắp tạ, Nhặt
trái nưa về nhuộm dạ sầu thì
trái nưa để nhuộm vải đen để...dạ sầu. Hay bài Du
mộng với nghĩa Hòn mộng ta
còn lang thang, trong bài thơ tuyệt
mệnh của Basho. Và tôi nhân sinh quý thích chí nhất bài Hành
giả sầu, câu đầu Đi. Đi qua:
Đi qua nữa. Đi qua nữa nữa. Bởi
không thuộc tạng bình văn luận phú nên tôi không hay biết
ông trích dẫn từ kinh Phật Bát nhã ba la mật đa: Yết
đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, bồ đề
tát bà ha... Bởi ngỡ "đế" là...rượu đế nên tôi thích
quá thể, để tôi...sa đà với ông là thế.
Thế là từ
thơ Đường qua Phan Lạc Phúc, tôi cỏ hoa lạc lối với hội
họa...
Trên diễn
đàn Sáng Tạo, Thanh Tâm Tuyền trong Nhân nghĩ về hội họa
viết: "Tôi nói thẳng tôi không đồng ý về hội họa trừu
tượng vô hình dung". Ngay sau đó ông lên tiếng với bài Để
phục hồi hội họa trừu tượng: "Tôi đứng về phía
trừu tượng, qua một số khái niệm về hội họa". Về ông
và Thanh Tâm Tuyền còn nữa về sau này. (xem
tr 4)
Ừ thì cũng
có dịp đảo về tạp chí Sáng Tạo (1956-1961). Ông cho hay:
"...Hồi đó,
khoảng cuối năm 1954, sau khi có một hai bài thơ đăng trên
tuần báo Đời Mới (16 tuổi),
tôi thường lui tới với vị chủ biên của tuần báo đó
là nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh, người mà tôi rất kính mến.
Một số các anh sau này là những tác giả nòng cốt của nhóm
Sáng Tạo như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Trần Thanh Hiệp, Doãn
Quốc Sỹ...mới di cư, cũng thường lui tới với ông Nguyễn
Đức Quỳnh, và tôi quen với các anh ấy từ đó. Một hai
năm sau, tạp chí Sáng Tạo thành hình và tôi đã gia nhập.
Tôi là đứa trẻ nhất trong nhóm, 17 tuổi, và lại là tên
Nam Kỳ duy nhất...".
Dựa dẫm vào
Mai Thảo viết về ông thì: "Trước đây, bọn tôi cứ tưởng
nói đến thơ là phải nói đến dân miền Trung, miền Bắc.
Cái thằng ấy xuất hiện mới lạ chứ. Nó kỳ vĩ phi thường
quá. Càng lớn tuổi, thơ nó càng hay, càng tuyệt vời".
Vì tôi mù
tịt về thơ nên chỉ biết vun chuyện thơ ông theo thời gian
tính...
Một trong bài
thơ đâu tiên trong tạp chí Sáng Tạo là bài Cánh đồng
con ngựa chuyến tàu vào tháng 4-1956. Theo nhà phê bình văn
học ở Paris: "...Cánh đồng, con ngựa ở đây khác với những
hình ảnh trong thơ cổ, tranh Đường, tranh Tống, ngược lại
phần nào đó, gợi lên nền "văn hóa đồng hoang" của Nga
La Tư thời cổ đại. Chuyến tàu, nôm na là xe lửa là biểu
tượng văn minh hiện đại. Cuộc va chạm giữa hai nền văn
minh đông phương thảo mộc và tây phương cơ giới được
nhà văn Phạm Văn Ký vẽ lại trong tiểu thuyết Mất nơi
trú ẩn (Perdre la Demeure, Gallimard, 1961, giải thuởng Hàn
Lâm Viện Pháp), mô tả cảnh xây dựng đường sắt tại Nhật
Bản vào thế kỷ XIX...".
Khiếp thật,
tôi búi bấn khi thấy nhà phê bình "bốc" ông theo...con ngựa
qua Nga La Tư. Nhưng khi đọc Nguyễn Sỹ Tế, ông cũng theo...André
Malraux qua Tàu vậy.
