Viếng chùa Phổ Quang 
ở Huế

Phanxipăng

Một trong những nét đặc sắc của chùa Phổ Quang ở Bến Ngự, TP. Huế: 
tạo lập mối quan hệ với các nhân vật nổi tiếng về nhiều phương diện 
như cung tần Tống Thị Thuận, công chúa Nghĩa Hoà, hoàng hậu Lệ Thiên Anh,
đề đốc Tôn Thất Đính, chí sĩ Phan Bội Châu, nữ sử Đạm Phương, 
học giả Trần Văn Giáp, nhà báo Phạm Quỳnh, 
nhà văn Khái Hưng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn.
Theo quyển Phủ Thừa Thiên trong bộ Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chùa Phổ Quang toạ lạc ven sườn đồi thuộc ấp Trường Giang, xã Phú Xuân, huyện Hương Thuỷ. Nay, đó là phường Phước Vĩnh, TP. Huế. Từ chợ Bến Ngự, qua chiếc cầu cùng tên bắc ngang sông Lợi Nông, đi thêm quãng ngắn trên đường Phan Bội Châu (trước năm 1976 là đường Nguyễn Hoàng) đoạn rẽ trái vào xóm uốn lượn ven đường sắt cỡ 50m liền thấy tam quan chùa Phổ Quang. Cũng có thể đến chùa Phổ Quang từ trước nhà lưu niệm và mộ danh nhân Phan Bội Châu trên đường cùng tên, qua cổng chùa Linh Quang, thả dốc Bến Ngự, đến giáp tuyến đường ray xe lửa thì rẽ phải.

Ngôi già lam này được thành lập bao giờ? Bia đá Phổ Quang tự bi minh do Cúc Khuê Lâm Mậu Thiếu Anh soạn vào niên hiệu Bảo Đại thứ V tức Canh Ngọ 1930, được Lê Nguyễn Lưu cùng Võ Văn Oanh phát hiện năm 1989 trong lớp đất vườn chùa. Văn bia đó mở đầu: "Phổ Quang tự kiến trúc bất tường hà đại" (Chẳng rõ chùa Phổ Quang xây dựng từ thời nào).

Năm Đinh Hợi 1827, niên hiệu Minh Mạng thứ VIII, chùa Phổ Quang được hoà thượng Tánh Viên trùng hưng. Chùa long thịnh với nội ngoại thất khang trang được phục hồi lẫn tân tạo nhờ sự ủng hộ nhiệt tình của các nữ lưu quý tộc trong cung đình triều Nguyễn như thái trưởng công chúa Nghĩa Hoà tức Nguyễn Phúc Ngọc Nguyệt (con của vua Gia Long, chồng là phó vệ uý Nguyễn Đức Hổ) có pháp danh Hải Thanh, và mẹ ruột là cung tần Tống Thị Thuận có pháp danh Tánh Hoà, cùng nhiều quan lại như đề đốc Tôn Thất Đính (phụ thân của đại thần Tôn Thất Thuyết) có pháp danh Thanh Liên.

Mùa xuân Ất Mùi 1895, niên hiệu Thành Thái thứ VII, sư trụ trì Chánh Động xin cúng dường chùa Phổ Quang cho hoà thượng Cương Kỉ ở chùa Từ Hiếu. Sự kiện này tạo bước phát triển tốt đẹp đối với thiền đường nơi dốc Bến Ngự: sư Cương Kỉ cho phép đệ tử là tỉ khâu ni / tì kheo ni Thích Nữ Diên Trường (thế danh Hồ Thị Nhàn, con của Hồ Đắc Tuấn và Công Nữ Thức Huấn, chồng Nguyễn Đôn Lý mất sớm) dốc sức trùng tu chùa Phổ Quang. Nghe sư nữ Diên Trường tâu trình, thái hoàng thái hậu Trang Í Thuận Hiếu (tức hoàng hậu Lệ Thiên Anh là nguyên phi của vua Tự Đức) ban cấp 2 mẫu ruộng ở làng Thần Phù cho chùa Phổ Quang làm tự điền. Lúc ấy, chùa do sư Tịnh Minh trụ trì. Tu sĩ này đã chú tạo đại hồng chung, sắm thêm tự khí và pháp khí, lại xây cổng tam quan hiện vẫn bảo lưu.

Nghe lời bàn bạc của Võ Liêm Sơn, Lê Ấm, Trần Đình Nam, v.v., tỉ khâu Thích Tịnh Minh đã mạnh dạn quyết định: đồng í để nhà cách mạng Phan Bội Châu (1867-1940) tạm trú trong chùa Phổ Quang. Thời khoảng nọ, cụ Phan vừa bị thực dân Pháp bắt tại Trung Hoa, đưa về Hà Nội xử chung thân khổ sai, đoạn tha bổng nhưng buộc "an trí" tại Huế. Chí sĩ Sào Nam tá túc nơi chùa Phổ Quang già nửa năm, từ tháng 6/1926 đến tháng 1/1927, lập tức thu hút đông người thường xuyên lui tới - từ các thành viên trong chính quyền "bảo hộ" của Pháp, tất nhiên có bè lũ mật thám, đến đông đảo đồng bào Việt Nam yêu nước. Tại nhà khách của chùa Phổ Quang, ngay từ tháng 6/1926, với sự cố vấn của Phan Bội Châu, một đoàn thể mang tên Nữ Công Học Hội xuất hiện do Đạm Phương nữ sử (tức Công Nữ Đồng Canh, vợ của Nguyễn Khoa Tùng, mẹ đẻ Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) làm hội trưởng, Nguyễn Thị Khuê (vợ của nhà thơ Á Nam Trần Tuấn Khải) làm hội phó, Trần Thị Như Mân (vợ của học giả Vệ Thạch Đào Duy Anh) làm tổng thư kí.

