THI
CA KHÚC XXV : NƠI ĐỊA NGỤC - HOÀ BÌNH
TÓM LƯỢC : Thần
Hermès dẫn hồn những người cầu hôn xuống địa ngục.
Nơi đây được vua Agamemnon và tướng Achille xét xử,
được hỏi Amphimédon trả lời về nguyên nhân và diễn
tiến cuộc tàn sát, Agememnon khen ngợi sự trung trinh của
Pénélope và trừng phạt tội bọn cầu hôn. Ulysse về
thăm cha nơi đồng quê, Ulysse giả vờ xưng tên Alybas hỏi
thăm bạn Ulysse cho cha khỏi bất ngờ, sau đó mới cho cha
nhận diện. Giữa bữa ăn cựu quản gia Dolios và sáu
người con trở về gặp nhau mừng rỡ. Lúc đó tin bọn
cầu hôn bị giết lan nhanh, gia đình đến mang xác về.
Eupithès đứng đầu nổi dậy chống Ulysse. Thần nữ
Athéné hỏi ý Thần Zeus ước vọng mang lại hòa bình
cho dân Ithaque. Hai bên giáp trận Eupithès bị Laerte phóng
thương giết chết, bọn thân nhân cầu hôn còn lại bỏ
chạy, Thần nữ Athéné can thiệp và nối lại hòa bình,
xóa tan oán hờn hai bên.
Nói về đường
xuống cõi âm,
Hạc Mai Thần Sứ
dẫn hồn cầu hôn.(Hermès)
Phép mầu thần
cõi Chi Liên, (Cyllène)
Đũa thần huyền
diệu ru hồn cầm tay. (11550)
Khép mi, thoát
dẫn hồn đi,
Lìa thân về chốn
âm ty ngàn trùng.
Đũa thần dẫn
lũ âm hồn,
Đêm sương tăm
tối lạnh lùng tiếng chim.
Từ muôn lỗ tối
hang đen,
Cánh dơi thấp
thoáng bóng đêm chập chàng.
Hồn theo dơi lạnh
non ngày,
Gieo chùm lá biếc,
kêu than đường dài.
Thoáng sao băng
vượt trời mây,
Qua truông rừng
thẳm, vượt bay sóng ngàn. (11560)
Vượt qua sóng
cả Đại Dương,(Océan)
Vượt đá Liêu
Cát, cửa Thần Thái Ô,(Leucade, Hélios)*
Vượt sông Xích
Tích thuyền đò,(Styx)
Đến đồng lan
dại, tr(a)́ng bờ lao thưa.
Nơi đây tạm nghỉ
hồn vừa,
Mới lìa trần
thế đợi chờ Phán Quan.
Phán Quan đây hồn
An Sinh,(Achille)
Pê Lê tôn tử
lẫy lừng thành Troa.(Pélée)
Ban Tuấn, An Thi
Lộc hầu kề,(Patrocle. Antiloque)
Dũng tướng An
B(a)́c cũng về gần bên,(Ajax) (11570)
Quan mới An Gia
Đại Vương,(Agamemnon)
An Lê tôn tử chết
cùng đớn đau,(Atrée)
Về đây cũng
được ngôi cao,
Xét hồn kẻ chết
mới vào cõi âm.
Hồn An Sinh mới
hỏi rằng :
An Lê tôn tử,
lạ chăng chốn này,
Nghĩ rằng ngài
chẳng về đây,
Mà về cõi
Dớt trời mây sấm rền.
Biết bao dũng
tướng can trường,
Hịch truyền
dưới trướng công thành vua Troa. (11580)
An Kinh gian khổ
vô bờ,
Danh ngài mang
chiến công to hàng đầu.
Vì đâu ngài
chết thương đau,
Chẳng nơi chiến
trận thành cao kiêu hùng.
Chết ngày về
giữa quang vinh,
Than ôi ! số
phận đã dành đớn đau.
Dân Bạt Na Liên
xây mộ cao,(Parnachéens)
Con ngài tận
hưởng biết bao gia tài.
Nhớ thương
minh đế tuyệt vời,*
Mà riêng định
mệnh về nơi cõi này. (11590)
An Lê tôn tử tỏ
bày :
Pê Lê tôn tử,
phúc thay anh hùng,
An Sinh dũng tướng
như thần,
Vinh quang được
chết chiến trường thành Troa.
Xa Đạt Quốc
chốn quê nhà, (Argos)
Hai bên dũng
tướng xông pha trận tiền.
Thây ngài một
trận tranh giành,
Bụi tung mù
mịt, ngựa hồng vó bay.
Giáp thương
lâm chiến ngày ngày,
Đấu tranh tận
lực, chẳng tay nào ngừng. (1160)0)
Nếu Thần Dớt
tự Thiên Đình,(Zeus, Olympe)
Chẳng dâng mưa
bão tối sầm trời mây.
Chiến thuyền
hậu cứ mang thây,
Ướp hương
t(a)́m rửa giường bày hoa thơm.
Tướng, quân
lệ nóng ngập tràn,
Bứt tai, bức
tóc thương trang anh hùng.
Mẹ ngài từ
chốn thủy cung,
Và bao tiên nữ
về trần tiễn đưa.
Sóng gào, gió
thét phong ba,
Tiếng thương
đứt ruột xót xa lạnh lùng. (11610)
Quân binh hoảng
sợ ẩn mình,
Ninh Tô vương
lão lược kinh chuyện đời,(Nestor)
Trấn an binh
sĩ truyền lời,
Chớ nên bỏ
trốn hỡi người An Kinh.
