Sử thi Odyssée - Thi hào Homère
Thiên trường ca bất tử của nhân loại
( Thi ca khúc XXV )

Nhất Uyên Phạm Trọng Chánh
chuyển ngữ thơ lục bát

THI CA KHÚC XXV : NƠI ĐỊA NGỤC - HOÀ BÌNH 

TÓM LƯỢC : Thần Hermès dẫn hồn những người cầu hôn xuống địa ngục. Nơi đây được vua Agamemnon và tướng Achille xét xử, được hỏi Amphimédon trả lời về nguyên nhân và diễn tiến cuộc tàn sát, Agememnon khen ngợi sự trung trinh của Pénélope và trừng phạt tội bọn cầu hôn. Ulysse về thăm cha nơi đồng quê, Ulysse giả vờ xưng tên Alybas hỏi thăm bạn Ulysse cho cha khỏi bất ngờ, sau đó mới cho cha nhận diện. Giữa bữa ăn cựu quản gia Dolios và sáu người con trở về gặp nhau mừng rỡ. Lúc đó tin bọn cầu hôn bị giết lan nhanh, gia đình đến mang xác về. Eupithès đứng đầu nổi dậy chống Ulysse. Thần nữ Athéné hỏi ý Thần Zeus ước vọng mang lại hòa bình cho dân Ithaque. Hai bên giáp trận Eupithès bị Laerte phóng thương giết chết, bọn thân nhân cầu hôn còn lại bỏ chạy, Thần nữ Athéné can thiệp và nối lại hòa bình, xóa tan oán hờn hai bên.
 

Nói về đường xuống cõi âm,

Hạc Mai Thần Sứ dẫn hồn cầu hôn.(Hermès)

Phép mầu thần cõi Chi Liên, (Cyllène)

Đũa thần huyền diệu ru hồn cầm tay. (11550)

Khép mi, thoát dẫn hồn đi,

Lìa thân về chốn âm ty ngàn trùng.

Đũa thần dẫn lũ âm hồn,

Đêm sương tăm tối lạnh lùng tiếng chim.

Từ muôn lỗ tối hang đen,

Cánh dơi thấp thoáng bóng đêm chập chàng.

Hồn theo dơi lạnh non ngày,

Gieo chùm lá biếc, kêu than đường dài.

Thoáng sao băng vượt trời mây,

Qua truông rừng thẳm, vượt bay sóng ngàn. (11560)

Vượt qua sóng cả Đại Dương,(Océan)

Vượt đá Liêu Cát, cửa Thần Thái Ô,(Leucade, Hélios)*

Vượt sông Xích Tích thuyền đò,(Styx)

Đến đồng lan dại, tr(a)́ng bờ lao thưa.

Nơi đây tạm nghỉ hồn vừa,

Mới lìa trần thế đợi chờ Phán Quan.

Phán Quan đây hồn An Sinh,(Achille)

Pê Lê tôn tử lẫy lừng thành Troa.(Pélée)

Ban Tuấn, An Thi Lộc hầu kề,(Patrocle. Antiloque)

Dũng tướng An B(a)́c cũng về gần bên,(Ajax) (11570)

Quan mới An Gia Đại Vương,(Agamemnon)

An Lê tôn tử chết cùng đớn đau,(Atrée)

Về đây cũng được ngôi cao,

Xét hồn kẻ chết mới vào cõi âm.

Hồn An Sinh mới hỏi rằng :

An Lê tôn tử, lạ chăng chốn này,

Nghĩ rằng ngài chẳng về đây,

Mà về cõi Dớt trời mây sấm rền.

Biết bao dũng tướng can trường,

Hịch truyền dưới trướng công thành vua Troa. (11580)

An Kinh gian khổ vô bờ,

Danh ngài mang chiến công to hàng đầu.

Vì đâu ngài chết thương đau,

Chẳng nơi chiến trận thành cao kiêu hùng.

Chết ngày về giữa quang vinh,

Than ôi ! số phận đã dành đớn đau.

Dân Bạt Na Liên xây mộ cao,(Parnachéens)

Con ngài tận hưởng biết bao gia tài.

Nhớ thương minh đế tuyệt vời,*

Mà riêng định mệnh về nơi cõi này. (11590)

An Lê tôn tử tỏ bày :

Pê Lê tôn tử, phúc thay anh hùng,

An Sinh dũng tướng như thần,

Vinh quang được chết chiến trường thành Troa.

Xa Đạt Quốc chốn quê nhà, (Argos)

Hai bên dũng tướng xông pha trận tiền.

Thây ngài một trận tranh giành,

Bụi tung mù mịt, ngựa hồng vó bay.

Giáp thương lâm chiến ngày ngày,

Đấu tranh tận lực, chẳng tay nào ngừng. (1160)0)

Nếu Thần Dớt tự Thiên Đình,(Zeus, Olympe)

Chẳng dâng mưa bão tối sầm trời mây.

Chiến thuyền hậu cứ mang thây,

Ướp hương t(a)́m rửa giường bày hoa thơm.

Tướng, quân lệ nóng ngập tràn,

Bứt tai, bức tóc thương trang anh hùng.

Mẹ ngài từ chốn thủy cung,

Và bao tiên nữ về trần tiễn đưa.