Nguyễn Sỹ
Tế trong bài Nhìn lại tạp chí Sáng Tạo: "...Chủ trương
của Sáng Tạo là dùng văn chương và nghệ thuật thúc đẩy
sự đổi mới, dung nạp những dị biệt cá tính trong một
nền văn hóa phong phú và cởi mở hơn...Nên Tô Thùy Yên đã
dịch cuốn Phận người, La Condition Humaine của André
Malraux (giải thưởng Goncourt năm 1933) mô tả cuộc nội chiến
tương tàn quốc cộng ở Trung Hoa...".
Ông đi cải
tạo 10 năm, được tha về bị bắt lại, tính ra 13 năm. Tù
về, ông làm bài Ta về, qua phỏng vấn ông cho hay: "...Bài
Ta
về, khi làm xong, tôi chỉ chép một
hai bản cho một hai người bạn,
trong hoàn cảnh của tôi lúc bấy giờ, dưới những bài viết
chuyền cho nhau xem, không đề tên
tác giả. Tự tôi chẳng hề gửi
nó ra ngoài. Cho đến bây giờ, tôi cũng chưa biết nó đã
lọt ra ngoài qua ai và bằng cách nào...". An ninh trong nước
biết, bắt ông giam tù thêm 3 năm nữa. Bị tù lần thứ
hai, ông bị 7 tháng biệt giam tâm sự với bức
tường câm nín, đàn muỗi râm ran, con thằn lằn uể oải,
con nhện vô tư.
Theo Tô Hòai,
ngõ ngách Hà Nội từ đường làng ngoằn ngòeo như vết trâu
đái mà thành. Vì vậy ngõ hẹp chỉ vừa đủ cho trâu đi.
Tôi vừa từ ngách ra ngõ thì bị trâu cản đường ra cái
điều tôi có hay biết: Ông có về
Hà Nội hay Sài Gòn bao giờ chưa?
Ta về như
sợi tơ trời trắng, ta về như
tiếng địch ngân xót xa sầu thảm của tráng sĩ thất trận
qua sông, khiến tôi (Huy Đức), khi làm Chương trình Nhịp cầu
Hoàng Sa, đã phải liên lạc với nhà thơ Tô Thùy Yên. Ta
về được viết bởi một người vừa mới trải qua Mười
năm, chết dấp chốn rừng thiêng - Mười năm, mặt xạm soi
khe nước...".
Khi nghe người
quen của tôi ở Mỹ giới thiệu chương trình, nhà thơ Tô
Thùy Yên chép tay bài thơ Ta về (2-2014) để tặng Chương
trình Nhịp cầu Hoàng Sa và thành kính tưởng niệm những
anh hùng đã vị quốc vong thân trong trận hải chiến Hoàng
Sa 1974. Tôi và nhà thơ Đỗ Trung Quân đã từng đón hụt ông
ở sân bay Tân Sơn Nhất. Trong thời gian tìm tư liệu cho cuốn
Bên
thắng cuộc, trước 2011, (ông qua Mỹ năm 1993) tôi được
Tô Thùy Yên tiếp tại nhà riêng ở Gò Vấp. Ông đã hai lần
nhận lời mời của tôi để về Việt Nam, nhưng cả hai lần
đều phải hủy vào giờ chót vì lý do sức khỏe.
Thế nhưng
khi đọc Nói chuyện với tách cà phê. Người muôn năm cũ
của tác giả Phan Nguyên thì con trâu rời ngõ đi ra phố rong
ruổi về...Sài Gòn.

Dạo đó mình
hay qua Đinh Cường chơi và tối hôm đó, tình cờ mình gặp
một người biết tên nhưng chưa bao giờ gặp mặt: Nhà
thơ Tô Thùy Yên. Đinh Cường giới thiệu anh mới "cải
tạo" về! Anh không nói gì, chỉ ngồi trầm ngâm hút thuốc.