Ấy là thân
mẫu An Sinh,
Cùng tiên nữ
chốn thủy cung đến rồi.
Dự tang lễ
của con trai,
Tướng quân
nghinh tiếp mẹ ngài quanh thây.
Hai hàng tiên
nữ lễ bày,
Khóc cùng thân
mẫu, gào lay sóng ngàn. (11620)
Phủ thây ngài
áo thần tiên,
Chín nàng Thi
nữ tiếng thanh tuyệt vời,(Muses)*
Hát lời Mộ
Khúc tặng ngài,*
Lời thơ cảm
động người người lệ sa.
Giao âm thương
cảm chan hòa,
Lời thanh như
suối thấm qua tâm hồn.
Khóc thương
mười bảy ngày đêm,
Từ thần tiên
đến người trần thế gian.
Ngày mười
tám đốt lửa đàn,
Bò cừu c(a)́t
cổ tế sinh lễ bày. (11630)
Áo thần tiên
cháy cùng thây,
Bao mùi hương
mật thơm bay dịu dàng,
Chung quanh tướng
sĩ anh hùng,
Giơ cao vũ khí,
dậy lừng tiếng vang.
Vang cùng Thần
tử Hỏa Sơn
Đến khi rạng
sáng lửa tàn lượm xương,
Đựng trong rượu
cất ướp hương,
Mẫu thân ngài
tặng hủ chum bằng vàng.
Do Thần Hoả
Thái gia công,(Héphaistos)
Rượu Tửu
Thần cất ướp cùng với xương,(Dionysos) (11640)
Quân vương nghi
lễ đã dành,
An Sinh dũng tướng
tài danh anh hùng.
Mai Tuấn tôn
tử bạn hiền,(Ménoetios)
Ban Tuấn dũng
tướng trận tiền xã thân.(Patrocle)
An Thi Lộc tử
trận anh hùng,(Antiloque)
Một nơi yên
nghỉ chung cùng với nhau.
Dựng trên một
nấm mộ cao,
Trên đồi nhìn
xuống lao xao sóng ngàn.
Hoan Lạc Cầu
chốn anh hùng,(Hellespont)
Vẫn còn mãi
mãi trong lòng nhân gian. (11650)
Mẫu thân ngài
lễ cầu thần,
Lễ hội vinh
dự đua tranh đấu trường.*
Thi đua dũng
sĩ An Kinh,
Anh hùng rạng
rỡ vinh danh nhớ ngày.
Thao trường
lễ hội cuộc thi,
Tinh thần mã
thượng định kỳ hàng năm.
Giải trao Thê
Túc nữ thần,
Hiệu danh Ngân
Túc, cõi trần vinh quang.*
An Sinh dù có
tử vong,
Tên anh hùng
vẫn ngàn năm nhớ hoài. (11660)
Còn riêng số
phận của tôi,
Được gì chiến
th(a)́ng sáng ngời vinh quang ?
Dớt cho số
phận bẽ bàng,
Chết vì Âu
Thích, vợ cùng gian dâm.(Egisthe)
Hai vị Phán Quan
cõi âm,
Còn đang tâm sự,
một đoàn đến nơi.
Đạt Duy Phong lệnh
dẫn vời,(Hermès Argiphonte)
Bọn cầu hôn mới
chết nơi cõi trần.
Bởi phe Uy Lĩnh
và con,
Hai Phán Quan đã
ngạc nhiên sự tình. (11670)
Nhận ra Âm Phi
Mê Đông,(Amphimédon)
Công tử Mê Lăng
Nhược vốn từng biết quen.(Mélenneus)
Từng nơi An Thạch
tiếp tân,
Tôn tử An Trích
đầu tiên hỏi lời :
Âm Phi Đông cớ
sự gì ?
Một đoàn công
tử cùng đi Âm tuyền.(Hadès)
Trai anh hào tuổi
thanh niên,
Chết cùng một
chốn thị thành, lạ chưa ?
Hải Long Vương
đ(a)́m thuyền bè ?
Gió to sóng
dữ hồn về cõi âm ? (11680)
Hay nơi đất
địch cướp giành,
Cừu bò, phụ
nữ ra thân bại tàn ?
Riêng người
có nhớ ta chăng ?
Ngày xưa ta đã
từng thăm nhà người.
Đáp thuyền,
An Thạch đến nơi,
Cùng Mai Ninh
Lạc cầu người hùng anh.(Ménélas)
Mời vua Uy Lĩnh
ra quân,
Ý Long thẳng
tiến vây thành vua Bi Am.
Hồn Âm Phi Đông
mới rằng :
An Lê tôn tử,
An Gia Vương vua người. (11690)
Tôi xin kể hết
đôi lời,
Nỗi lòng chân
thật, sự đời tang thương.
Uy Lĩnh v(a)́ng
tin bao năm,
Ngỡ rằng đã
chết, nên cùng cầu hôn,
Nàng Nhã Lan
chẳng chối lòng,
Cứ tìm duyên
cớ mà lần lừa thôi.
Nàng đầy kế
giết chúng tôi,
Trăm người
chẳng thoát tay nơi Tử thần.
Nàng căng khung
cửi trong phòng,
Ngày đêm dệt
một tấm khăn sô dài. (1170)0)
Nàng đà bảo
với chúng tôi,
Bao trang công
tử có lời cầu hôn,
Uy Lĩnh không
biết sống còn,
Nhưng tôi còn
dệt tấm khăn liệm này,
Vua ông Lã Đạt
còn đây,
Sức già chẳng
biết một ngày nào đi.