Sóng gào, gió thét phong ba,

Tiếng thương đứt ruột xót xa lạnh lùng. (11610)

Quân binh hoảng sợ ẩn mình,

Ninh Tô vương lão lược kinh chuyện đời,(Nestor)

Trấn an binh sĩ truyền lời,

Chớ nên bỏ trốn hỡi người An Kinh.

Ấy là thân mẫu An Sinh,

Cùng tiên nữ chốn thủy cung đến rồi.

Dự tang lễ của con trai,

Tướng quân nghinh tiếp mẹ ngài quanh thây.

Hai hàng tiên nữ lễ bày,

Khóc cùng thân mẫu, gào lay sóng ngàn. (11620)

Phủ thây ngài áo thần tiên,

Chín nàng Thi nữ tiếng thanh tuyệt vời,(Muses)*

Hát lời Mộ Khúc tặng ngài,*

Lời thơ cảm động người người lệ sa.

Giao âm thương cảm chan hòa,

Lời thanh như suối thấm qua tâm hồn.

Khóc thương mười bảy ngày đêm,

Từ thần tiên đến người trần thế gian.

Ngày mười tám đốt lửa đàn,

Bò cừu c(a)́t cổ tế sinh lễ bày. (11630)

Áo thần tiên cháy cùng thây,

Bao mùi hương mật thơm bay dịu dàng,

Chung quanh tướng sĩ anh hùng,

Giơ cao vũ khí, dậy lừng tiếng vang.

Vang cùng Thần tử Hỏa Sơn

Đến khi rạng sáng lửa tàn lượm xương,

Đựng trong rượu cất ướp hương,

Mẫu thân ngài tặng hủ chum bằng vàng.

Do Thần Hoả Thái gia công,(Héphaistos)

Rượu Tửu Thần cất ướp cùng với xương,(Dionysos) (11640)

Quân vương nghi lễ đã dành,

An Sinh dũng tướng tài danh anh hùng.

Mai Tuấn tôn tử bạn hiền,(Ménoetios)

Ban Tuấn dũng tướng trận tiền xã thân.(Patrocle)

An Thi Lộc tử trận anh hùng,(Antiloque)

Một nơi yên nghỉ chung cùng với nhau.

Dựng trên một nấm mộ cao,

Trên đồi nhìn xuống lao xao sóng ngàn.

Hoan Lạc Cầu chốn anh hùng,(Hellespont)

Vẫn còn mãi mãi trong lòng nhân gian. (11650)

Mẫu thân ngài lễ cầu thần,

Lễ hội vinh dự đua tranh đấu trường.*

Thi đua dũng sĩ An Kinh,

Anh hùng rạng rỡ vinh danh nhớ ngày.

Thao trường lễ hội cuộc thi,

Tinh thần mã thượng định kỳ hàng năm.

Giải trao Thê Túc nữ thần,

Hiệu danh Ngân Túc, cõi trần vinh quang.*

An Sinh dù có tử vong,

Tên anh hùng vẫn ngàn năm nhớ hoài. (11660)

Còn riêng số phận của tôi,

Được gì chiến th(a)́ng sáng ngời vinh quang ?

Dớt cho số phận bẽ bàng,

Chết vì Âu Thích, vợ cùng gian dâm.(Egisthe)

Hai vị Phán Quan cõi âm,

Còn đang tâm sự, một đoàn đến nơi.

Đạt Duy Phong lệnh dẫn vời,(Hermès Argiphonte)

Bọn cầu hôn mới chết nơi cõi trần.

Bởi phe Uy Lĩnh và con,

Hai Phán Quan đã ngạc nhiên sự tình. (11670)

Nhận ra Âm Phi Mê Đông,(Amphimédon)

Công tử Mê Lăng Nhược vốn từng biết quen.(Mélenneus)

Từng nơi An Thạch tiếp tân,

Tôn tử An Trích đầu tiên hỏi lời :

Âm Phi Đông cớ sự gì ?

Một đoàn công tử cùng đi Âm tuyền.(Hadès)

Trai anh hào tuổi thanh niên,

Chết cùng một chốn thị thành, lạ chưa ?

Hải Long Vương đ(a)́m thuyền bè ?

Gió to sóng dữ hồn về cõi âm ? (11680)

Hay nơi đất địch cướp giành,

Cừu bò, phụ nữ ra thân bại tàn ?

Riêng người có nhớ ta chăng ?

Ngày xưa ta đã từng thăm nhà người.

Đáp thuyền, An Thạch đến nơi,

Cùng Mai Ninh Lạc cầu người hùng anh.(Ménélas)

Mời vua Uy Lĩnh ra quân,

Ý Long thẳng tiến vây thành vua Bi Am.

Hồn Âm Phi Đông mới rằng :

An Lê tôn tử, An Gia Vương vua người. (11690)

Tôi xin kể hết đôi lời,

Nỗi lòng chân thật, sự đời tang thương.

Uy Lĩnh v(a)́ng tin bao năm,

Ngỡ rằng đã chết, nên cùng cầu hôn,

Nàng Nhã Lan chẳng chối lòng,

Cứ tìm duyên cớ mà lần lừa thôi.

Nàng đầy kế giết chúng tôi,

Trăm người chẳng thoát tay nơi Tử thần.

Nàng căng khung cửi trong phòng,

Ngày đêm dệt một tấm khăn sô dài. (1170)0)

Nàng đà bảo với chúng tôi,

Bao trang công tử có lời cầu hôn,

Uy Lĩnh không biết sống còn,

Nhưng tôi còn dệt tấm khăn liệm này,

Vua ông Lã Đạt còn đây,

Sức già chẳng biết một ngày nào đi.