Đinh Cường bảo Phan Nguyên ở Paris về, anh hỏi chuyện văn
học Pháp. Anh bảo mới dịch xong quyển "L'Amant" của Marguerite
Duras, hứa hôm nào sẽ đưa mình đọc bản thảo. Rồi Đinh
Cường đi nước ngoài, vài năm sau anh cũng ra đi theo diện
HO. Bẵng đi 25 năm (15-4-2014) mình mới gặp lại anh ở Sài
Gòn khi anh trở về thăm quê hương. Cùng lúc mình cũng
có mặt ở VN. Lần đó mình đã làm dấu tay bằng cà phê
cho anh... Anh đã vui vẻ, tóc muối tiêu, hoạt bát hơn, kể
chuyện nhiều hơn và ghi lên giấy dấu vân tay và câu thơ:
Bao
giờ, cho đến bao giờ nữa - Em gánh vui về họp chợ đông.
(Mùa hạn 1979)
Cùng "Người
tình", con đường bè bạn, và chữ nghĩa của ông, tôi lang
thang như thành hòang làng khó đi tìm con người thực của
một Tô Thùy Yên đời thường. Vì vậy tôi phải quay về
với Tưởng tượng ta về nơi bản
trạch - Con còng ẩn nhẫn bò quanh quẩn
qua tập di cảo Mặc khách Sài Gòn của cố nhà thơ
Tô Kiều Ngân...
"...Trại của
tôi cách xa trại Tô Thùy Yên nhưng thỉnh thoảng chúng tôi
vẫn gặp nhau trong những lần đi đẵn cây đốn nứa. Có
lần gặp chỉ đủ để Yên dúi vào tay tôi một gói thuốc
lào rồi sau đó mỗi người một ngả. Một lần đứng trong
sân trại nhìn qua hàng rào kẽm gai tôi thấy Yên đang gánh
một gánh khoai mì đi qua. Anh bước đi có vẻ nặng nhọc.
Vai bị gánh khoai mì trĩu xuống, lưng cong như lưng tôm, mồ
hôi chảy có giọt.
Tôi bỗng xót
xa nhớ đến đêm nào Trần Lê Nguyễn bày tiệc nhậu. Tiệc
tàn, mọi người lục tục đứng lên về. Còn lại Cung Tiến
và Tô Thùy Yên chẳng chịu về, nhất định đòi đi "tăng
hai”. Đêm đã hầu khuya, chiều bạn tôi đem hai cậu lên
xe hơi chở xuống Phú Nhuận. Trời mưa lất phất. Con đường
vào hẻm sũng nước, Tô Thùy Yên xuống xe, hai tay vén ống
quần chạy lúp xúp trên đường mưa, vừa chạy vừa cười
khanh khách. Tiếng cười của Tô Thùy Yên đêm ấy và hình
ảnh anh chạy lúp xúp trong mưa tôi còn nhớ rõ. Tiếng cười
sao mà hồn nhiên ngây thơ so với hình ảnh Tô Thùy Yên oằn
mình dưới gánh khoai mì hôm nay thật là một sự đối nghịch
quá đau lòng...".
Mấy chục
năm sau tôi mới gặp ông qua Phan Lạc Phúc với Bạn bè
gần xa...
"...Năm 85 được
về, trên con đường bè bạn tôi rẽ vô thăm nhà bạn Tô
Thùy Yên. Từ Hóc Môn lên, qua chợ Gò Vấp tới một ngã ba
có những viên đá ong khô, đó là lối vào nhà Tô Thùy Yên.
Từ thập niên 60 tôi đã nhiều lần đến đây bù khú với
bạn. Nhưng bây giờ về, đến thăm cảnh cũ người xưa, thấy
lạ. Nhà cũ của bạn có cây vú sữa lớn. Khu gia viên nằm
trong vùng cây lá thâm u...bây giờ không thấy cây vú sữa
đâu. Bất giác tôi nhớ Nguyễn Gia Thiều Phong
trần đến cả sơn khê, Tang thương đến cả hoa kia cỏ này.