Năm Canh Ngọ 1930, Nguyễn Thị Kim Đính (con gái của bà Hồ Thị Nhàn tức tỉ khâu ni Thích Nữ Diên Trường, chồng là bác sĩ Trương Xướng) xin đại trùng tu chùa Phổ Quang. Nhiều Phật tử phát bồ đề tâm, hiến vật lực, mà một trường hợp đáng kể là vợ viên quan năm / trung tá Pháp mang họ tên Lê Thị Vượng có pháp danh Tâm Ngộ cúng dường 2.000 đồng bạc Đông Dương - giá trị hơn 1kg vàng ròng.

Năm Ất Dậu 1945, chùa Phổ Quang được thượng toạ Thích Mật Thể trụ trì. Thời gian này, sư Mật Thể dành tâm sức biên soạn sách Việt Nam Phật giáo sử lược đồng thời đón tiếp một số trí thức văn nghệ sĩ vãng cảnh chùa và đàm đạo: học giả Thúc Ngọc Trần Văn Giáp, nhà báo Phạm Quỳnh, nhà văn Khái Hưng, v.v..

Năm Mậu Tí 1948, thượng toạ Thích Tâm Quang trụ trì chùa Phổ Quang. Do nhiều hạng mục của ngôi già lam bị xuống cấp nặng nề, nên sư Tâm Quang tiếp tục đại trùng tu vào năm Canh Dần 1950.

Trụ trì chùa Phổ Quang giai đoạn 1954-1984 là hoà thượng Thích Chánh Pháp, và từ năm 1984 là hoà thượng Thích Huệ Ấn. Năm 2001, sư Huệ Ấn xây mới chánh điện cùng hậu tổ, đồng thời chú thêm tượng, đúc thêm đại hồng chung.

Sực nhớ nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (1939-2001) sinh thời từng nói với tôi:

- Gia đình mình theo đạo Phật. Bản thân mình là Phật tử, quy i ở chùa Phổ Quang với pháp danh Nguyên Thọ.

Tôi bèn hỏi sư Huệ Ấn:

- Hoà thượng vui lòng cho biết mối quan hệ của gia đình nhạc sĩ Trịnh Công Sơn với chùa Phổ Quang.

Sư Huệ Ấn đáp:

- Ông bà Trịnh Xuân Thanh và Lê Thị Quỳnh cùng 8 con, mà Trịnh Công Sơn là trưởng nam, đều quy i Tam bảo ở chùa này, được hoà thượng Thích Chánh Pháp ban pháp danh bắt đầu bằng chữ Nguyên. Sổ quy i ghi rõ: ông Thanh pháp danh Nguyên Bình, bà Quỳnh - Nguyên Hoa, Trịnh Công Sơn - Nguyên Thọ, Trịnh Thị Vĩnh Trinh - Nguyên Đàm, v.v..

Vừa nói, sư Huệ Ấn vừa đưa tôi rời chánh điện vào hậu tổ. Nơi đó, hàng loạt di ảnh Phật tử quá cố được trưng bày trang trọng trên bàn thờ linh, nổi bật nhất là hình chụp chân dung tác giả các bài hát Tự tình khúc, Nguyệt ca, Biết đâu nguồn cội, Một cõi đi về, Sóng về đâu, Này em có nhớ, Để gió cuốn đi, Đoá hoa vô thường, v.v.. Điều đặc biệt là không chỉ có ảnh trên bàn thờ, bộ ba Trịnh Xuân Thanh, Lê Thị Quỳnh, Trịnh Công Sơn còn được ưu tiên treo thêm ảnh lên vách tường.

- Trong các ca khúc của Trịnh Công Sơn, bài nào được tu sĩ thích nhất?

Giữa sân chùa Phổ Quang, dưới cội ngọc lan, nghe tôi nêu thắc mắc thế, đại đức Thích Tín Thọ nhoẻn cười rồi khẽ hát:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi
Để một mai vươn hình hài lớn dậy
Ôi cát bụi tuyệt vời
Mặt trời soi một kiếp rong chơi…


Tam quan chùa Phổ Quang, Bến Ngự, Huế. 
Ảnh: Phanxipăng

Phanxipăng với công trình vừa tân tạo năm 2001 ở chùa Phổ Quang. 
Ảnh: Trần Ngọc Mẫn

Hòa thượng Thích Huệ Ấn trụ trì, bên bia đá Phổ Quang tự bi minh
Ảnh: Phanxipăng

Vách tường hậu tổ chùa Phổ Quang có treo 3 tấm ảnh 
Trịnh Xuân Thanh, Lê Thị Quỳnh, Trịnh Công Sơn. 
Ảnh: Phanxipăng