Phận làm dâu ở phải thì,

Lời kia tiếng nọ bảo chi ham tiền.

Chúng tôi chiều ý lời rằng,

Vì lòng cao thượng cưu mang đợi nàng. (11710)

Ngày nàng dệt, đến đêm sang,

Chẳng ai, nàng th(a)́p đuốc hồng tháo ra.

Ba năm dằng dẵng thế là,

Có nàng thị nữ báo ra tin này.

Chúng tôi canh gát đêm ngày,

Tấm khăn thô liệm chóng chày vừa xong.

Đẹp long lanh tựa ánh trăng

Thì là đúng lúc có Thần xấu tâm,

Đã mang Uy Lĩnh về cùng,

Đến nơi Gềnh Quạ trại chăn lợn này. (11720)

Con trai Uy Lĩnh cùng đi,

Phi Lô rồi trở về thì gặp cha.

Cha con bàn tán mưu là,

Tàn sát những kẻ đến nhà cầu hôn.

Đi trước Viễn Mạc về thành,

Uy Lĩnh theo gót giả thân ăn mày,

Quản trại heo cũng cùng đi,

Già nua chống gậy lầm lì thảm thương.

Thình lình xuất hiện trong phòng,

Già hơn Uy Lĩnh, chẳng nhìn được ra. (11730)

Thế rồi kẻ đuổi người xua,

Kẻ đánh, người m(a)́ng trong nhà nào hay.

Uy Lĩnh nhẫn nại mưu dày,

Dớt đà định phận giúp tay ý đồ.

Thế Viễn Mạc cất vào kho,

Tất cả vũ khí treo cao vách phòng.

Nàng Nhã Lan mang nõ cung,

Bảo rằng thi b(a)́n nỏ tên chọn chồng.

Chúng tôi thử sức thay phiên,

Chẳng ai giương kéo được cung nỏ này. (11740)

Uy Lĩnh xin thử b(a)́n thay,

Chúng tôi phản đối, ăn mày chớ trao.

Thế Viễn Mạc quyết định vào,

Âu Mê cầm chiếc nỏ cho chủ mình.

Uy Lĩnh cầm nỏ giương cung,

Mũi tên nhanh chóng b(a)́n xuyên hàng rìu.

Rồi từ nơi ngưỡng cửa cao,

Uy Lĩnh nh(a)́m b(a)́n tên vào đám đông,

M(a)́t nhìn căm hận trừng trừng.

Trúng Án Tinh Lộc lăn đùng trước tiên. (11750)

Uy Lĩnh cởi áo xưng tên,

Mũi tên như sáo rít lên lạnh lùng.

Người cầu hôn ngã chất chồng,

Tôi còn thấy một vị Thần tiếp tay.

Hết tên đến giáo thương bay,

Cầu hôn ngã gục phòng đầy tiếng rên.

Trúng tim, trúng sọ máu tràn.

Chúng tôi đã chết đau thương trong phòng.

Còn đây xin thưa Đại Vương,

Lầu trang Uy Lĩnh, thây còn chưa chôn. (11760)

Thân nhân chưa biết hay tin,

Đến lau máu đỏ vết thương, cuối cùng,

Khóc than thương tiếc người thân,

Phút giây vĩnh biệt tử vong kiếp người.

Hồn Phán Quan xử một lời :

Phúc thay Uy Lĩnh vốn người nghìn mưu.

Xứng danh người vợ thương yêu,

Tấm lòng trung chính không điều bợn nhơ.

Nhã Lan nương tử Anh Cơ,(Pénélope Incarios)

Tấm lòng trinh tiết đợi chờ chồng xa. (11770)

Khả phong tiết hạnh hẵn là,

Thần ban cho một bài ca tuyệt vời.

Chẳng như nương tử Tinh Đa tôi,(Tyndare, Clétemnestre)

Thông dâm kẻ địch cướp ngôi, giết chồng.

Ô danh muôn thuở thế gian,

Nghìn năm soi mãi việc làm cười chê,

Các ngươi cõi chết trở về,

Tà tâm, tội lỗi chớ hề trách ai.

Tự mình chuốc oán mà thôi,

Tự mình mua lấy tiếng cười thế gian. (11780)

Chẳng nghe lời kẻ khuyên răn,

Thì nay Địa ngục tối tăm đời đời.
 
 

Nói về An Thạch cõi người,

Một đoàn Uy Lĩnh rời nơi thị thành,

Vượt qua rừng suối đến đồng,

Trang trại Lã Đạt cây trồng tươi xanh.

Ngôi nhà giữa n(a)́ng vây quanh,

Trại vườn, tôi tớ chăm trồng thảnh thơi.

Vua ông, hầu cạnh một người,

Si Chi Liên lão phụ một đời chăm nom.(Sicilienne)* (11790)

Uy Lĩnh vội nói với con,

Cùng hai quản trại lo tròn tiệc vui :

Thịt con heo béo đãi người,

Phần cha muốn thử ông thời có hay.

Xem ông có nhận ra ngay,

Đứa con xa cách, ngày ngày hằng trông..