Hơn 10 năm gặp lại thấy bạn già đi. Hình như bạn mất
một vài cái răng thì phải, cái cười hơi trống vắng.
Nhưng khóe mắt vẫn còn nồng ấm và bắt tay thật chặt...".
Cũng với bạn
bè xa...gần và gần với Thanh Tâm Tuyền...
"...Thanh Tâm
Tuyền và tôi bắt đầu chơi thân nhau từ thời kỳ Sáng Tạo
đó. Nửa thế kỷ đi qua, thay đổi
bao nhiêu cảnh đời, nhưng vẫn không thay đổi tình bạn giữa
chúng tôi. Chúng tôi trao đổi chia sẻ với nhau nhiều điều
và tất nhiên cũng có nhiều điều chúng tôi không đồng ý
với nhau. Thường chúng tôi cũng có những nhận xét bất chợt
về những bài thơ nào đó của nhau nhưng chúng tôi tuyệt
nhiên chẳng bao giờ thuyết phục nhau dù bằng cách này hay
cách khác về phương cách làm thơ của nhau.
Thời gian ra
khỏi nước, anh ẩn mình ở một bang miền Bắc hẻo lánh.
Những khi gặp nhau, thường tôi hỏi thăm chuyện viết lách
của anh, anh vẫn như hồi nào, hào hứng đam mê nói bàn về
tư tưởng chữ nghĩa kim cổ Ðông Tây. Thôi thì văn chương
cũng là thứ hữu mệnh, tôi chỉ biết ngậm ngùi...".
Qua bạn bè
gần...xa, nhưng tôi trộm thấy ông xa với Mai Thảo...
"...Mai Thảo
tinh nhạy, cực kỳ yêu quý chữ nghĩa và tài năng, trầm lặng
đến độ người không thân tưởng là lạnh lùng phớt tỉnh,
vì cần bài đủ kịp cho số báo tới, đã kêu gọi, thúc
hối mọi người viết, viết. Ở bất cứ nơi nào, tòa soạn,
nhà in, vỉa hè, quán cóc, ngay cả phòng trà. Vào bất cứ
lúc nào, sáng trưa chiều tối, và rất, rất nhiều lần mãi
tận đêm khuya lang thang trên đường phố. Ðó là thời
kỳ bohémien của chúng tôi...".
Ấy là thời
kỳ Sáng Tạo, qua Mỹ ông gần gũi với Thanh Tâm Tuyền, ông
"hục hặc" với Mai Thảo...thúc hối ông viết. Qua một bài
"tự sự" dài ba, bốn trang nhưng tôi lại để thất lạc.
Ông..."nhắc khéo" Mai Thảo trong cuộc phỏng vấn (xem
tr 5): Ông sống trong chung cư gần như
không giao tiếp với bên ngoài. Vì vậy ông viết lúc được
lúc không.
"Tiện sinh"...tôi
đàm trường viễn kiến ông hai lần, lần đầu ngày giỗ
Cao Xuân Huy (2011) ở nhà cô em gái thằng Tháng ba gãy súng.
Ngồi với ông, tôi không dám Trọn
buổi chiều, ta nhậu nhẹt - Mồi chẳng bao nhiêu, rượu rất
nhiều. Được dịp tôi một tấc
tận giời với ông: Tác giả & Tác phẩm Tô Thùy Yên tôi
vừa làm xong. (2010).
Tôi ra ngòai
hít thuốc, ông không nhả khói nên ngồi lại, không như nhiều
người viết về ông: Ông nói rất ít, gần như không nói
gì, chỉ ngồi dạng...Tôi một bữa ngồi yên như bàn ghế(Cao
Đông Khánh). Qua bản lai diện mục,
tôi trộm thấy ông có khuôn mặt không hùng tí nào, nên tự
hỏi sao ông có thể có những câu thơ
Dựng
súng trường, cởi nón sắt - Đơn vị dừng quân trọn buổi
chiều(Anh hùng tận).
