Nói
lái và nói đảo là hiện tượng ngôn ngữ sống động tiêu
biểu
cho
nét đẹp, vẻ phong phú cùng tính linh hoạt cực kỳ đặc
sắc
của
tiếng Việt mến yêu.
Tiếng
Việt là ngôn ngữ mang đặc điểm cơ bản đáng kể: tính
phân tiết rõ rệt - tức khả năng đọc / nói từng âm tiết
(syllabe) tách rời một cách rành rọt, dứt khoát. Mỗi âm
tiết tiếng Việt gồm 3 phần rõ ràng: âm đầu, vần và thanh
điệu. Với từ song tiết, nếu hoán vị 1 hoặc 2 bộ phận
đó với nhau là nói lái. Ví dụ:
vợ hai nói lái thành
vơ hại hoặc hơ vại. Nếu hoán vị cả 3 bộ
phận với nhau là nói đảo. Ví dụ:
vợ hai nói đảo
thành hai vợ.
Nói lái
Thật ra, một số ngôn ngữ trên thế giới
cũng có nói lái. Tiếng Pháp gọi hiện tượng này là contrepèterie
/ contrepet / antistrophe. Tiếng Anh: spoonerism. Tiếng Nga: спунеризм.
Qua sách Chơi chữ ấn hành tại Sài
Gòn năm 1974, Lãng Nhân (1)
từng thuật chuyện một cô vợ Việt đi với ông chồng Pháp
vào hàng bán tranh. Nghe chủ tiệm nói thách, vợ xì xồ bảo
chồng: "Très chaud!" (Nóng quá!). Tưởng vợ than rằng không
khí oi bức, ông chồng vội chọn bức tranh và nhanh nhảu trả
tiền để ra ngoài cho mát. Ra ngoài, vợ trách: "Ngại mích
lòng chủ tiệm, em phải nói tránh. Très chaud! tức...
Trop
cher! (Rất đắt!). Thế mà chả hiểu, mua hớ mất rồi!".
Dân
Pháp cũng nói lái un pot sale (một cái chậu / cốc dơ
bẩn) ám chỉ un sot pâle (thằng ngốc xanh xao / nhạt
nhẽo / khốn kiếp). Hoặc un mot de vous (một từ của
anh) nói lái ra un mou de veau (một lá phổi bê). Bút danh
của nhà văn hiện sinh nổi tiếng Jean-Paul Sartre (1905-1980) (2)
cũng được gọi đùa bằng cách lái thành Jean Sol Pâtre
/ Patre (sol = đất; pâtre = người chăn súc vật; patre =
nghị viên quý tộc của Viện Nguyên lão La Mã cổ đại).
Tuy nhiên, các ngôn ngữ biến hình (langue
flexionnelle) như tiếng Pháp, Anh, Nga, v.v., chắc chắn gặp hạn
chế khi nói lái. Ngay cả những ngôn ngữ đảo lập (langue
isolante) như nhiều thứ tiếng ở khu vực Đông Nam Á, mặc
dù có tính phân tiết song cũng không rõ rệt hoàn toàn bằng
tiếng Việt, nên muốn nói lái vẫn vướng lắm trở ngại.
Với tiếng Việt, lái đôi (lái từ song
tiết) được xem là cơ sở, từ đấy phát triển thành lái
ba, lái tư, v.v.
Lái đôi có mấy kiểu? Tài liệu 99 phương
tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt do Đinh Trọng Lạc
biên soạn (NXB Giáo Dục tái bản lần thứ năm, Hà Nội, 2001;
trang 181) cho rằng: "Lối nói lái đôi có 4 kiểu". Sách Thú
chơi chữ của Lê Trung Hoa và Hồ Lê (NXB Trẻ, 1990; trang
14-15) liệt kê đầy đủ hơn: "Về nguyên tắc, có 6 kiểu
nói lái". Ví dụ từ thay đổi được lái làm 6 kiểu
như sau:
1. Hoán vị âm: đay thổi
2. Hoán vị vần: thôi đảy
3. Hoán vị thanh: thảy đôi
4. Hoán vị âm và vần: đôi thảy
5. Hoán vị âm và thanh: đảy thôi
6. Hoán vị vần và thanh : thổi đay
Chẳng phải từ song tiết nào cũng lái được.