Nói rồi cởi giáp trao thương,

Rồi thong dong thẳng ra vườn tìm cha,

Quản gia chẳng có ở nhà,

Đỗ Quốc cùng các con ra ngoài đồng. (Dolios) (1180)0)

Đi tìm chặt bụi xương rồng.

Về làm rào dậu bên vườn trồng rau.

Thấy cha ở cuối vườn sau,

Cầm mai vun một gốc đào nở hoa.

Áo quần lấm đất bụi nhơ,

Găng đen rách, mũ da dê trên đầu.

Trong lòng bao nỗi thương đau,

Chẳng buồn ăn mặc, lòng nào nhớ con.

Dưới cành lê nước m(a)́t tràn,

Uy Lĩnh thầm hỏi, chạy liền đến ngay. (11810)

Ôm cha hôn nước m(a)́t đầy,

Quê cha đất tổ, hôm nay con về,

Hay là thận trọng giả vờ,

Thử lời cha khỏi bất ngờ ngất đi.

Uy Lĩnh đi thẳng đến ngay :

Cụ già ơi ! có lời này hỏi thăm,

Mảnh vườn tươi tốt sóc chăm,

Táo, lê, nho, vả cây cành tốt tươi,

Vườn xanh ngược với con người,

Chẳng buồn chăm sóc, tả tơi áo quần. (11820)

Dáng người, vua ở trên trần,

Gia nhân đâu chẳng lo chăm sóc người ?

Người đang làm việc cho ai ?

Nói cho tôi biết đâu nơi đất này ?

An Thạch có phải là đây ?

Như kẻ tôi gặp chỉ tay trả lời.

Tôi đi tìm kiếm một người,

Năm xưa đã đến nhà tôi nghĩa tình.

Tiếp tân hậu đãi kết thân,

Xưng quê An Thạch vốn dòng cao sang. (11830)

Xưng cha Lã Đạt là tên,

Đạt Kinh Quốc tôn tử vua trên đất này.(Arcisios)

Người cha mừng trả lời ngay,

M(a)́t rơm rớm lệ lòng đầy nhớ thương :

Khách ơi, đúng xứ người tìm,

Cung đình bị chiếm bởi phường kiêu quân,

Nhưng tôi muốn hỏi người rằng :

Khách kia người đã gặp bao năm rồi ?

Ấy là con trai của tôi,

Xa quê hương kh(a)́p đất trời lang thang. (11840)

Biển sâu cá rỉa, có còn ?

Hay muôn cầm thú xác ăn chiến trường ?

Mẹ không liệm được tấm khăn,

Cha còn thương khóc nỗi lòng nào vơi !

Vợ hiền than thở thương hoài,

Không ai vuốt m(a)́t cho người thương yêu !

Hỏi người quê quán, họ tên,

Xứ nào người đã đi thuyền đến đây ?

Hay là đi hộ thuyền ai ?

Uy Lĩnh bịa đặt, trả lời xót xa : (11850)

Tôi danh hiệu A Li Ba,(Alybas)

Vốn trong cung điện ngọc ngà giàu sang.

Con vua A Phi Đạt giống dòng,(Aphidas)

Bồ Ly Môn tôn tử bao năm trị vì.(Polypémon)

Âu Phi Tích hoàng tử tên tôi,(Épérite)

Si Ca Ni xa xứ, ngược xuôi giang hồ.(Sicanie)

Thuyền tôi vừa cặp bến bờ,

Bên bờ biển v(a)́ng ghềnh nhô sau đồng.

Cách đây chừng đã bốn năm,

Có chàng Uy Lĩnh đến thăm quê nhà. (11860)

Kết tình, kết nghĩa bạn xa,

Hẹn ngày An Thạch đi qua thăm chàng.

Vua Ông Lã Đạt đau buồn,

Lòng như một đám mây vương tối sầm.

Đôi tay bám cát bụi đen,

Ôm đầu bạc khóc, thở than bồi hồi.

Tim chàng se th(a)́t: Cha ơi !

Đ(a)́ng cay, chua xót, nỡ lời dối dang.

Ôm hôn cha nước m(a)́t tràn :

Con đây cha đã bao năm mong chờ, (11870)

Hai mươi năm v(a)́ng xa quê,

Cha ơi, con đã trở về hôm nay,

Cha ơi, ngừng khóc thương này,

Để con nói chuyện tin ngày đoàn viên.

Con đà giết bọn cầu hôn,

Trả thù mối nhục oán hờn bao năm.

Trừng phạt tội ác chúng làm,

Chúng đà tiêu diệt ở nơi cung đình.

Vua Ông mờ m(a)́t ngước nhìn:

Con tôi Uy Lĩnh, phải con về nhà. (11880)

Cho cha bằng cớ ch(a)́c là..

Uy Lĩnh đứng dậy vén ra chân trần:

Đây là dấu thẹo heo rừng,

Ngày xưa quê ngoại đã từng đi săn.

Vườn này cây trái thơm lành,

Cha cho con những gốc cành ngày thơ.

Cho con mười ba cây lê,

Và mười cây táo xum xuê trong vườn.

Bốn mươi cây vả xanh um,

Năm mươi hàng gốc nho chùm tốt tươi. (11890)

Vua ông Lã Đạt nghe lời,

Ôm hôn con luống bồi hồi yêu thương :

Phép mầu Thần Dớt vạn năng,

Và bao thần chốn Cung Đình Thiên Sơn,

Đã trừng phạt bọn cầu hôn,

Nhưng lòng cha, nỗi lo còn giờ đây.