Trong khi nhìn bà ngồi cạnh ông, bà đẹp và có nét thanh lịch
của một người Hà Nội. Tôi ngỡ bà là người tình của
ông, mãi đến khi tìm tài liệu viết về ông, tôi mới hay
bà là vợ chính thức trước 75
Với chuyện
người tình hai quên một nhớ, trong cái đầu chờ vờ như
cá trê gặp nước mặn, tôi...bơi ra mẩu đối thọai ở đâu
đó, ai đấy hỏi ông về bà Thụy Vũ. Ông trầm ngâm qua Bức
tranh vân cẩu vẽ người tang thương (Nguyễn Gia Thiều)
và lặng lờ thở ra như tiếng thở dài Còn
chút rượu nồng xin tưới xuống - Giải oan cho cuộc biển
dâu này.
Trong cái đầu
lãng đãng như sương, lờ đờ như khói tôi chỉ nhớ có bấy
nhiêu và không hơn! Tuy nhiên tôi nhớ như in, lần gặp ông
lần đầu ấy ông không uống rượu và...hút thuốc.
(di ảnh Tô
Thùy Yên ở nhà quàn
do Thận Nhiên
chụp)
Lần thứ hai
tôi gặp ông tại nhà quàn, nhìn di ảnh ông hút thuốc lá.
Một trong những ảnh chụp đàn ông hút thuốc mà tôi cảm
thấy có nét, có hồn nhất.
Tôi lẳng lặng
ra ngòai châm một điếu thuốc.
Qua chữ nghĩa
của ông, trong Tô Thùy Yên Thân phận lưu vong quay cuồng
nhớ Sài Gòn, tác giả (Đòan Dự) nói chuyện với nhà
văn Nguyễn Thị Thụy Vũ, bà cho biết: "...Ông làm thơ như
cực hình không có gì là sung sướng cả. Ông nghiêng
hẳn về tứ và ngôn ngữ. Đè
nén cảm xúc trong các hình tượng mẫu tự nghiêm ngặt. Vì
thế ông chọn thể thức thơ cổ phong, tứ tuyệt hoặc 5 chữ,
7 chữ. Ông đọc và tìm hiểu điển
tích rất nhiều. Bà Thụy Vũ cho
biết ông thường "vắt nát óc"
cùng kiệt cho một bài thơ. Ông
chép đi chép lại một bài thơ và thường vò xé bản thảo
viết lại từ đầu nếu thấy câu
chữ đó chưa thật đắt.
Vì thế mỗi đêm ông làm thơ thì sáng dậy tôi thường phải
đem một sọt rác đi đổ vì trong đó đầy ngập những trang
viết chưa ưng ý của ông...".
Phan Nhiên Hạo
phỏng vấn ông: "Anh đang sống ra sao, đang viết gì hay
có ý định viết gì?". Ông trả lời: "Tôi hiện sống
một mình trong một khu chung cư do chính phủ Mỹ tài trợ,
láng giềng là người da đen và tôi gần như chẳng giao tiếp
với bên ngoài vượt quá mức tối thiểu đòi hỏi của xã
hội. Về vật chất, tôi tự bằng lòng với những căn bản
mà một con người có thể nhờ vào đó mà tạm sống còn
trong xã hội Mỹ. Về tinh thần, tôi đang suy nghiệm, qua bản
thân khi đối diện với tuổi già trong cô quạnh, về một
câu nói của E. M. Cioran mà tôi đã tình cờ đọc thấy: Ðêm
tối chảy trong huyết quản tôi.
Tôi vẫn chưa
bỏ được viết. Tôi viết, lúc được lúc không. Bao giờ
tác phẩm đã xong thì hay là đã xong, xong như vậy đó. Hơn
nữa, qua kinh nghiệm, khi chưa khởi công, thường tôi cũng
có ý định này nọ, nhưng đến khi viết được thì lại
viết những thứ khác hẳn với ý định ban đầu của mình.