Phận làm dâu
ở phải thì,
Lời kia tiếng
nọ bảo chi ham tiền.
Chúng tôi chiều
ý lời rằng,
Vì lòng cao
thượng cưu mang đợi nàng. (11710)
Ngày nàng dệt,
đến đêm sang,
Chẳng ai, nàng
th(a)́p đuốc hồng tháo ra.
Ba năm dằng dẵng
thế là,
Có nàng thị
nữ báo ra tin này.
Chúng tôi canh
gát đêm ngày,
Tấm khăn thô
liệm chóng chày vừa xong.
Đẹp long lanh
tựa ánh trăng
Thì là đúng
lúc có Thần xấu tâm,
Đã mang Uy Lĩnh
về cùng,
Đến nơi Gềnh
Quạ trại chăn lợn này. (11720)
Con trai Uy Lĩnh
cùng đi,
Phi Lô rồi trở
về thì gặp cha.
Cha con bàn tán
mưu là,
Tàn sát những
kẻ đến nhà cầu hôn.
Đi trước Viễn
Mạc về thành,
Uy Lĩnh theo gót
giả thân ăn mày,
Quản trại heo
cũng cùng đi,
Già nua chống
gậy lầm lì thảm thương.
Thình lình xuất
hiện trong phòng,
Già hơn Uy Lĩnh,
chẳng nhìn được ra. (11730)
Thế rồi kẻ
đuổi người xua,
Kẻ đánh, người
m(a)́ng trong nhà nào hay.
Uy Lĩnh nhẫn
nại mưu dày,
Dớt đà định
phận giúp tay ý đồ.
Thế Viễn Mạc
cất vào kho,
Tất cả vũ
khí treo cao vách phòng.
Nàng Nhã Lan
mang nõ cung,
Bảo rằng thi
b(a)́n nỏ tên chọn chồng.
Chúng tôi thử
sức thay phiên,
Chẳng ai giương
kéo được cung nỏ này. (11740)
Uy Lĩnh xin thử
b(a)́n thay,
Chúng tôi phản
đối, ăn mày chớ trao.
Thế Viễn Mạc
quyết định vào,
Âu Mê cầm chiếc
nỏ cho chủ mình.
Uy Lĩnh cầm
nỏ giương cung,
Mũi tên nhanh
chóng b(a)́n xuyên hàng rìu.
Rồi từ nơi
ngưỡng cửa cao,
Uy Lĩnh nh(a)́m
b(a)́n tên vào đám đông,
M(a)́t nhìn căm
hận trừng trừng.
Trúng Án Tinh
Lộc lăn đùng trước tiên. (11750)
Uy Lĩnh cởi
áo xưng tên,
Mũi tên như
sáo rít lên lạnh lùng.
Người cầu
hôn ngã chất chồng,
Tôi còn thấy
một vị Thần tiếp tay.
Hết tên đến
giáo thương bay,
Cầu hôn ngã
gục phòng đầy tiếng rên.
Trúng tim, trúng
sọ máu tràn.
Chúng tôi đã
chết đau thương trong phòng.
Còn đây xin
thưa Đại Vương,
Lầu trang Uy
Lĩnh, thây còn chưa chôn. (11760)
Thân nhân chưa
biết hay tin,
Đến lau máu
đỏ vết thương, cuối cùng,
Khóc than thương
tiếc người thân,
Phút giây vĩnh
biệt tử vong kiếp người.
Hồn Phán Quan
xử một lời :
Phúc thay Uy Lĩnh
vốn người nghìn mưu.
Xứng danh người
vợ thương yêu,
Tấm lòng trung
chính không điều bợn nhơ.
Nhã Lan nương
tử Anh Cơ,(Pénélope Incarios)
Tấm lòng trinh
tiết đợi chờ chồng xa. (11770)
Khả phong tiết
hạnh hẵn là,
Thần ban cho
một bài ca tuyệt vời.
Chẳng như nương
tử Tinh Đa tôi,(Tyndare, Clétemnestre)
Thông dâm kẻ
địch cướp ngôi, giết chồng.
Ô danh muôn thuở
thế gian,
Nghìn năm soi
mãi việc làm cười chê,
Các ngươi cõi
chết trở về,
Tà tâm, tội
lỗi chớ hề trách ai.
Tự mình chuốc
oán mà thôi,
Tự mình mua
lấy tiếng cười thế gian. (11780)
Chẳng nghe lời
kẻ khuyên răn,
Thì nay Địa
ngục tối tăm đời đời.
Nói về An Thạch
cõi người,
Một đoàn Uy Lĩnh
rời nơi thị thành,
Vượt qua rừng
suối đến đồng,
Trang trại Lã Đạt
cây trồng tươi xanh.
Ngôi nhà giữa
n(a)́ng vây quanh,
Trại vườn, tôi
tớ chăm trồng thảnh thơi.
Vua ông, hầu cạnh
một người,
Si Chi Liên lão
phụ một đời chăm nom.(Sicilienne)* (11790)
Uy Lĩnh vội nói
với con,
Cùng hai quản trại
lo tròn tiệc vui :
Thịt con heo béo
đãi người,
Phần cha muốn
thử ông thời có hay.
Xem ông có nhận
ra ngay,
Đứa con xa cách,
ngày ngày hằng trông..
Nói rồi cởi
giáp trao thương,
Rồi thong dong thẳng
ra vườn tìm cha,
Quản gia chẳng
có ở nhà,
Đỗ Quốc cùng
các con ra ngoài đồng. (Dolios) (1180)0)
Đi tìm chặt bụi
xương rồng.