Thân nhân của chúng giờ này,

Hay tin ch(a)́c sẽ đến đây trả thù.

Uy Lĩnh trấn an lo âu :

Con đà lo liệu việc dù xãy ra. (1190)0)

Bây giờ ta hãy vào nhà,

Tiệc vui con đã bảo gia nhân rồi,

Bữa ăn nhanh chóng ngày vui.

Cha con thong thả vào nơi nhà vườn.

Gia nhân đã c(a)́t thịt xong,

Rượu thơm nêm ướp đang vần lửa than.

Vua ông sung sướng ngập tràn,

Lão tỳ t(a)́m rửa, xoa hương, khăn choàng.

Quán Trí Thần nữ hiện bên,

Hóa thêm sức lực, m(a)́t tròn sáng trong. (11910)

Mặc y trang bước khỏi phòng,

Vua ông như một thiên thần giáng lâm.

Uy Lĩnh sững sốt mừng rằng :

Ch(a)́c là cha được các thần hộ cho,

Oai nghiêm bóng dáng thanh cao.

Vua ông Lã Đạt cười to hài lòng :

Ta từng chỉ đạo đánh thành,

Chiếm Nê Ri Cốt vang danh anh hùng,(Néricos)

Lẽ nào quỳ gối được chăng,

Bên con gươm giáo ta tròn lòng vui. (11920)

Nói rồi oai vệ vào ngồi,

Cùng con mở tiệc, mọi người nâng ly.

Đỗ Quốc về đến tức thì,

Sáu con trai cũng về, đi từ đồng.

Bước nhìn Uy Lĩnh bàng hoàng,

Sững sờ sung sướng, m(a)́t tràn yêu thương.

Già ơi, hãy đến ngồi cùng,

Lâu rồi ta chẳng ngồi chung một bàn.

Đỗ Quốc nâng lấy tay chàng,

Ôm hôn lòng cũng ngập tràn sướng vui. (11930)

Thần ban hạnh phúc cho tôi.

Rằng Nhã Lan đã biết rồi hay chưa ?

Cậu về đây, có về nhà..

Chàng cười : Nàng biết, rằng già khỏi lo.

Các con Đỗ Quốc cùng vô,

Rồi bên Uy Lĩnh đùa nô tiệc mừng,
 
 

Nói về tin tức ngoài thành,

Tin cầu hôn chết lan nhanh phố phường.

Thân nhân tìm đến cung đình,

Mang về thi thể, quây quần tang ma. (11940)

Người các thành phố đảo xa,

Xuống thuyền ngư phủ, đưa qua quê nhà.

Thân nhân hội An gô ra,

Cầm đầu Âu Phi Thệ, người cha oán hờn,(Eupithès)

Trong lòng đau xót đứa con,

Án Tinh Lộc đã trúng tên phát đầu, (Antinoos):

Các bạn ơi bao khổ đau,

Con người này đã mang bao thảm sầu.

Đem bao người bước xuống tàu,

Binh thuyền tan tác, thương đau tràn trề. (11950)

Nay về giết hại gớm ghê,

Thanh niên công tử, chẳng hề xót xa.

Nỗi lòng nhục nhã chúng ta.

Hãy mau rửa nhục, mới là xứng danh.

Chớ nên để h(a)́n nhanh chân,

Phi Lô, Âu Lịch vượt thuyền trốn đi,(Pylos, Elide)

Nói rồi m(a)́t lệ sầu bi,

Thân nhân nghe cũng lâm ly cảm sầu.

Mê Đông, Phù Minh đến mau,(Médon Phémios)

Ngừng chân kinh ngạc, ồn ào đám đông. (11960)

Mê Đông khôn khéo mới rằng :

Toàn dân An Thạch nghe chăng điều này,

Các thần chẳng thuận giúp tay,

Thì Uy Lĩnh chẳng th(a)́ng đây trăm người.

Chính tôi thấy một thần rồi,

Giúp cho Uy Lĩnh, hình hài Mạnh Tô.(Mentor)

Khi khuyến khích khi reo hò,

Đánh bạt thương phóng, thét to kinh hoàng.

Người người ngã rụng như sung.

Mọi người nghe nói tái xanh hoảng hồn. (11970)

Hải Linh Công lão anh hùng,(Halithersès)

Mạc Tô tôn tử khôn ngoan cất lời :(Mastor)

Toàn dân An Thạch nghe tôi,

Tôi từng tiên đoán việc thời tương lai,

Khi điềm chim đánh nơi này,

Lời tôi khuyên bảo, việc nay rõ ràng.

Tôi từng tiên đoán rành rành,

Chớ nên chèn ép, chớ tranh vợ người.

Ăn bòn, mưu chực dành ngôi,

Một người cao trọng, đất trời vinh quang.

Không tin tiên đoán tôi bàn,

Mạnh Tô khuyên bảo, chẳng xem ra gì. (11980)

Bây giờ tai họa là đây,

Kẻ làm nên tội phận này tang thương.

Bây giờ nghe tôi bảo khuyên,

Chớ chống Uy Lĩnh mà tan cuộc đời.

Người làm sằng bậy chết rồi,

Chớ nên theo bước họa tai thân mình.

Nghe lời khuyên nhủ rành rành,

Nửa phần An Thạch thuận tình thẳng ngay.