Thành thử cuối cùng tôi đành để trống tâm trí mình và
tự thả nổi theo duyên nghiệp. Vả lại, đương đầu với
tuổi già trái trở, tôi cũng tự lượng sức mình may ra chỉ
còn làm kịp được dăm ba câu thơ chơi chơi nữa mà thôi.
Từ bao giờ, tôi vẫn tâm nguyện sống đời không hậu ý.
Bây giờ, thời gian còn lại ước lượng chẳng bao nhiêu,
lẽ nào lại đổi thay điều tâm nguyện đó?".
Qua người
tình của ông mà ai cũng biết, tôi đành ôm giấc mộng hoàng
lương đàm hoa lạc khứ về: Ta
về tắm lại dòng sông cũ – Truy tầm mê mỏi lý sơ nguyên...
Với nhà văn
Nguyễn Thị Thụy Vũ, theo một phóng viên đến Lộc Ninh làm
phóng sự: "...Tất cả sự sống gia đình đều trông mong vào
cháu Đinh Quỳnh Giao ở bên Mỹ, con gái của anh chị Tô Thùy
Yên gửi về giúp đỡ. Mỗi tháng cứ đến khoảng 27, 28 là
cháu gửi $100 về cho em. Ở cái xứ Lộc Ninh nghèo nàn ấy,
nếu mỗi tháng không có $100 của người chị, con gái anh Tô
Thùy Yên gửi về giúp đỡ, thì không biết cái gia đình của
nhà văn nữ đã một thời nổi tiếng Nguyễn Thị Thụy Vũ
sẽ sống ra sao...".
Ăn ngay nói
thật, bài Phá Tam Giang bây giờ đã cạn đã xong, bốn
tháng sau, khi không thần linh hiện về trong giấc ngủ dậy
nên học...cái lạ của thiên hạ sự. Nửa đêm, tôi
bật tỉnh dậy gõ cái bàn gõ, vì một trong những cái lạ
là người phóng viên trên viết : "Cuối năm 1993, anh (TTY) cùng
người vợ chính thức là cô giáo Huỳnh Diệu Bích và các
con sang Mỹ định cư theo diện HO. Nhưng rồi ông bỏ xứ vạn
hồ Minnesota, lập lại "cuộc tình văn nghệ" với cô Phan Dụy
(ngâm thơ rất hay) và về chung sống tại Texas. Năm 2006, ông
bị bệnh tim trầm trọng, Phan Dụy cũng chắp nối với cuộc
tình khác"
Như vừa rồi
"tiện sinh" tôi bòn mót bề ngòai ông không..."ngầu" cho mấy,
lại ít nói. Nhưng tôi chắc như cua đinh những người tình
của ông đông như ruồi, chứ không phải một Phan Dụy. Thảng
như bài Em đi – tặng Đặng Tuyết Mai, tôi ngẫm nguội
chẳng lẽ là bà vợ ông Nguyễn Cao Kỳ mất năm 2016?. Tôi
ớ ra hai câu thơ cuối Hay vẫn bàn
tay vô cảm ấy – Mơn man đau rát tận cùng ta
là lý sự gì? Tuy nhiên..."cái lạ" với tôi trong Tô Thùy
Yên Tuyển tập thơ in năm 2018, một năm trước khi ông
mất (21-5-2019), trong Trối trăng ông gửi gấm Anh
kể kỷ niệm tuổi già chưa sống tới – Mà quên dĩ vãng
của hôm nay nên ông trang trải
thơ tặng Thụy Vũ, Phan Dụy vào tuyển tập.
Ở bài Nhà
xưa, lửa cất ủ - tặng Phan Dụy, tôi lại láo ngáo
nữa...Đúng ra nhiễu sự này không nên mang vào đây, nhưng
với câu thơ..."cực ky" khó hiểu của ông Chàng
đứng giữa nhà, giới thiệu cùng em...Nhờ
đại nghi đại ngộ, tiểu nghi tiểu ngộ, bất nghi bất ngộ,
tôi ngộ ra "Chàng đứng giữa nhà"...là nhà ông để tôi lay
lắt tới chuyện bấy lâu nay tôi nghe hơi nồi chõ nhiễu sự
Táo quân một ông hai bà, nhưng tôi bụng bảo dạ ấy chỉ
là huyền hoặc. Thêm ngẫu chuyện ngày ông nằm ở nhà quàn,
tôi nghe ai đấy to nhỏ với nhau qua tiếng kinh, tiếng kệ
cô Phan Dụy được mời tới ngâm thơ ông. Nhưng cô từ chối
vì trong đám tang không nên có mặt một người đàn bà khác
ngòai vợ ông.