Về làm rào dậu
bên vườn trồng rau.
Thấy cha ở cuối
vườn sau,
Cầm mai vun một
gốc đào nở hoa.
Áo quần lấm
đất bụi nhơ,
Găng đen rách,
mũ da dê trên đầu.
Trong lòng bao nỗi
thương đau,
Chẳng buồn ăn
mặc, lòng nào nhớ con.
Dưới cành lê
nước m(a)́t tràn,
Uy Lĩnh thầm hỏi,
chạy liền đến ngay. (11810)
Ôm cha hôn nước
m(a)́t đầy,
Quê cha đất tổ,
hôm nay con về,
Hay là thận trọng
giả vờ,
Thử lời cha khỏi
bất ngờ ngất đi.
Uy Lĩnh đi thẳng
đến ngay :
Cụ già ơi !
có lời này hỏi thăm,
Mảnh vườn
tươi tốt sóc chăm,
Táo, lê, nho,
vả cây cành tốt tươi,
Vườn xanh ngược
với con người,
Chẳng buồn
chăm sóc, tả tơi áo quần. (11820)
Dáng người,
vua ở trên trần,
Gia nhân đâu
chẳng lo chăm sóc người ?
Người đang
làm việc cho ai ?
Nói cho tôi biết
đâu nơi đất này ?
An Thạch có
phải là đây ?
Như kẻ tôi gặp
chỉ tay trả lời.
Tôi đi tìm kiếm
một người,
Năm xưa đã
đến nhà tôi nghĩa tình.
Tiếp tân hậu
đãi kết thân,
Xưng quê An Thạch
vốn dòng cao sang. (11830)
Xưng cha Lã Đạt
là tên,
Đạt Kinh Quốc
tôn tử vua trên đất này.(Arcisios)
Người cha mừng
trả lời ngay,
M(a)́t rơm rớm
lệ lòng đầy nhớ thương :
Khách ơi, đúng
xứ người tìm,
Cung đình bị
chiếm bởi phường kiêu quân,
Nhưng tôi muốn
hỏi người rằng :
Khách kia người
đã gặp bao năm rồi ?
Ấy là con trai
của tôi,
Xa quê hương
kh(a)́p đất trời lang thang. (11840)
Biển sâu cá
rỉa, có còn ?
Hay muôn cầm
thú xác ăn chiến trường ?
Mẹ không liệm
được tấm khăn,
Cha còn thương
khóc nỗi lòng nào vơi !
Vợ hiền than
thở thương hoài,
Không ai vuốt
m(a)́t cho người thương yêu !
Hỏi người
quê quán, họ tên,
Xứ nào người
đã đi thuyền đến đây ?
Hay là đi hộ
thuyền ai ?
Uy Lĩnh bịa đặt,
trả lời xót xa : (11850)
Tôi danh hiệu
A Li Ba,(Alybas)
Vốn trong cung
điện ngọc ngà giàu sang.
Con vua A Phi Đạt
giống dòng,(Aphidas)
Bồ Ly Môn tôn
tử bao năm trị vì.(Polypémon)
Âu Phi Tích hoàng
tử tên tôi,(Épérite)
Si Ca Ni xa xứ,
ngược xuôi giang hồ.(Sicanie)
Thuyền tôi vừa
cặp bến bờ,
Bên bờ biển
v(a)́ng ghềnh nhô sau đồng.
Cách đây chừng
đã bốn năm,
Có chàng Uy
Lĩnh đến thăm quê nhà. (11860)
Kết tình, kết
nghĩa bạn xa,
Hẹn ngày An
Thạch đi qua thăm chàng.
Vua Ông Lã Đạt
đau buồn,
Lòng như một
đám mây vương tối sầm.
Đôi tay bám cát
bụi đen,
Ôm đầu bạc khóc,
thở than bồi hồi.
Tim chàng se th(a)́t:
Cha
ơi !
Đ(a)́ng cay, chua
xót, nỡ lời dối dang.
Ôm hôn cha nước
m(a)́t tràn :
Con đây cha đã
bao năm mong chờ, (11870)
Hai mươi năm
v(a)́ng xa quê,
Cha ơi, con đã
trở về hôm nay,
Cha ơi, ngừng
khóc thương này,
Để con nói
chuyện tin ngày đoàn viên.
Con đà giết
bọn cầu hôn,
Trả thù mối
nhục oán hờn bao năm.
Trừng phạt
tội ác chúng làm,
Chúng đà tiêu
diệt ở nơi cung đình.
Vua Ông mờ m(a)́t
ngước nhìn:
Con tôi Uy Lĩnh,
phải con về nhà. (11880)
Cho cha bằng cớ
ch(a)́c là..
Uy Lĩnh đứng
dậy vén ra chân trần:
Đây là dấu
thẹo heo rừng,
Ngày xưa quê
ngoại đã từng đi săn.
Vườn này cây
trái thơm lành,
Cha cho con những
gốc cành ngày thơ.
Cho con mười
ba cây lê,
Và mười cây
táo xum xuê trong vườn.
Bốn mươi cây
vả xanh um,
Năm mươi hàng
gốc nho chùm tốt tươi. (11890)
Vua ông Lã Đạt
nghe lời,
Ôm hôn con luống
bồi hồi yêu thương :
Phép mầu Thần
Dớt vạn năng,
Và bao thần
chốn Cung Đình Thiên Sơn,
Đã trừng phạt
bọn cầu hôn,
Nhưng lòng cha,
nỗi lo còn giờ đây.