Những từ láy toàn bộ; lặp lại hoàn toàn; có chung dấu
thanh và âm đầu, dấu thanh và âm sau, âm đầu và âm sau đều
không thể nói lái.
Ước lượng Việt ngữ có 200.000 từ song
tiết. Giả định rằng cứ 100 lần nói lái chỉ một lần
thu được hình thức có nghĩa, cũng đủ tính ra 12.000 trường
hợp. Con số quả không nhỏ. Ấy là chưa kể khả năng biến
những hình thức lái vốn vô nghĩa thành có nghĩa khi thêm
vào đôi yếu tố hợp lý. Ví như ăn chiều nói lái
ra yêu chằn thì chưa rõ nghĩa, nhưng đặt trong câu ăn
chiều rồi yêu chằn tinh thì nghĩa đã rõ.
Nói lái rất phổ biến trong khẩu ngữ hằng
ngày, nếu khéo sử dụng sẽ tạo nên hiệu quả bất ngờ,
dí dỏm, sâu sắc, thông minh. Vạch "đích danh" tệ bảo thủ,
trì trệ, người ta gọi: Nguyễn Y Vân và Vũ Như Cẩn
(= vẫn y nguyên và vẫn như cũ). Những cá nhân
dũng cảm chống tiêu cực nhưng bị vùi dập, bèn thở dài:
Đấu
tranh! Tránh đâu? Song khi ánh sáng công lý soi rọi, ê kíp
điều hành cơ quan mắc sai lầm đều bị luật pháp xử lý
đúng người, đúng tội, thì dư luận mỉa mai: Ban lãnh
đạo - bao lãnh đạn.
Nói lái cũng được dùng để tạo câu đố
dân gian :
Khoang Tàu, khoang Mỹ, khoang lai
Bò la bò liệt, đố ai: cây gì?
Khoang lai, nói lái thành khoai lang: chính là
đáp án.
Rất nhiều tác phẩm văn chương sử dụng
nói lái để tạo thêm nghĩa hàm ẩn rất sáng tạo và không
kém phần độc... địa. Nổi tiếng nhất trong lịch sử văn
học Việt Nam về khía cạnh này là "bà chúa thơ Nôm" Hồ
Xuân Hương (1772 – 1822), mà bài thơ Sư làng bị đuổi
có
thể dùng làm ví dụ :
Cái kiếp tu hành nặng đá đeo,
Vị gì một chút tẻo tèo teo.
Thuyền từ cũng muốn về Tây Trúc,
Trái gió cho nên phải lộn lèo.
Đặc biệt, có những trường hợp phải
"giải mã vòng vèo", lái đi lái lại nhiều lần mới rõ ẩn
ý của tác giả. Chẳng hạn truyện Trạng Quỳnh kể rằng
một hôm Quỳnh dâng chúa Trịnh hũ thức ăn, phía ngoài có
dán chữ 大風. Phiên âm Hán-Việt: đại
phong. Chúa không hiểu. Quỳnh giải thích :
- Bẩm, đại phong là gió to. Gió to thì đổ
miếu, đổ chùa. Đổ chùa, đổ miếu thì tượng lo. Tượng
lo là... lọ tương đấy ạ!
Giai thoại cũng kể chuyện gã phú hộ nọ
ăn mừng tân gia, xin Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) đôi chữ
đề bức hoành treo gian giữa. Tam nguyên Yên Đổ cho hai chữ
Hán: đại hạ, nghĩa là "nhà lớn". Nhưng thay vì viết
chữ hạ 廈 là
nhà, Nguyễn Khuyến lại viết chữ hạ
夏 là
mùa hè. Mùa hè to, nghĩa là gì? Hè to nói lái thành tò
he, tiếng kèn đám ma. Hóa ra, gã phú hộ nọ trước kia làm
nghề thổi kèn cho giàn bát âm.