***
Đứng bên
cạnh áo quan ngắm cố thi sĩ Tô Thùy Yên nằm ngủ giấc ngủ
dài trong ấy, bà Huỳnh Diệu Bích nhớ cuộc đời làm vợ
của một nhà thơ. (theo Cát Linh)
"...Anh và tôi
quen nhau từ rất sớm, từ cái thời thanh mai trúc mã. Nhưng
chúng tôi cưới nhau không dễ dàng vì gia đình tôi sợ rằng
tôi sẽ khổ. Nhưng cuối cùng sau bao năm chờ đợi, chúng
tôi cũng đến được với nhau.
Sống với
anh một thời gian, khi mà tình đã cũ thì anh cần mối tình
mới hơn. Là một người nghệ sĩ, tâm hồn anh có thể yêu
nhiều lần. Còn trẻ có nhiều lúc tôi cũng đau khổ, nhưng
sau đó, nhất là sau 10 năm tù, một thời gian tôi coi như anh
được trở về từ cõi chết, lúc đó mọi sự suy nghĩ của
tôi thay đổi. Tôi hiểu được rằng lấy một người chồng
làm thơ, tôi không giữ anh cho mình, tôi biết và tôi tập
phải chia sẻ. Thường là những người tình của anh, cuối
cùng thường thường trở thành
bạn của tôi. Những gì làm anh
vui, tôi vui với anh. Tôi thấy những gì mình cần làm cho anh
thì tôi làm ngay, vì sẽ tới lúc hoặc là người đó, hoặc
là mình sẽ không còn nữa...".
Bà chia sẻ:
"Hôm nay tôi
buồn vì vĩnh viễn xa anh, nhưng tôi có cái vui là tôi đã
cùng anh đi trọn đường trần, và có thể nói, tôi là mối
tình cuối của anh".
Người đàn
bà trong chiếc áo dài đen, đeo khăn tang trắng, trong suốt
buổi lễ không một lần tỏ ra đau khổ vật vã. Ngược lại,
bà đứng dậy đáp lễ tạ ân với tất cả những người
đến chào tiễn đưa cố thi sĩ Tô Thùy Yên. Bà lặng
lẽ cầm di ảnh của chồng mình, đi nốt với ông một khoảng
đường cuối, đến căn phòng hỏa
thiêu.
Cánh cửa sắt
lạnh lùng đóng lại. Bà quả phụ Tô Thùy Yên đưa tay bấm
nút, đưa ông, cố thi sĩ Tô Thùy Yên vào đoạn đường cuối
cùng của cuộc đời. Buổi
lễ tưởng niệm ông diễn ra ấm cúng, đầy chất thơ. Ngày
đưa tiễn ông cũng nhẹ nhàng, tựa như bốn câu thơ trong
bài Đi xa của ông Đi
như đi lạc trong trời đất - Thủy tận sơn cùng, xí xóa
ta - Cõi chiều, đứng lại, khóc như liễu - Có thật là ta
đi đã xa?.
Nhà thơ đã
tạm biệt mọi người để viết
nốt đoạn cuối bài thơ Ta về.
Thạch trúc
gia trang
Ngộ Không
Phí Ngọc Hùng
(viết xong
tháng 5-2019
viết lại
tháng 9-2019)
Nguồn: Vương Trùng Dương, Đinh
Linh, Đặng Tiến, Nguyễn Hưng Quốc
Văn Quang, Nam Dao, Nguyễn Tà
Cúc, Đòan Dự, Nguyễn Hữu Hồng Minh |