Thân nhân của
chúng giờ này,
Hay tin ch(a)́c
sẽ đến đây trả thù.
Uy Lĩnh trấn an
lo âu :
Con đà lo liệu
việc dù xãy ra. (1190)0)
Bây giờ ta hãy
vào nhà,
Tiệc vui con
đã bảo gia nhân rồi,
Bữa ăn nhanh
chóng ngày vui.
Cha con thong thả
vào nơi nhà vườn.
Gia nhân đã c(a)́t
thịt xong,
Rượu thơm nêm
ướp đang vần lửa than.
Vua ông sung sướng
ngập tràn,
Lão tỳ t(a)́m
rửa, xoa hương, khăn choàng.
Quán Trí Thần
nữ hiện bên,
Hóa thêm sức
lực, m(a)́t tròn sáng trong. (11910)
Mặc y trang bước
khỏi phòng,
Vua ông như một
thiên thần giáng lâm.
Uy Lĩnh sững sốt
mừng rằng :
Ch(a)́c là cha
được các thần hộ cho,
Oai nghiêm bóng
dáng thanh cao.
Vua ông Lã Đạt
cười to hài lòng :
Ta từng chỉ
đạo đánh thành,
Chiếm Nê Ri
Cốt vang danh anh hùng,(Néricos)
Lẽ nào quỳ
gối được chăng,
Bên con gươm
giáo ta tròn lòng vui. (11920)
Nói rồi oai vệ
vào ngồi,
Cùng con mở tiệc,
mọi người nâng ly.
Đỗ Quốc về
đến tức thì,
Sáu con trai cũng
về, đi từ đồng.
Bước nhìn Uy
Lĩnh bàng hoàng,
Sững sờ sung
sướng, m(a)́t tràn yêu thương.
Già ơi, hãy
đến ngồi cùng,
Lâu rồi ta chẳng
ngồi chung một bàn.
Đỗ Quốc nâng
lấy tay chàng,
Ôm hôn lòng cũng
ngập tràn sướng vui. (11930)
Thần ban hạnh
phúc cho tôi.
Rằng Nhã Lan
đã biết rồi hay chưa ?
Cậu về đây,
có về nhà..
Chàng cười :
Nàng
biết, rằng già khỏi lo.
Các con Đỗ Quốc
cùng vô,
Rồi bên Uy Lĩnh
đùa nô tiệc mừng,
Nói về tin tức
ngoài thành,
Tin cầu hôn chết
lan nhanh phố phường.
Thân nhân tìm đến
cung đình,
Mang về thi thể,
quây quần tang ma. (11940)
Người các thành
phố đảo xa,
Xuống thuyền
ngư phủ, đưa qua quê nhà.
Thân nhân hội
An gô ra,
Cầm đầu Âu
Phi Thệ, người cha oán hờn,(Eupithès)
Trong lòng đau xót
đứa con,
Án Tinh Lộc đã
trúng tên phát đầu, (Antinoos):
Các bạn ơi
bao khổ đau,
Con người này
đã mang bao thảm sầu.
Đem bao người
bước xuống tàu,
Binh thuyền tan
tác, thương đau tràn trề. (11950)
Nay về giết
hại gớm ghê,
Thanh niên công
tử, chẳng hề xót xa.
Nỗi lòng nhục
nhã chúng ta.
Hãy mau rửa
nhục, mới là xứng danh.
Chớ nên để
h(a)́n nhanh chân,
Phi Lô, Âu Lịch
vượt thuyền trốn đi,(Pylos, Elide)
Nói rồi m(a)́t
lệ sầu bi,
Thân nhân nghe cũng
lâm ly cảm sầu.
Mê Đông, Phù Minh
đến mau,(Médon Phémios)
Ngừng chân kinh
ngạc, ồn ào đám đông. (11960)
Mê Đông khôn khéo
mới rằng :
Toàn dân An Thạch
nghe chăng điều này,
Các thần chẳng
thuận giúp tay,
Thì Uy Lĩnh
chẳng th(a)́ng đây trăm người.
Chính tôi thấy
một thần rồi,
Giúp cho Uy Lĩnh,
hình hài Mạnh Tô.(Mentor)
Khi khuyến khích
khi reo hò,
Đánh bạt thương
phóng, thét to kinh hoàng.
Người người
ngã rụng như sung.
Mọi người nghe
nói tái xanh hoảng hồn. (11970)
Hải Linh Công lão
anh hùng,(Halithersès)
Mạc Tô tôn tử
khôn ngoan cất lời :(Mastor)
Toàn dân An Thạch
nghe tôi,
Tôi từng tiên
đoán việc thời tương lai,
Khi điềm chim
đánh nơi này,
Lời tôi khuyên
bảo, việc nay rõ ràng.
Tôi từng tiên
đoán rành rành,
Chớ nên chèn
ép, chớ tranh vợ người.
Ăn bòn, mưu
chực dành ngôi,
Một người
cao trọng, đất trời vinh quang.
Không tin tiên
đoán tôi bàn,
Mạnh Tô khuyên
bảo, chẳng xem ra gì. (11980)
Bây giờ tai
họa là đây,
Kẻ làm nên
tội phận này tang thương.
Bây giờ nghe
tôi bảo khuyên,
Chớ chống
Uy Lĩnh mà tan cuộc đời.
Người làm
sằng bậy chết rồi,
Chớ nên theo
bước họa tai thân mình.