Reo hò bỏ quảng trường đi,

Nửa phần còn lại siết tay trả thù. (11990)

Lời ngay chẳng thấm lòng đau,

Nghe Âu Phi Thệ dẫn đầu đấu tranh.

Võ trang áo giáp, thương đồng,

Trước sân thành rộng ra quân sẵn sàng.

Âu Phi Thệ bước khỏi hàng,

Ngỡ rằng trả được dễ dàng thù con.

Ngờ đâu định mệnh thảm thương,

Thù con chẳng trả, cũng không đường về.
 
 

Thiên đình Thần nữ A Tê Nê,

Hỏi cha Thần Dớt liệu bề xem sao : (12000)

Cha ơi phân xử thế nào ?

Để cho trận chiến tiêu hao mạng người ?

Oán thù chồng chất nơi nơi,

Hay là hòa giải thuận thời hai bên ?

Thiên Sơn, Thần Dớt phán truyền :

Con ơi, sao lại hỏi thêm lời này.

Con đà quyết định lâu nay,

Uy Lĩnh về nước thẳng tay trị trừng,

Hãy làm theo ý của con.

Riêng ta thù oán chẳng nên kéo dài. (12010)

Uy Lĩnh thù đã trả rồi,

Hai bên nên kết lời thôi oán hờn.

Lập đàn trang trọng thề nguyền,

Ngôi vua Uy Lĩnh trị dân nối đời.

Oán hờn lầm lỗi chết rồi,

Chết vào quên lãng, tình người lại sinh.

Uy Lĩnh trị dân công minh,

Nước nhà giàu có, thanh bình nở hoa.

Vâng lời Thần nữ bước ra,

Băng mình khỏi đỉnh tuyết sa Thiên đình. (12020)

Sau tiệc hội ngộ no lòng,

Ở nơi đồng nội cha con sum vầy,

Uy Lĩnh lên tiếng lo ngay:

Hãy mau sửa soạn đối tay quân thù,

Chẳng còn xa chúng ta đâu.

Một con Đỗ Quốc theo câu lệnh truyền,

Trở về báo cáo cho tin :

Đoàn quân nổi loạn đến gần chúng ta.

Hãy mau mặc giáp thương ra.

Uy Lĩnh thúc dục cả nhà nhanh chân. (12030)

Bốn người Uy Lĩnh sẵn sàng,

Sáu con Đỗ Quốc giáp khiên thương dài.

Đỗ Quốc, Lã Đạt kém ai,

Tóc dù bạc tr(a)́ng cũng oai anh hùng.

Một đoàn tiến bước đấu tranh,

Dẫn đầu Uy Lĩnh bước chân kiên cường,

Quán Trí Thần nữ hiện bên,

Hóa Mạnh Tô bước lại gần mừng vui.

Thấy trông Uy Lĩnh tươi cười,

Nhìn Thế Viễn Mạc nói lời khuyên răn : (12040)

Thế Viễn Mạc hỡi nhớ rằng,

Xông pha gan dạ xứng danh con nhà,

Chẳng làm hổ thẹn ông cha,

Kiên cường dũng cảm mới là hùng anh.

Tiếng danh con giống cháu dòng.

Thế Viễn Mạc khẽ nói rằng : Cha ơi !

Rằng con ước nguyện trong đời,

Kiên cường dũng cảm nên người như cha.

Chẳng làm hổ thẹn danh nhà,

Giống dòng anh dũng mới là vinh quang. (12050)

Vua ông Lã Đạt vui lòng :

Phúc thần mới có ngày lành hôm nay.

Lòng ta hạnh phúc vui thay,

Cháu con cùng một tình này như ông.

Kiên cường cùng một giống dòng.

Quán Trí Tuệ M(a)́t Cú thần tinh anh,

Bên vua Lã Đạt mới rằng :

Đạt Kinh Quốc tôn tử tình thân nhất đời,

Bao năm cầu nguyện ngày vui,

Trinh Thần M(a)́t Cú tinh ngời giúp cho. (12060)

Hôm nay quyết định cơ đồ,

Hãy vươn đôi cánh tay cho vững vàng,

Phóng thương trúng đích một đường.

Nói rồi Thần nữ phép thêm nhiệm mầu.
 
 

Hai bên giáp trận đối nhau,

Trường thương, khiên giáp kiếm đao sẵn sàng.

Vua ông cầu nguyện Nữ thần,

Rồi nhanh tay phóng ngọn thương mở đầu.

Âu Phi Thệ chưa nói sao,

Mũ đồng rơi, ngọn thương lao qua mình. (12070)

Tung tay khiên kiếm đổ ầm,

Hàng đầu Uy Lĩnh tung mình xông pha,

Thế Viễn Mạc chẳng kém cha,

Thương bay, giáp đổ kiếm hoa m(a)́t người.

Bên phe nghịch rối tơi bời,

Quán Trí Tuệ bổng thét lời : Ngừng tay!

Rồi Thần nữ hiện hình ngay:

Hỡi dân An Thạch ngừng tay nghe lời .

Chiến tranh thảm họa muôn đời,

Hãy thôi máu đổ, dứt đời điêu linh. (12080)

Mọi người kinh hãi sợ run,

Vất gươm quỳ gối dưới chân nữ thần.

Sấm đâu bỗng nổ ầm ầm,

Khói bay mù mịt, chớp giăng kinh hoàng.