Nhiều
cây bút Việt Nam hiện đại cũng vận dụng thủ pháp nói
lái tạo hiệu quả nghệ thuật đáng kể. Nhà thơ Thế Lữ
(1907 – 1989), họ tên thật là Nguyễn Thứ Lễ. Bút danh chính
thức Thế Lữ do nói lái tên với chữ lót. Lại còn biến
hoá Lễ = Lê Ngã = Lê Ta tạo thêm cặp bút danh phụ Lê Ta
và Lê Tây. Đó là duyên cớ khiến nữ sĩ Vân Đài (1903 –
1964) xuất vế đối hiểm hóc:
Thế Lữ mừng xuân hai thứ lễ:
một quả lê ta, một quả lê tây.
Trước đây, về ngành giáo dục, có câu
chơi chữ bằng cách nói lái:
Thầy giáo tháo giày vấy đất vất đấy.
Truyện ngắn Vàng của Phanxipăng đăng
tạp chí Sông Hương số 2 năm 1993, rồi in trong sách
Truyện
ngắn chọn lọc (NXB Thanh Hoá, 1996), có đôi dòng chơi chữ
nói lái liên hoàn :
Thầy giáo tháo giày, tháo luôn cả ủng,
thủng luôn cả áo, đem giáo án dán áo;
Nhà trường nhường trà, nhường nốt
cả hoa, nhòa nốt cả hương, lấy lương hưu lưu hương.
Nói
đảo
Hiện tượng nói đảo bao gồm đảo từ,
đảo ngữ và đảo cú. Tiếng Pháp gọi lối chơi chữ này
là antimétabole. Tiếng Anh: antimetabole. Tiếng Nga: антиметабола.
Nhà
văn kiêm chính trị gia André Malraux (1901-1976) có câu nói đảo
được nhiều người nhắc: "Une vie ne vaut rien mais rien ne
vaut une vie" (Một đời chẳng bằng cái quái gì nhưng chẳng
cái quái gì bằng một đời).
Nhìn chung, các ngôn ngữ biến hình (langue
flexionnelle) như tiếng Pháp, Anh, Nga, v.v., đòi hỏi hợp giống,
số, cách, nên rất hạn chế khả năng thay đổi trật tự
các từ trong câu mà từ vẫn giữ nguyên dạng, còn câu thì
có nghĩa. Tiếng Việt không lệ thuộc vào những điều kiện
đó, nên khả năng này được mở rộng.
Nói đảo đem lại nhiều tác dụng. Đầu
tiên là "để diễn đạt nội dung sự việc lặp đi lặp lại
ngày này sang ngày khác cũng chỉ có thế, không có gì mới
hơn, để miêu tả cái điệp khúc chu kỳ về sự tái hiện
một hiện tượng đáng chán nào đó đối với chủ quan con
người, người ta thường dùng lối chuyển đổi trật tự
các âm đối với một tổ hợp, không kể đó là từ hay nhóm
từ" như nhận xét của Đào Thản trong sách Một sợi rơm
vàng (NXB Trẻ, 2001; trang 85) lúc tìm hiểu đôi câu Truyện
Kiều của Tố Như:
Song sa vò võ phương trời,
Nay hoàng hôn đã lại mai hôn
hoàng.
Đào Thản dẫn ra những cách nói thông thường
và quen thuộc trong ngôn ngữ phổ thông nhằm nhấn mạnh tính
chất đơn điệu của sự lặp lại: Bữa sáng rau muống,
bữa chiều muống rau. Hoặc:
Hôm nay có món cà chua,
Ngày mai độc nhất lại mua chua cà.
Câu bát vừa nêu cũng có thể biến thành:
Ngày
mai độc nhất lại mua... cua chà. Song đấy lại là
nói lái rồi.