Nghe lời khuyên
nhủ rành rành,
Nửa phần An Thạch
thuận tình thẳng ngay.
Reo hò bỏ quảng
trường đi,
Nửa phần còn
lại siết tay trả thù. (11990)
Lời ngay chẳng
thấm lòng đau,
Nghe Âu Phi Thệ
dẫn đầu đấu tranh.
Võ trang áo giáp,
thương đồng,
Trước sân thành
rộng ra quân sẵn sàng.
Âu Phi Thệ bước
khỏi hàng,
Ngỡ rằng trả
được dễ dàng thù con.
Ngờ đâu định
mệnh thảm thương,
Thù con chẳng trả,
cũng không đường về.
Thiên đình Thần
nữ A Tê Nê,
Hỏi cha Thần Dớt
liệu bề xem sao : (12000)
Cha ơi phân xử
thế nào ?
Để cho trận
chiến tiêu hao mạng người ?
Oán thù chồng
chất nơi nơi,
Hay là hòa giải
thuận thời hai bên ?
Thiên Sơn, Thần
Dớt phán truyền :
Con ơi, sao lại
hỏi thêm lời này.
Con đà quyết
định lâu nay,
Uy Lĩnh về
nước thẳng tay trị trừng,
Hãy làm theo
ý của con.
Riêng ta thù
oán chẳng nên kéo dài. (12010)
Uy Lĩnh thù
đã trả rồi,
Hai bên nên kết
lời thôi oán hờn.
Lập đàn trang
trọng thề nguyền,
Ngôi vua Uy Lĩnh
trị dân nối đời.
Oán hờn lầm
lỗi chết rồi,
Chết vào quên
lãng, tình người lại sinh.
Uy Lĩnh trị
dân công minh,
Nước nhà giàu
có, thanh bình nở hoa.
Vâng lời Thần
nữ bước ra,
Băng mình khỏi
đỉnh tuyết sa Thiên đình. (12020)
Sau tiệc hội
ngộ no lòng,
Ở nơi đồng
nội cha con sum vầy,
Uy Lĩnh lên tiếng
lo ngay:
Hãy mau sửa
soạn đối tay quân thù,
Chẳng còn xa
chúng ta đâu.
Một con Đỗ Quốc
theo câu lệnh truyền,
Trở về báo
cáo cho tin :
Đoàn quân nổi
loạn đến gần chúng ta.
Hãy mau mặc
giáp thương ra.
Uy Lĩnh thúc dục
cả nhà nhanh chân. (12030)
Bốn người Uy
Lĩnh sẵn sàng,
Sáu con Đỗ Quốc
giáp khiên thương dài.
Đỗ Quốc, Lã
Đạt kém ai,
Tóc dù bạc tr(a)́ng
cũng oai anh hùng.
Một đoàn tiến
bước đấu tranh,
Dẫn đầu Uy Lĩnh
bước chân kiên cường,
Quán Trí Thần
nữ hiện bên,
Hóa Mạnh Tô bước
lại gần mừng vui.
Thấy trông Uy Lĩnh
tươi cười,
Nhìn Thế Viễn
Mạc nói lời khuyên răn : (12040)
Thế Viễn Mạc
hỡi nhớ rằng,
Xông pha gan dạ
xứng danh con nhà,
Chẳng làm hổ
thẹn ông cha,
Kiên cường
dũng cảm mới là hùng anh.
Tiếng danh con
giống cháu dòng.
Thế Viễn Mạc
khẽ nói rằng : Cha ơi !
Rằng con ước
nguyện trong đời,
Kiên cường
dũng cảm nên người như cha.
Chẳng làm hổ
thẹn danh nhà,
Giống dòng
anh dũng mới là vinh quang. (12050)
Vua ông Lã Đạt
vui lòng :
Phúc thần mới
có ngày lành hôm nay.
Lòng ta hạnh
phúc vui thay,
Cháu con cùng
một tình này như ông.
Kiên cường
cùng một giống dòng.
Quán Trí Tuệ
M(a)́t Cú thần tinh anh,
Bên vua Lã Đạt
mới rằng :
Đạt Kinh Quốc
tôn tử tình thân nhất đời,
Bao năm cầu
nguyện ngày vui,
Trinh Thần M(a)́t
Cú tinh ngời giúp cho. (12060)
Hôm nay quyết
định cơ đồ,
Hãy vươn đôi
cánh tay cho vững vàng,
Phóng thương
trúng đích một đường.
Nói rồi Thần
nữ phép thêm nhiệm mầu.
Hai bên giáp trận
đối nhau,
Trường thương,
khiên giáp kiếm đao sẵn sàng.
Vua ông cầu nguyện
Nữ thần,
Rồi nhanh tay phóng
ngọn thương mở đầu.
Âu Phi Thệ chưa
nói sao,
Mũ đồng rơi,
ngọn thương lao qua mình. (12070)
Tung tay khiên kiếm
đổ ầm,
Hàng đầu Uy Lĩnh
tung mình xông pha,
Thế Viễn Mạc
chẳng kém cha,
Thương bay, giáp
đổ kiếm hoa m(a)́t người.
Bên phe nghịch rối
tơi bời,
Quán Trí Tuệ
bổng thét lời : Ngừng tay!
Rồi Thần nữ
hiện hình ngay:
Hỡi dân An Thạch
ngừng tay nghe lời .
Chiến tranh thảm
họa muôn đời,
Hãy thôi máu
đổ, dứt đời điêu linh. (12080)
Mọi người kinh
hãi sợ run,
Vất gươm quỳ
gối dưới chân nữ thần.