Thần Dớt tung sấm bên con,

Làm cho kiếp đảm kinh hồn thế gian.

Kẻ thù Uy Lĩnh quay lưng,

Vất gươm tung chạy tháo thân về thành.

Kẻ thì luống cuống chỉ còn,

Cúi đầu quỳ gối, xin chàng thứ tha. (12090)

Uy Lĩnh hùng dũng, tiếng la,

Chuyển rung mặt đất như là chim ưng.

Cất tung cánh vỗ nghìn trùng,

Ra tay thu trận giáp binh mang về,

Tinh anh Thần nữ A Tê Nê,

Đến bên Uy Lĩnh vỗ về khuyên răn :

Giống dòng Lã Đạt vinh danh,

Mưu thần Uy Lĩnh an lành trị dân,

Chớ nên để mãi chiến tranh,

Hận thù chồng chất sẽ không yên nào. (1210)0)

Thiên Đình Thần Dớt ngôi cao,

Muốn người đời dứt binh đao thái bình.

Hãy mau mở hội toàn dân,

Ban ân, ban phúc, tội tình thứ tha.
 
 

Nghe lời Uy Lĩnh truyền loa,

An Thạch mở hội kết hoa thề nguyền :

Quán Trí Tuệ đứng hiện bên,

Cùng Mạnh Tô chứng hiệp thương lòng thành,

Từ đây An Thạch thái bình,

Vẫn còn lưu mãi tiếng danh đời đời. (12110)
 
 

HẾT
 
 

CHÚ THÍCH:

11562 Thời Cổ Đại Hy Lạp chỉ biết vùng Địa Trung Hải. cho rằng ra khỏi eo biển Maroc, Tây Ban Nha là đến cõi thần Hadès, Địa Ngục.

11589 Agamemnon là vua các vị vua Hy Lạp. Hy Lạp thời Cổ Đại mỗi vùng có một vị vua. Khi có chiến tranh họ liên minh với nhau dưới sự chỉ một vị vua hùng mạnh nhất.

11622. Chín nàng Muses: Theo thần thoại Hy Lạp các nàng tên : Calliope, Clio, Erato, Euterne, Malpomène, Pothymnie, Terpsichore, Talie và Uranie. Năm nàng cai quản Văn Thơ là :

- Nàng Calliope (Kiều Thi Cơ) cầm đàn lyre truyền thi hứng cho sử thi, anh hùng ca, truyện thơ, thơ tự sự và diễn thuyết.

- Nàng Erato (Âu Ca Thơ) cầm đàn cithare truyền thi hứng cho thơ mỹ tình dục.

- Nàng Euterne (Âu Thạch) cầm sáo truyền thi hứng cho thơ trữ tình.

- Nàng Pothymnie (Bồ Thanh Ni) trầm tư mặc tưởng truyền thi hứng cho thơ tán mỹ (hymne), nhã ca (cantique) và kịch câm (pantomime)

- Nàng Thalie (Thanh Ly) cầm cây gậy cong mục đồng và chiếc mặt nạ truyền thi hứng cho thơ trào phúng, thơ du mục, ca dao và hài kịch.

- Nàng Tersichore(Thạc Chi Cơ) cầm đàn lyre truyền thi hứng cho nghệ thuật ca múa.

- Nàng Clio(Ly Ô) Cầm tấm thẻ truyền thi hứng cho sử học.

- Nàng Melpomène(Mai Bô Minh) cầm mặt nạ Héraclès truyền thi hứng cho bi kịch.

- Nàng Uranie (Uy Ca Ni) cầm quả địa cầu truyền thi hứng cho thiên văn học.

Chín nàng đều là con của Thần Zeus và Nữ Thần Mémosyne(Ký Ức)

Nàng Calliope thường vẽ sánh đôi với Thần Apollon cầm đàn lyre hay đàn cithare là vị Thần của nghệ thuật và âm nhạc. Các thần và Thi Nữ thường họp nhau trên đỉnh núi Mont Parnasse, hay bên dòng suối Hypokren. Thần thoại kể lại Thần Zeus say đ(a)́m ân ái với Nữ Thần Ký Ức suốt chín đêm, sau đó Nữ Thần sinh ra chín quả trứng, sinh chín nàng Thi Nữ, được Zeus trao nhiệm vụ cùng Apollon chăm lo đời sống tinh thần của Thế giới Olympe và Thế giới loài người. Các nàng Muses thường ca múa trong tiệc các Thần , Paris có khu Monparnasse là nơi nhiều văn thi sĩ danh tiếng tụ họp lấy từ tích này..

Thần Nữ Ly Tao; Ly Tao có nguồn gốc từ tác phẩm Ly Tao của Khuất Nguyên nước Sở thời Xuân Thu về sau được gọi chung cho thi ca.

11623. Mộ Khúc : khúc hát tưởng niệm người quá cố.

11668. Mẹ Achille là Nữ thần Thétis Thê Túc, con Thần Biển chốn thủy cung, có danh hiệu Ngân Túc, Chân Bạc. Jeux Olympic có nguồn gốc từ Héraclès, nhưng theo Homère có nguồn gốc từ tưởng niệm Achille.