Kể ra, hôn hoàng hoặc chua cà, muống
rau không phải là biến thể từ vựng được cộng đồng
chấp nhận rộng rãi. Chúng "hơi bị" vô nghĩa. Đào Thản
gọi đấy là "từ lâm thời" và giải thích: "Phép đảo nói
chung trong cách diễn đạt bao giờ cũng gây được một sự
chú ý, tạo ra được cái đột xuất, khác thường. Đảo
âm tiết trong các trường hợp trên lại còn có khả năng
tạo ra một sự đối lập rất có ý nghĩa dù chỉ trên hình
thức."
Gặp dịp, chúng tôi sẽ trở lại với mấy
trường hợp ấy. Thực tế, có những cách nói đảo vẫn
giữ nguyên ngữ nghĩa trong văn cảnh song đem lại hiệu quả
thẩm mỹ nhất định. Ví dụ:
Ngồi ngủ, ngủ ngồi đều ngủ
cả;
Đứng ăn, ăn đứng cũng ăn thôi.
Lối đảo có chủ đích nghệ thuật còn
"cơi nới" ngữ nghĩa, tạo nên "ý tại ngôn ngoại". Chẳng
hạn đôi câu thơ của Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858):
Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
Đặc biệt, hiện tượng nói đảo thực
sự gây bất ngờ lý thú lúc xây dựng một hình thức mới
mang nghĩa khác, thậm chí nghĩa trái nghịch. Trong Truyện
Kiều, Nguyễn Du (1776 – 1820) từng viết:
Nàng rằng : "Lồng lộng trời cao,
Hại nhân, nhân hại sự nào tại
ta!"
Thành ngữ, tục ngữ Việt Nam cũng áp dụng
lối nói đảo như thế rất nhiều:
- Sinh sự, sự sinh.
- Cá ăn kiến, kiến ăn cá.
- Giúp người, chớ cầu người
giúp.
- Cười người chớ có cười lâu,
Cười người hôm trước, hôm sau
người
cười.
Không ít câu nói đảo cũng được vận
dụng vào câu đối, phát huy trường liên tưởng. Nửa đầu
thế kỷ XX, tờ Trung Bắc Tân Văn mở cuộc thi đối với
vế xuất nói đảo điêu luyện:
Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều
là vợ cả;
Vế trúng cách là :
Con nuôi, con đẻ, đẻ con há cậy
con nuôi.
Giai thoại văn học kể rằng thời nhà Mạc
có tiến sĩ Vũ Thế Dĩnh, quê Hải Dương, nổi tiếng hay chữ
và thích... khôi hài. Người nọ vừa mất bố, đến xin bài
văn khắc bia mộ. Tiến sĩ họ Vũ hỏi: "Ông cụ có chức
sắc gì?". Người nọ đáp: "Phụ thân tôi làm tài quan" (một
chức quan võ nhỏ). Tiến sĩ họ Vũ hạ bút :
Sinh vi tài quan,
Tử nhập quan tài.
Kỳ sinh dã vinh,
Kỳ tử dã ai.
Nghĩa :
Sống làm tài quan,
Chết vào quan tài.
Sống thì vinh hiển,
Chết thì bi ai.
Chơi chữ bằng lối nói đảo đòi hỏi
rất nhiều công phu là sáng tác hồi văn. Ấy là thể thơ
đọc xuôi, đọc ngược đều có nghĩa và đúng luật, hợp
vần, do đó còn gọi là thuận nghịch độc. Được đông
người thuộc nhiều thế hệ lưu ý là bài thơ hồi văn liên
hoàn toàn chữ Hán 雨 中 山 水 / Vũ
trung sơn thuỷ / Non nước trong mưa của vua Thiệu Trị
được bố trí theo hình tròn bát quái trên bức khảm xà cừ
ở điện Long An (3),
chỉ 56 chữ mà có thể đọc được ít nhất 64 bài thất
ngôn (4). Có trường
hợp đọc xuôi chữ Hán, đọc ngược chữ Nôm, như bài Xuân
hứng tương truyền của vua Tự Đức. Thơ thuận nghịch
độc tiếng Việt sau này có bài Cửa sổ đêm khuya của
Hàn Mạc Tử (5)
được nhiều tuyển tập in đi in lại. Bài thuận nghịch độc
Ý
xuân của nữ sĩ Hoàng Cao Phan (?) được Lãng Nhân cho rằng
"thật lưu loát" và đưa vào sách Chơi chữ (sđd, trang
234) là một ví dụ đảo cú khá tài tình.