Sấm đâu bỗng
nổ ầm ầm,
Khói bay mù mịt,
chớp giăng kinh hoàng.
Thần Dớt tung
sấm bên con,
Làm cho kiếp đảm
kinh hồn thế gian.
Kẻ thù Uy Lĩnh
quay lưng,
Vất gươm tung
chạy tháo thân về thành.
Kẻ thì luống
cuống chỉ còn,
Cúi đầu quỳ
gối, xin chàng thứ tha. (12090)
Uy Lĩnh hùng dũng,
tiếng la,
Chuyển rung mặt
đất như là chim ưng.
Cất tung cánh
vỗ nghìn trùng,
Ra tay thu trận
giáp binh mang về,
Tinh anh Thần nữ
A Tê Nê,
Đến bên Uy Lĩnh
vỗ về khuyên răn :
Giống dòng
Lã Đạt vinh danh,
Mưu thần Uy
Lĩnh an lành trị dân,
Chớ nên để
mãi chiến tranh,
Hận thù chồng
chất sẽ không yên nào. (1210)0)
Thiên Đình Thần
Dớt ngôi cao,
Muốn người
đời dứt binh đao thái bình.
Hãy mau mở
hội toàn dân,
Ban ân, ban phúc,
tội tình thứ tha.
Nghe lời Uy Lĩnh
truyền loa,
An Thạch mở hội
kết hoa thề nguyền :
Quán Trí Tuệ
đứng hiện bên,
Cùng Mạnh Tô chứng
hiệp thương lòng thành,
Từ đây An Thạch
thái bình,
Vẫn còn lưu mãi
tiếng danh đời đời. (12110)
HẾT
CHÚ THÍCH:
11562 Thời Cổ
Đại Hy Lạp chỉ biết vùng Địa Trung Hải. cho rằng ra
khỏi eo biển Maroc, Tây Ban Nha là đến cõi thần Hadès,
Địa Ngục.
11589 Agamemnon là vua các vị
vua Hy Lạp. Hy Lạp thời Cổ Đại mỗi vùng có một vị
vua. Khi có chiến tranh họ liên minh với nhau dưới sự
chỉ một vị vua hùng mạnh nhất.
11622. Chín
nàng Muses: Theo thần thoại Hy Lạp các nàng tên : Calliope,
Clio, Erato, Euterne, Malpomène, Pothymnie, Terpsichore, Talie và Uranie.
Năm nàng cai quản Văn Thơ là :
- Nàng Calliope (Kiều Thi Cơ)
cầm đàn lyre truyền thi hứng cho sử thi, anh hùng ca,
truyện thơ, thơ tự sự và diễn thuyết.
- Nàng Erato (Âu Ca Thơ) cầm
đàn cithare truyền thi hứng cho thơ mỹ tình dục.
- Nàng Euterne (Âu Thạch) cầm
sáo truyền thi hứng cho thơ trữ tình.
- Nàng Pothymnie (Bồ Thanh Ni)
trầm tư mặc tưởng truyền thi hứng cho thơ tán mỹ (hymne),
nhã ca (cantique) và kịch câm (pantomime)
- Nàng Thalie (Thanh Ly) cầm
cây gậy cong mục đồng và chiếc mặt nạ truyền thi
hứng cho thơ trào phúng, thơ du mục, ca dao và hài kịch.
- Nàng Tersichore(Thạc Chi Cơ)
cầm đàn lyre truyền thi hứng cho nghệ thuật ca múa.
- Nàng Clio(Ly Ô) Cầm tấm
thẻ truyền thi hứng cho sử học.
- Nàng Melpomène(Mai Bô Minh)
cầm mặt nạ Héraclès truyền thi hứng cho bi kịch.
- Nàng Uranie (Uy Ca Ni) cầm
quả địa cầu truyền thi hứng cho thiên văn học.
Chín nàng đều là con của
Thần Zeus và Nữ Thần Mémosyne(Ký Ức)
Nàng Calliope thường vẽ sánh
đôi với Thần Apollon cầm đàn lyre hay đàn cithare là
vị Thần của nghệ thuật và âm nhạc. Các thần và
Thi Nữ thường họp nhau trên đỉnh núi Mont Parnasse, hay
bên dòng suối Hypokren. Thần thoại kể lại Thần Zeus
say đ(a)́m ân ái với Nữ Thần Ký Ức suốt chín đêm,
sau đó Nữ Thần sinh ra chín quả trứng, sinh chín nàng
Thi Nữ, được Zeus trao nhiệm vụ cùng Apollon chăm lo đời
sống tinh thần của Thế giới Olympe và Thế giới loài
người. Các nàng Muses thường ca múa trong tiệc các Thần
, Paris có khu Monparnasse là nơi nhiều văn thi sĩ danh tiếng
tụ họp lấy từ tích này..
Thần Nữ Ly Tao; Ly Tao có
nguồn gốc từ tác phẩm Ly Tao của Khuất Nguyên nước
Sở thời Xuân Thu về sau được gọi chung cho thi ca.
11623. Mộ Khúc : khúc hát
tưởng niệm người quá cố.
11668. Mẹ Achille là Nữ thần
Thétis Thê Túc, con Thần Biển chốn thủy cung, có danh
hiệu Ngân Túc, Chân Bạc. Jeux Olympic có nguồn gốc từ
Héraclès, nhưng theo Homère có nguồn gốc từ tưởng
niệm Achille.
11790. Sicilienne người đảo
Sicile, nước Ý ngày nay.