11790. Sicilienne người đảo Sicile, nước Ý ngày nay.

Chương cuối cùng này nhiều tác giả từ Aristarque đến V Bérard nghi ngờ rằng là được người đời sau thêm vào, nhất là đoạn Thần Hermès dẫn hồn bọn cầu hôn xuống Địa ngục. Họ nêu những lý do sau :

- Hermès , thần cõi Cyllène dẫn hồn người chết, không có một đoạn nào trong các chương khác trong hai sử thi Odyssée và Iliade gọi Hermès là thần cõi Cyllène, cầm đũa vàng dẫn hồn xuống Hadès.

- Chín nàng Muses khóc thương Achille. Homère trong các đoạn khác chỉ nói có một Muse duy nhất là con gái Nữ Thần Ký Ức.

- Đoạn đối thoại giữa Phán Quan Achille và Agamemnon, có điểm khó tin, tại sao lại phải đợi hai mươi năm sau mới gặp nhau mới kể.

- Uy Lĩnh gặp lại cha việc gì phải bịa chuyện dài dòng. người dịch rút ng(a)́n lại và thêm chi tiết Ulysse sợ cha xúc động quá có thể nguy cho tính mạng, nên bịa chuyện hỏi han rồi mới nói sự thật.

- Đoạn đối thoại giữa Athéné và Thần Zeus là chuyện vô bổ.

- Đoạn đối thoại giữa Ulysse, Télémaque và vua ông Laerte về lòng can đảm khá buồn cười.

- Trận đánh cuối cùng khá tóm lược và thiếu tình tiết tâm lý.

Tóm lại các tác giả trên cho rằng chương cuối cùng thiếu mạch lạc và kém cõi hơn các chương trước.

DỊCH GIẢ

TS PHẠM TRỌNG CHÁNH bút hiệu Nhất Uyên sinh năm 1951 tại Phan Thiết. Hiện sống và hưu trí tại Paris. Viết nghiên cứu, vẽ tranh sơn dầu, tạc tượng điêu kh(a)́c làm thú tiêu khiển. Làm thơ, viết văn khi còn học Trung Học. cộng tác với Tạp chí Thời Nay Sài Gòn, Ban Mây Tần, chương trình thơ của Kiên Giang Hà Huy Hà, Đài Phát Thanh Sài Gòn. Du học tại Louvain Bỉ năm 1970) ngành Kinh Tế, sang Paris năm 1973 vừa làm vừa học, làm việc phụ tá họa sư Lê Bá Đảng và học đại học ngành Kinh Tế Xã Hội, học thêm Việt Học với Gs Lafont, Gs Nguyễn Trần Huân tại EPHE. Sorbonne, học Trung Văn tại Đại Học Paris 7, học nhạc với Gs Trần Văn Khê. Tốt nghiệp ngành Kinh Tế Giáo Dục với Giáo sư Michel Debauvais (nguyên Viện Trưởng Viện Quốc Tế Kế Hoạch Giáo Dục Unesco) tại trường EHESS, Tốt nghiệp Tiến sĩ Khoa Học Giáo Duc Viện Đại Học Paris Sorbonne, năm 1980), luận án dưới sự hướng dẫn Giáo Sư Lê Thành Khôi. Kết thân cùng Huy Cận những năm 1980) ông thường sang Paris. Thơ được Huy Cận viết tựa và xem như bạn thơ tri âm tri kỷ. Xuân Diệu năm 1981 sang Paris ký thác toàn bộ di cảo tâm sự để soạn Tự Điển Tình Yêu Bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Nối tiếp các công trình nghiên cứu GS Hoàng Xuân Hãn về Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du . Bản dịch thơ lục bát Odyssée hoàn tất năm 2005 và Iliade năm 2010), nhuận s(a)́c lại năm 20)20).

Tác phẩm: Chiêm Bao Tr(a)́ng. Thơ, Sàigon 1969. Bóng Thời Gian. Thơ Nhất Uyên và Nguyễn Đăng Hưng nxbThanh Long Bruxelles 1973. Thời Gian Ta Mãi Mãi Còn Xanh Thơ Nhất Uyên và Nguyễn Đăng Hưng nxb Hiện Diện Liège 1973. Cánh Chim Từ Vùng Lửa Đỏ. Thơ Nhất Uyên nhạc Tôn Thất Lập. HSVST Paris 1974. Công Cha Như Núi Trường Sơn. HSVST Paris 1975. Tình Khúc Mùa Xuân.nxb Bông Sen Paris19́86, Thơ Tình Nhất Uyên. Huy Cận Xuân Diệu đề tựa. Khuê Văn Paris 1985. Hồ Xuân Hương Nàng Là Ai ? Nxb Khuê Văn Paris 2001. Nguyễn Du, Mười năm gió bui và mối tình Hồ Xuân Hương nxb Khuê Văn Paris Truyện Thơ Odyssée Thi Hào Homère nxb Khuê Văn Paris 2005. Sử Thi Iliade Thi Hào Homère nxb Khuê Văn Paris. 20)11. Tự Điển Tình Yêu Bằng Thơ Tình Xuân Diệu. Khuê Văn Paris.2015.

Cộng tác với các tạp chí và các site trong và ngoài nước: hàng trăm bài viết trên Tạp Chí Văn Hoá Nghệ An, Nghiên Cứu Lịch Sử, Chim Việt Cành Nam. Diễn Đàn Thế Kỷ, Giao Điểm, Đông Tác, Khoa Học Net. Sài Môn Thi Đàn, Làng Huệ,..