Đọc xuôi :
Xuân vương ý đẹp, mộng tìm thơ,
Gợi thắm lòng ai những ước mơ.
Ngần ngại bút hoa, sầu nhuốm vận,
Dở dang đàn nhịp, lỡ buông tơ.
Sân trăng thoáng liễu hương nồng đậm,
Suối nước lồng mai dáng hững hờ.
Nhân nghĩa thiếu chi, cười thế cuộc,
Xuân vương ý đẹp, mộng tìm thơ.
Đọc ngược :
Thơ tìm mộng đẹp, ý vương xuân,
Cuộc thế cười chi thiếu nghĩa nhân!
Hờ hững dáng mai lồng nước suối,
Đậm nồng hương liễu thoáng trăng sân.
Tơ buông lỡ nhịp, đàn dang dở,
Vận nhuốm sầu hoa, bút ngại ngần.
Mơ ước những ai lòng thắm gợi,
Thơ tìm mộng đẹp, ý vương xuân.
Như đã nêu từ đầu, xét về mặt cấu
trúc, nói lái và nói đảo đều hình thành trên cơ chế hoán
vị.
Hoán vị bộ phận là nói lái.
Hoán vị toàn thể là nói đảo.
Hiện tượng ngữ ngôn độc đáo này ngày
càng mở mang nhiều chiều kích tuyệt vời cho tiếng Việt
trên dặm dài phát triển.♥
_________________
(1) Lãng
Nhân là một bút danh của Phùng Tất Đắc (1907 – 2008).
(2) Họ tên
đầy đủ: Jean-Paul Charles Aymard
Sartre.
(3) Nay là
Bảo tàng Mỹ thuật cung đình Huế.
(4) Có thể
tham khảo các sách Về hai bài thơ hồi văn kiêm liên hoàn
của vua Thiệu Trị do Nguyễn Tấn Phong biên soạn (NXB Thuận
Hoá, Huế, 1994) và Tìm hiểu kỹ xảo hồi văn liên hoàn
trong bài "Vũ trung sơn thuỷ" của Thiệu Trị do Nguyễn
Tài Cẩn biên soạn (NXB Thuận Hoá, Huế, 1998).
(5)
Nguyễn Trọng Trí (1912 - 1940) ký nhiều bút danh, trong đó có
Hàn Mạc Tử và Hàn Mặc Tử. Khảo sát kỹ lưỡng,
nhiều nhà nghiên cứu nhận thấy bút danh chính thức của
Nguyễn Trọng Trí những năm cuối
đời là Hàn Mạc Tử.
Đã
đăng trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay 827 (1-8-2013)
Jean-Paul Sarte
cũng được hoặc bị gọi đùa theo kiểu nói lái là Jean Sol
Pâtre / Patre. Hí hoạ: Pablo Robato
Thế Lữ.
Hí hoạ: Chóe
André Malraux
trên tem bưu chính Pháp
Phanxipăng
viếng đền thờ Nguyễn Công Trứ tại làng Uy Viễn,
xã Xuân Giang,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Ảnh: Ngô
Kiên
Bức khảm
xà cừ bài thơ hồi văn liên hoàn 雨中山水 /
Vũ
trung sơn thuỷ / Non nước trong mưa của vua Thiệu Trị