Chương cuối cùng này nhiều
tác giả từ Aristarque đến V Bérard nghi ngờ rằng là
được người đời sau thêm vào, nhất là đoạn Thần
Hermès dẫn hồn bọn cầu hôn xuống Địa ngục. Họ nêu
những lý do sau :
- Hermès , thần cõi Cyllène
dẫn hồn người chết, không có một đoạn nào trong
các chương khác trong hai sử thi Odyssée và Iliade gọi Hermès
là thần cõi Cyllène, cầm đũa vàng dẫn hồn xuống
Hadès.
- Chín nàng Muses khóc thương
Achille. Homère trong các đoạn khác chỉ nói có một Muse
duy nhất là con gái Nữ Thần Ký Ức.
- Đoạn đối thoại giữa
Phán Quan Achille và Agamemnon, có điểm khó tin, tại sao
lại phải đợi hai mươi năm sau mới gặp nhau mới kể.
- Uy Lĩnh gặp lại cha việc
gì phải bịa chuyện dài dòng. người dịch rút ng(a)́n
lại và thêm chi tiết Ulysse sợ cha xúc động quá có
thể nguy cho tính mạng, nên bịa chuyện hỏi han rồi mới
nói sự thật.
- Đoạn đối thoại giữa
Athéné và Thần Zeus là chuyện vô bổ.
- Đoạn đối thoại giữa
Ulysse, Télémaque và vua ông Laerte về lòng can đảm khá
buồn cười.
- Trận đánh cuối cùng
khá tóm lược và thiếu tình tiết tâm lý.
Tóm lại các tác giả trên
cho rằng chương cuối cùng thiếu mạch lạc và kém cõi
hơn các chương trước.
DỊCH GIẢ
TS PHẠM TRỌNG CHÁNH
bút hiệu Nhất Uyên sinh năm 1951 tại Phan Thiết. Hiện
sống và hưu trí tại Paris. Viết nghiên cứu, vẽ tranh
sơn dầu, tạc tượng điêu kh(a)́c làm thú tiêu khiển.
Làm thơ, viết văn khi còn học Trung Học. cộng tác với
Tạp chí Thời Nay Sài Gòn, Ban Mây Tần, chương trình
thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà, Đài Phát Thanh Sài Gòn.
Du học tại Louvain Bỉ năm 1970) ngành Kinh Tế, sang Paris năm
1973 vừa làm vừa học, làm việc phụ tá họa sư Lê
Bá Đảng và học đại học ngành Kinh Tế Xã Hội, học
thêm Việt Học với Gs Lafont, Gs Nguyễn Trần Huân tại
EPHE. Sorbonne, học Trung Văn tại Đại Học Paris 7, học nhạc
với Gs Trần Văn Khê. Tốt nghiệp ngành Kinh Tế Giáo
Dục với Giáo sư Michel Debauvais (nguyên Viện Trưởng Viện
Quốc Tế Kế Hoạch Giáo Dục Unesco) tại trường EHESS,
Tốt nghiệp Tiến sĩ Khoa Học Giáo Duc Viện Đại Học
Paris Sorbonne, năm 1980), luận án dưới sự hướng dẫn
Giáo Sư Lê Thành Khôi. Kết thân cùng Huy Cận những năm
1980) ông thường sang Paris. Thơ được Huy Cận viết tựa
và xem như bạn thơ tri âm tri kỷ. Xuân Diệu năm 1981 sang
Paris ký thác toàn bộ di cảo tâm sự để soạn Tự
Điển Tình Yêu Bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Nối tiếp các
công trình nghiên cứu GS Hoàng Xuân Hãn về Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Du . Bản dịch thơ lục bát Odyssée hoàn tất năm
2005 và Iliade năm 2010), nhuận s(a)́c lại năm 20)20).
Tác phẩm: Chiêm
Bao Tr(a)́ng. Thơ, Sàigon 1969. Bóng Thời Gian. Thơ Nhất Uyên
và Nguyễn Đăng Hưng nxbThanh Long Bruxelles 1973. Thời Gian
Ta Mãi Mãi Còn Xanh Thơ Nhất Uyên và Nguyễn Đăng Hưng
nxb Hiện Diện Liège 1973. Cánh Chim Từ Vùng Lửa Đỏ.
Thơ Nhất Uyên nhạc Tôn Thất Lập. HSVST Paris 1974. Công
Cha Như Núi Trường Sơn. HSVST Paris 1975. Tình Khúc Mùa Xuân.nxb
Bông Sen Paris19́86, Thơ Tình Nhất Uyên. Huy Cận Xuân Diệu
đề tựa. Khuê Văn Paris 1985. Hồ Xuân Hương Nàng Là Ai
? Nxb Khuê Văn Paris 2001. Nguyễn Du, Mười năm gió bui và
mối tình Hồ Xuân Hương nxb Khuê Văn Paris Truyện Thơ Odyssée
Thi Hào Homère nxb Khuê Văn Paris 2005. Sử Thi Iliade Thi Hào
Homère nxb Khuê Văn Paris. 20)11. Tự Điển Tình Yêu Bằng
Thơ Tình Xuân Diệu. Khuê Văn Paris.2015.
Cộng tác với
các tạp chí và các site trong và ngoài nước: hàng trăm
bài viết trên Tạp Chí Văn Hoá Nghệ An, Nghiên Cứu Lịch
Sử, Chim Việt Cành Nam. Diễn Đàn Thế Kỷ, Giao Điểm,
Đông Tác, Khoa Học Net. Sài Môn Thi Đàn, Làng Huệ,..
|